Thời gian nằm viện trung bình là 29 ± 16
ngày, dài nhất là 83 ngày. Chúng tôi không đánh
giá được thời gian dùng kháng sinh vì bệnh
nhân vẫn tiếp tục dùng kháng sinh sau khi xuất
viện và hồ sơ tái khám không được lưu tại bệnh
viện. Đa số các trường hợp sử dụng kháng sinh
tĩnh mạch trong suốt thời gian nằm viện, khi
tình trạng ổn định thì chuyển sang kháng sinh
uống vài ngày trước khi xuất viện điều trị tiếp
tại nhà. Theo nghiên cứu của Chan, thời gian
điều trị kháng sinh trung bình là 28 ngày đối với
áp xe phổi nguyên phát và 45 ngày đối với áp xe
phổi thứ phát (8). Theo Yen, thời gian nằm viện
trung bình là 42 ngày và 95% sử dụng hai loại
kháng sinh trở lên (18). Trong lô nghiên cứu của
chúng tôi, có đến 26% bệnh nhi sử dụng đơn trị
liệu. Theo y văn, thời gian điều trị kháng sinh
thường từ 4 - 6 tuần (2,4,5,7,11,13). Nếu ổ áp xe được
dẫn lưu mủ tốt thì thời gian điều trị có thể ngắn
hơn. Tuy nhiên, có trường hợp phải kéo dài điều
trị đến 3 – 4 tháng để đề phòng tái phát. Tóm lại,
thời gian dùng kháng sinh cho đến khi X quang
ổn định thường trên một tháng.
26/86 bệnh nhi được thực hiện phẫu thuật,
chiếm 30,2%. Phẫu thuật được thực hiện nhiều
hơn ở nhóm có kích thước áp xe > 8 cm (p <
0,001). Tỉ lệ phẫu thuật ở các nghiên cứu nước
ngoài từ 42-61% (1,9,10,14,17,18). Lô nghiên cứu của
Minh Ái không có ca nào can thiệp phẫu thuật
trên tổng số 21 bệnh nhi(15).
Có 3 bệnh nhi tử vong, chiếm tỉ lệ 3,5%. 1
trường hợp có tiền căn bại não nhập viện trong
tình trạng mê, thở hước và tử vong 5 giờ sau đó.
2 ca còn lại đều có kết quả cấy mủ áp xe
Klebsiella spp. Tỉ lệ tử vong của hai tác giả Đài
loan là 8-18% (8,18). Một nghiên cứu tại Zimbabwe
trên 24 bệnh nhi có tỉ lệ tử vong 25%(16). Các ca tử
vong này đều có bệnh lý nền. Ở giai đoạn trước
khi phát minh ra kháng sinh, tử vong là 100%
nếu không can thiệp ngoại khoa cắt thùy phổi
(12). Không có ca nào tử vong trong lô nghiên cứu
21 bệnh nhi của Minh Ái (15). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, 31 bệnh nhi có biến chứng do áp
xe hoặc do điều trị, chiếm 34%. Có 11 trường
hợp bị tái phát áp xe phổi, 1 bệnh nhi bị thủng cơ
hoành về sau diễn tiến thành thoát vị hoành (dù
đã được vá lại trong lúc phẫu thuật áp xe) và
phải mổ tạo hình lại sau đó. Tỉ lệ biến chứng của
lô nghiên cứu của Chan là 42% (8), của Minh Ái là
38% (15). Di chứng trong lô nghiên cứu của Chan
là dãn phế quản và xơ phổi (4 ca). Chúng tôi
không rõ tỉ lệ di chứng do không theo dõi được
đa số bệnh nhi sau xuất viện.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 186 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm áp xe phổi tại bệnh viện Nhi đồng 1 và Nhi đồng 2 từ 1/2000 – 4/2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Nhi Khoa 1
ĐẶC ĐIỂM ÁP XE PHỔI TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 VÀ NHI ĐỒNG 2
TỪ 1/2000 – 4/2008
Bùi Nguyễn Đoan Thư*, Phạm Thị Minh Hồng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị áp xe phổi ở bệnh nhi nhập viện Nhi
Đồng 1 và Nhi Đồng 2 từ tháng 1/2000 đến tháng 4/2008.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: có 86 bệnh nhi (50 nữ, 36 nam), tuổi trung bình là 7 ± 4,5 tuổi. Triệu chứng lâm sàng thường gặp
là sốt, ho, khạc đàm, khạc mủ và giảm phế âm. Tổn thương áp xe 1 ổ chiếm 66%, 66% tổn thương nằm ở phổi
phải và 59% ở thùy dưới. Kích thước trung bình của ổ áp xe 5,5 ± 2,8 cm. 57% kèm theo tràn dịch màng phổi với
55% là dịch mủ có hoặc không kèm theo tràn khí. Ba loại vi khuẩn thường gặp trong các mẫu thử mủ áp xe, mủ
màng phổi, đàm và máu là Acinetobacter spp, Klebsiella spp và Staphylococcus aureus. Kháng sinh thường dùng
là Cephalosporin thế hệ ba kết hợp với Aminoglycosid, chiếm 51%. Kháng sinh được dùng nhiều khi đổi kháng
sinh lần thứ nhất là Ciprofloxacin/Pefloxacin (48%), Metronidazole (39%) và Vancomycin (29%). Quinolone +
Clindamycin/Metronidazole cho hiệu quả điều trị cao (93%), Cephalosporin III ± Aminoglycosid cho hiệu quả
điều trị thấp (35%). 16 bệnh nhi (19%) được thực hiện chọc hút mủ áp xe. 26/86 (30%) bệnh nhi được thực hiện
phẫu thuật, trong đó có 7 trường hợp đã được chọc hút mủ qua thành ngực trước đó. Phẫu thuật bao gồm cắt
thùy phổi/một phần thùy phổi và dẫn lưu áp xe. 62% được tập vật lý trị liệu hô hấp. Thời gian nằm viện trung
bình là 28 ± 15 ngày. Tỉ lệ khỏi bệnh 91%, tử vong 3,5%.
Kết luận: Áp xe phổi là bệnh không thường gặp ở trẻ em. Ngay khi chẩn đoán ra áp xe phổi, cần phối hợp
thêm kháng sinh loại có thể diệt được vi khuẩn kỵ khí. Lựa chọn đầu tiên nên là Clindamycin. Cần quyết định can
thiệp phẫu thuật đúng lúc khi điều trị nội không hiệu quả..
ABSTRACT
LUNG ABSCESS AT CHILDREN’S HOSPITAL N01 AND N02. A REVIEW FROM 1/2000 – 4/2008
Bui Nguyen Doan Thu, Pham Thi Minh Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 94 - 100
Objective: To determine epidemiologic, clinical, paraclinical features and treatment of lung abscesses in
children’s hospitals N01 and N02 from January 2000 to April 2008.
Method: case series
Results: There were 86 patients including 36 males and 50 females. The mean age was 7 ± 4.5 years old. The
common clinical signs were fever, cough, non purulent or purulent sputum expectoration and decrease of alveolar
murmur. The rate of single abscess was 66%, most of the abscesses were in right lung (66%) and in lower lobes
(59%). The mean diameter of lung abscesses was 5.5 ± 2.8 cm. Concomitant pleural effusion was seen in 57% of
the patients. Among which, empyema with or without pneumothorax was reported in 55%. Three outstanding
responsible organisms in all specimens including abscess pus, empyema fluid, sputum and blood were
Acinetobacter spp, Klebsiella spp and Staphylococcus aureus. All patients were initially treated with antibiotics,
mainly third generation Cephalosporines plus Aminoglycosides (51%). The alternative antibiotics commonly
used were Ciprofloxacin/Pefloxacin (48%), Metronidazole (39%) and Vancomycin (29%). Quinolone plus
* Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang
Chuyên Đề Nhi Khoa 2
Clindamycin/Metronidazole were regarded as an effective regimen (93%) while Cephalosporine 3rd generation
with or without Aminoglycoside presented a low efficacy (35%). Transthoracic aspiration (TTA) were obtained in
16 patients (19%). Surgical procedures were performed in 26 (30%) patients among which 7 intervened before by
a TTA. 54% of these cases underwent operative resection of lung parenchyma while the rest received an abscess
drainage. Respiratory kinesitherapy was given to 62% of cases. The mean hospital stay was 28 ± 15 days.
Complete recovery was seen in 91% of cases. There were only three patients died (3.5%).
Conclusion : Lung abscess is a rare disease in children. Clindamycin should be used as preferred agent for
pulmonary abscesses involving anaerobic bacteria. Surgical intervention should be indicated soon at failure of
medical treatment to accelerate clinical recovery.
Key words : lung abscess, children
ĐẶT VẤN ĐỀ
Áp xe phổi là ổ mủ được hình thành do nhu
mô phổi bị hoại tử sau quá trình viêm cấp do vi
khuẩn. Đây là một bệnh lý có chẩn đoán xác
định tương đối dễ dàng, dựa vào triệu chứng
lâm sàng nổi bật và hình ảnh X quang phổi đặc
trưng. Tuy nhiên, chẩn đoán được áp xe phổi
thường là trễ, khi áp xe đã chuyển sang giai
đoạn thoát mủ và có thể gây nên nhiều biến
chứng nghiêm trọng.
Hàng năm, tại bệnh viện Nhi Đồng 1 và
bệnh viện Nhi Đồng 2, tỉ lệ áp xe phổi chỉ
khoảng 0,5-1o/oo, chứng tỏ đây là một bệnh
không thường gặp ở trẻ em.
Các nghiên cứu về bệnh áp xe phổi trẻ em ở
Việt nam còn ít và từ trước năm 1990. Ngày nay,
tình hình bệnh suy giảm miễn dịch mắc phải
(HIV/AIDS) ngày càng gia tăng có thể có ảnh
hưởng đến xuất độ và đặc điểm lâm sàng của
bệnh. Ngoài ra, nhiều loại kháng sinh mới liên
tục được phát minh và bán rộng rãi. Việc sử
dụng kháng sinh mạnh ngay từ đầu có khả năng
ngăn chặn viêm phổi diễn tiến thành áp xe phổi.
Mặt khác, việc sử dụng thuốc bừa bãi tại cộng
đồng lại sinh ra đề kháng thuốc, khiến viêm phổi
dễ có biến chứng thành áp xe hơn.
Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm
xác định các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm
sàng và điều trị bệnh áp xe phổi ở trẻ em, góp
phần vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dân số chọn mẫu
Tất cả bệnh nhi được chẩn đoán áp xe phổi
lúc xuất viện tại bệnh viện Nhi Đồng 1 và Nhi
Đồng 2 trong thời gian từ tháng 1/2000 đến hết
tháng 4/2008.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả bệnh nhi được chẩn đoán là áp xe
phổi: khi có một trong các triệu chứng hô hấp
(ho, khạc đàm hoặc mủ, thở nhanh, suy hô hấp,
ran ở phổi) và xét nghiệm hình ảnh (X quang,
siêu âm, CT Scan) có hình ảnh áp xe.
Tiêu chuẩn loại trừ
Hang lao bội nhiễm và kén khí bội nhiễm.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Phương pháp thu thập dữ liệu
Biến số được thu thập bằng bệnh án mẫu,
ghi nhận các đặc điểm : dịch tễ học, tiền căn, lâm
sàng, cận lâm sàng, điều trị, diễn tiến của bệnh.
Phương pháp xử lý số liệu : toàn bộ số liệu
thu thập từ bệnh án mẫu sẽ được mã hóa, lưu
trữ trong máy tính và xử lý bằng phần mềm
SPSS 11.5. Đối với biến số định tính : tính tần số
và tỉ lệ phần trăm. Đối với biến số định lượng :
tính trung bình và độ lệch chuẩn. Dùng phép
kiểm định χ2 để so sánh tỉ lệ và phép kiểm định t
để so sánh trung bình giữa các nhóm.
KẾT QUẢ
Có 95 trường hợp có chẩn đoán áp xe phổi
lúc xuất viện phù hợp với tiêu chuẩn đưa vào
Chuyên Đề Nhi Khoa 3
mẫu nghiên cứu. Trong số 95 trường hợp nêu
trên, tổng số bệnh nhi thật sự là 86 người, trong
đó có 1 bệnh nhân mắc áp xe phổi 3 lần, 7 bệnh
nhi mắc bệnh 2 lần. Sáu mươi ba bệnh nhi nhập
viện điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1, 23 bệnh
nhi nhập viện điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 2.
Tuổi trung bình là 7 ± 4,5 tuổi, nhỏ nhất là 1
tháng, lớn nhất là 15 tuổi. Tỉ lệ Nữ : Nam = 1,39.
Sáu mươi lăm bệnh nhi là từ các tỉnh, chiếm
75%.
47/86 bệnh nhi có tiền căn bệnh lý nội ngoại
khoa bất thường, chiếm 54,7% (bảng 1).
Bảng 1: Tiền căn bệnh lý
Tiền căn bệnh lý Tần số (n = 47)
Tỉ lệ
(%)
Khò khè tái phát 23 48,9
Áp xe phổi (*) 11 23,4
Bại não 8 17,0
Động kinh 6 12,8
Tràn mủ màng phổi 5 10,6
Tiền căn bệnh lý Tần số (n = 47)
Tỉ lệ
(%)
Chấn thương ngực / vết thương thấu ngực 3 6,4
Lao phổi 2 4,3
Nhiễm HIV 1 2,1
Áp xe đùi 1 2,1
Áp xe cơ thắt lưng-chậu 1 2,1
Dị vật đường thở 1 2,1
Khác 13 27,7
(*) : có 5 trường hợp đã được phẫu thuật : cắt
thùy phổi hoặc kén phổi (3), dẫn lưu áp xe phổi
(2).
Thời gian bệnh trước nhập viện trung bình là
17 ngày (17 ± 16 ngày), ít nhất là 2 ngày, nhiều
nhất là 3 tháng. 59% các trường hợp đã được
điều trị ở tuyến trước trước khi nhập viện. Ho và
sốt là hai lý do nhập viện thường gặp nhất,
chiếm hầu hết các trường hợp (91% và 84%, theo
thứ tự). Các triệu chứng thường gặp là ho, khạc
đàm, sốt và phế âm giảm một bên phổi. Ran ở
phổi chỉ có trong 1/3 các trường hợp (hình 1).
84
73
67
56
43
27
28
26
23
16
8
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90
Ho
Giảm phế âm
Sốt
Khạc đàm
Ran ẩm/nổ
Khạc mủ
Suy hô hấp
Đau ngực
Khạc máu
Hơi thở hôi
Ran ngáy/rít
Số ca
Lúc nhập viện
Sau đó
Hình 1: Triệu chứng lâm sàng lúc nhập viện và sau đó
Kết quả xét nghiệm máu: dung tích hồng cầu
(Hct) trung bình là 33 ± 5,7 %, thấp nhất là 16,7%,
cao nhất là 45%. Số lượng bạch cầu trung bình là
18.000 ± 8.000/mm3, thấp nhất là 5.500/mm3, cao
nhất là 48.500/mm3. Gần 60% các trường hợp có
số lượng bạch cầu trên 15.000/mm3. Tỉ lệ bạch
cầu đa nhân trung tính ≥ 75% chiếm gần 40% các
trường hợp. 40% các trường hợp có số lượng tiểu
cầu cao trên 450.000/mm3. CRP có giá trị trung
bình là 125 ± 82 mg/lít. Có 38/64 trường hợp có
nồng độ CRP > 100 mg/l (chiếm 59,4%). VS giờ
thứ nhất có giá trị trung bình là 80 ± 39 mm, giờ
thứ hai là 98 ± 34 mm.
Về hình ảnh học, 66% các trường hợp có 1 ổ
áp xe, 24% có đa ổ. 66% các trường hợp có áp xe
ở phổi phải (hình 2), 1 trường hợp bị cả 2 bên
(thùy dưới phải + trái). 67% các trường hợp ổ áp
xe có mực nước hơi. Kích thước trung bình của ổ
áp xe là 5,5 ± 2,8 cm, nhỏ nhất là 1,5 cm, lớn nhất
là 13,2 cm. Có sự tương quan giữa kích thước
Chuyên Đề Nhi Khoa 4
của ổ áp xe với bệnh lý nền (p = 0,049). 57% các
trường hợp áp xe phổi có kèm theo tràn dịch
màng phổi, 69% ở bên phải, 61% có lượng ít và
55% là dịch mủ hoặc vách hóa có hay không
kèm theo kén khí.
8
16
3
11
18
36
0
5
10
15
20
25
30
35
40Số ca
Thùy trên Thùy giữa Thùy dưới
Phổi trái
Phổi phải
Hình 2: Phân bố áp xe theo vị trí phổi và thùy bị tổn thương (n = 83)
Có 27/86 trường hợp có thực hiện soi cấy
đàm, chiếm 31,4%. 4 ca lấy mẫu đàm trong lúc
thực hiện soi khí phế quản, các ca còn lại thông
qua phương pháp hút dịch khí quản (NTA).
14/27 trường hợp cấy dương tính (chiếm 51,9%)
(bảng 2). 34 ca (39,5%) có thực hiện hút mủ áp xe
phổi. Cấy dương tính 7 ca (23%) (bảng 3).
Bảng 2: Kết quả cấy đàm
Loại vi khuẩn Tần số (n = 14)
Candida spp 4
Streptococcus α hemolytic 3
Enterobacter spp 2
Klebsiella spp 3
Acinetobacter spp 3
Staphylococcus aureus 2
Streptococcus β hemolytic 1
Staphylococcus coagulase negative 1
Bảng 3: Kết quả cấy mủ áp xe phổi
Loại vi khuẩn Tần số (n = 7)
Escherichia coli 2
Klebsiella spp 2
Klebsiella pneumonia 1
Enterobacter spp 1
Proteus mirabilis 1
Pseudomonas aeruginosa 1
Thực hiện chọc dò màng phổi 19 ca trong
tổng số 49 ca có tràn dịch màng phổi (chiếm
38,8%), 6 ca cho kết quả dương tính (chiếm
31,6%) (bảng 4). Cấy máu được thực hiện ở 47/86
trường hợp (chiếm tỉ lệ 54,7%), trong đó có 1
trường hợp phối hợp thêm cấy kỵ khí và 1
trường hợp phối hợp thêm cấy tìm nấm. Tỉ lệ
cấy dương tính là 17% (8/47 trường hợp) (bảng
5).
Bảng 4: Kết quả cấy dịch màng phổi
Loại vi khuẩn Tần số (n = 6)
Staphylococcus aureus 2
Staphylococcus coagulase (-) 1
Streptococcus spp 1
Escherichia coli 1
Klebsiella oxytoca 1
Klebsiella spp 1
Acinetobacter spp 1
Bảng 5: Kết quả cấy máu
Loại vi khuẩn Tần số (n = 8)
Acinetobacter spp 2
Staphylococcus coagulase (-) 2
Staphylococcus aureus 1
Pseudomonas pseudomallei 1
Bacillus (không định danh) 1
Nấm men 1
Thời gian nằm viện trung bình là 29 ± 16
ngày, ít nhất là 1 ngày (ca này tử vong sau 5 giờ
nhập viện), dài nhất là 83 ngày. 51% các trường
hợp sử dụng kháng sinh Cephalosporin thế hệ 3
và kháng sinh Aminoglycosid ngay khi chẩn
đoán sơ bộ là áp xe phổi. 30% các trường hợp có
sử dụng phối hợp với kháng sinh trị vi khuẩn kỵ
khí (Metronidazol hoặc Clindamycin). 50% các
trường hợp sử dụng phối hợp 2 loại kháng sinh.
23% sử dụng phối hợp 3 loại kháng sinh. Có
20/86 trường hợp vẫn duy trì kháng sinh điều trị
như lúc mới chẩn đoán ra áp xe phổi (chiếm
23,3%), 1 trường hợp tử vong sớm trước khi đổi
Chuyên Đề Nhi Khoa 5
kháng sinh, còn 65 trường hợp được thay đổi
kháng sinh điều trị (chiếm 75,6%). Kháng sinh
được dùng nhiều trong lần thay đổi kháng sinh
lần thứ nhất là Ciprofloxacin/Pefloxacin,
Metronidazol và Vancomycin. Ceftazidim và
Imipenem bắt đầu được sử dụng trong lần đổi
kháng sinh này. 58% các trường hợp đã sử dụng
3 hoặc 4 loại kháng sinh trong quá trình nằm
viện. Có 6 trường hợp đã thay đổi nhiều loại
kháng sinh (sử dụng đến 7-8 loại).
Có 54/86 trường hợp có tập vật lý trị liệu
trong quá trình điều trị (chiếm 62,8%). 16 bệnh
nhi (18,6%) có thực hiện chọc hút mủ áp xe.
Trong số này, có 7 bệnh nhi được chọc hút mủ
qua thành ngực trước sau đó được phẫu thuật
thoát mủ hoặc cắt bỏ phân thùy phổi có chứa áp
xe. 9 trường hợp được chọc hút thoát mủ qua
thành ngực mà không phải can thiệp phẫu thuật
sau đó, chiếm 56%. 26/86 bệnh nhi được thực
hiện phẫu thuật, chiếm 30,2% (bảng 7). Phẫu
thuật được thực hiện nhiều hơn ở nhóm có kích
thước áp xe > 8 cm (p < 0,001). Có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về tỉ lệ phẫu thuật giữa 2 nhóm
: nhóm có thời gian bệnh trước nhập viện trên 14
ngày có tỉ lệ phẫu thuật cao hơn (χ2, p = 0,03).
Thời điểm mổ sớm ≤ 14 ngày thì tỉ lệ điều trị kéo
dài trên 30 ngày sẽ ít hơn (p = 0,042). Có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ phẫu thuật theo
thời gian điều trị : thời gian điều trị càng kéo dài
thì tỉ lệ phẫu thuật càng tăng, có phẫu thuật thì
thời gian nằm viện lâu hơn (χ2, p < 0,001)
KẾT QUẢ
78 trường hợp khỏi bệnh, chiếm 91%. 5
trường hợp không bớt xin về. Có 3 bệnh nhi tử
vong, chiếm 3,5%. 31 bệnh nhi có biến chứng do
áp xe hoặc do điều trị, chiếm 34%. Các biến
chứng do áp xe gồm ho khạc ra máu (26,7%),
thủng cơ hoành (1,1%). Các biến chứng do điều
trị nội (nhiễm khuẩn bệnh viện, suy hô hấp, sốc
kéo dài), do điều trị ngoại (chảy máu sau mổ,
tràn khí màng phổi, tràn khí dưới da)
BÀN LUẬN
Trong khoảng thời gian hơn 8 năm, từ tháng
1/2000 dến hết tháng 4/2008, tại hai bệnh viện
Nhi Đồng 1 và Nhi Đồng 2, chúng tôi đã thu
thập được 95 trường hợp có chẩn đoán áp xe
phổi lúc xuất viện phù hợp với tiêu chuẩn đưa
vào mẫu nghiên cứu. Như vậy, trung bình có
khoảng 11 trường hợp áp xe phổi nhập viện mỗi
năm. So với tổng số 297.591 lượt có bệnh lý hô
hấp cùng nhập viện trong khoảng thời gian này,
số trường hợp áp xe phổi chỉ chiếm tỉ lệ 0,32‰.
Nghiên cứu của Minh Ái tại bệnh viện Nhi Đồng
1 từ năm 1989-1990 ghi nhận có 21 bệnh nhi
nhập viện điều trị áp xe phổi trong vòng một
năm, chiếm tỉ lệ 5,6 o/oo(15). Hai nghiên cứu khác
tại hai bệnh viện ở Đài Loan: một nghiên cứu ghi
nhận được 23 trường hợp áp xe phổi trong 20
năm, nghiên cứu kia quan sát được 27 ca trong
16 năm (trung bình khoảng 1ca/năm)(8,18). Vậy, so
với 10 năm trước, tỉ lệ áp xe phổi trong nghiên
cứu của chúng tôi có giảm nhưng vẫn cao hơn tỉ
lệ bệnh trong y văn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, áp xe phổi thường gặp hơn vào giai
đoạn đầu, chiếm ¾ số trường hợp trong 5 năm
đầu tiên.
Lứa tuổi nhũ nhi < 2 tuổi ít mắc bệnh hơn so
với các lứa tuổi khác. Tuổi trung bình là 7 tuổi,
tương tự nghiên cứu của Yen. Không có sự khác
biệt giữa tuổi trung bình của nam và nữ. Chỉ có
chưa đến 1/4 số trường hợp nhập viện điều trị áp
xe phổi là ở tại thành phố Hồ Chí Minh, số còn
lại là từ các tỉnh, nhiều nhất là từ các tỉnh miền
Tây, và điều trị chủ yếu tại bệnh viện Nhi Đồng
1 (phù hợp khoảng cách địa lý). Bệnh nhân điều
trị tại bệnh viện Nhi Đồng 2 chủ yếu là ở tại
thành phố, sau đó là từ các tỉnh miền Đông,
cũng phù hợp khoảng cách địa lý.
Có đến hơn phân nửa số bệnh nhi có kèm
theo bệnh lý nền. Bệnh lý thường gặp nhất là
khò khè tái phát. Nghiên cứu của Minh Ái ghi
nhận tất cả các bệnh nhân đều bị nhiễm khuẩn
hô hấp cấp thường xuyên hoặc thỉnh thoảng (15).
Theo y văn, suy giảm miễn dịch (bẩm sinh hay
mắc phải) chiếm tỉ lệ cao, từ 20-50% (10). Nghiên
Chuyên Đề Nhi Khoa 6
cứu tại Zimbawe ghi nhận áp xe phổi xảy ra sau
khi mắc sởi, tràn mủ màng phổi hoặc bị hít
sặc(16).
Các triệu chứng thường gặp là ho, khạc đàm,
sốt và phế âm giảm một bên phổi. Ran ở phổi chỉ
có trong 1/3 các trường hợp. Theo y văn, sốt và
ho là triệu chứng nổi trội nhất, chiếm từ 90-100%
(1,8,10,18). Khạc mủ và đau ngực ít gặp hơn, tương
tự như y văn (9-29%)(8,15,18).
Trong lô nghiên cứu này, 34 ca (40%) có thực
hiện hút mủ áp xe. Đa số được chọc hút mủ qua
thành ngực trước sau đó được phẫu thuật thoát
mủ hoặc cắt bỏ phân thùy phổi có chứa áp xe. 1
trường hợp được chọc hút thoát mủ qua thành
ngực mà không phải can thiệp phẫu thuật sau
đó. Cấy mủ áp xe chỉ dương tính 7/34 ca (23%).
So với y văn, tỉ lệ cấy dương tính của các nghiên
cứu khác cao hơn (50-64%) (3,6,10,18). Kết quả cấy ra
đa số là chủng vi khuẩn thường trú vùng hầu
miệng. Chủng vi khuẩn này chiếm đa số là
chủng vi khuẩn kỵ khí. Ở các chỗ nướu bị nứt
hoặc ở chỗ viêm nha chu, có đến 99% vi khuẩn là
các vi khuẩn kỵ khí, chính các vi khuẩn này là
nguyên nhân trong 90% các trường hợp áp xe
phổi mắc phải ở cộng đồng. Đa số các trường
hợp áp xe phổi là do nhiều tác nhân gây bệnh
cùng lúc, trong đó 50% các trường hợp có phối
hợp vi khuẩn ái khí với vi khuẩn kỵ khí. Nghiên
cứu của Brook và Finegold ghi nhận 100% các
trường hợp có vi khuẩn kỵ khí, 90% có phối hợp
thêm vi khuẩn ái khí (6). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, cấy kỵ khí chỉ được thực hiện ở 1/86
trường hợp và kết quả cấy âm tính. Tổng cộng
có 14 loại vi sinh được phân lập từ 30 trên tổng
số 86 bệnh nhân (qua mẫu đàm, mủ màng phổi,
mủ áp xe và máu). Nghiên cứu của Yen phân lập
được 21 loại vi sinh từ 16 trên tổng số 27 bệnh
nhân. Tỉ lệ cấy mủ dương tính thấp có lẽ do việc
chọc hút mủ được thực hiện muộn, sau khi bệnh
nhân đã dùng nhiều loại kháng sinh trước đó (18).
Hình ảnh áp xe phổi cấp tính điển hình là
một bóng tròn, đường kính khoảng 5-6cm, nằm
gọn trong một thùy, bờ rõ, ở giữa có mức nước
hơi nằm ngang. Loại này chiếm tỉ lệ khoảng 70%
các trường hợp áp xe phổi. Áp xe phổi hay khu
trú ở bên phải, phân thùy 2 của thùy trên và
phân thùy 6 của thùy dưới. Nếu do cơ chế hít sặc
vào phổi khi bệnh nhân nằm ngửa thì áp xe phổi
thường ở phân thùy sau của thùy trên bên phải
hoặc phân thùy đỉnh của thùy dưới. 1/3 các
trường hợp có kèm theo tràn mủ màng phổi (10).
Trong lô nghiên cứu này, 66% các trường hợp có
áp xe ở phổi phải, 59% ở thùy dưới. 67% các
trường hợp ổ áp xe có mực nước hơi. Kích thước
trung bình của ổ áp xe là 5,5 ± 2,8 cm. 57% có
kèm theo tràn dịch màng phổi.
Thời gian nằm viện trung bình là 29 ± 16
ngày, dài nhất là 83 ngày. Chúng tôi không đánh
giá được thời gian dùng kháng sinh vì bệnh
nhân vẫn tiếp tục dùng kháng sinh sau khi xuất
viện và hồ sơ tái khám không được lưu tại bệnh
viện. Đa số các trường hợp sử dụng kháng sinh
tĩnh mạch trong suốt thời gian nằm viện, khi
tình trạng ổn định thì chuyển sang kháng sinh
uống vài ngày trước khi xuất viện điều trị tiếp
tại nhà. Theo nghiên cứu của Chan, thời gian
điều trị kháng sinh trung bình là 28 ngày đối với
áp xe phổi nguyên phát và 45 ngày đối với áp xe
phổi thứ phát (8). Theo Yen, thời gian nằm viện
trung bình là 42 ngày và 95% sử dụng hai loại
kháng sinh trở lên (18). Trong lô nghiên cứu của
chúng tôi, có đến 26% bệnh nhi sử dụng đơn trị
liệu. Theo y văn, thời gian điều trị kháng sinh
thường từ 4 - 6 tuần (2,4,5,7,11,13). Nếu ổ áp xe được
dẫn lưu mủ tốt thì thời gian điều trị có thể ngắn
hơn. Tuy nhiên, có trường hợp phải kéo dài điều
trị đến 3 – 4 tháng để đề phòng tái phát. Tóm lại,
thời gian dùng kháng sinh cho đến khi X quang
ổn định thường trên một tháng.
26/86 bệnh nhi được thực hiện phẫu thuật,
chiếm 30,2%. Phẫu thuật được thực hiện nhiều
hơn ở nhóm có kích thước áp xe > 8 cm (p <
0,001). Tỉ lệ phẫu thuật ở các nghiên cứu nước
ngoài từ 42-61% (1,9,10,14,17,18). Lô nghiên cứu của
Minh Ái không có ca nào can thiệp phẫu thuật
trên tổng số 21 bệnh nhi(15).
Có 3 bệnh nhi tử vong, chiếm tỉ lệ 3,5%. 1
trường hợp có tiền căn bại não nhập viện trong
Chuyên Đề Nhi Khoa 7
tình trạng mê, thở hước và tử vong 5 giờ sau đó.
2 ca còn lại đều có kết quả cấy mủ áp xe
Klebsiella spp. Tỉ lệ tử vong của hai tác giả Đài
loan là 8-18% (8,18). Một nghiên cứu tại Zimbabwe
trên 24 bệnh nhi có tỉ lệ tử vong 25% (16). Các ca tử
vong này đều có bệnh lý nền. Ở giai đoạn trước
khi phát minh ra kháng sinh, tử vong là 100%
nếu không can thiệp ngoại khoa cắt thùy phổi
(12). Không có ca nào tử vong trong lô nghiên cứu
21 bệnh nhi của Minh Ái (15). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, 31 bệnh nhi có biến chứng do áp
xe hoặc do điều trị, chiếm 34%. Có 11 trường
hợp bị tái phát áp xe phổi, 1 bệnh nhi bị thủng cơ
hoành về sau diễn tiến thành thoát vị hoành (dù
đã được vá lại trong lúc phẫu thuật áp xe) và
phải mổ tạo hình lại sau đó. Tỉ lệ biến chứng của
lô nghiên cứu của Chan là 42% (8), của Minh Ái là
38% (15). Di chứng trong lô nghiên cứu của Chan
là dãn phế quản và xơ phổi (4 ca). Chúng tôi
không rõ tỉ lệ di chứng do không theo dõi được
đa số bệnh nhi sau xuất viện.
KẾT LUẬN
Áp xe phổi là bệnh hiếm gặp, thường xảy ra
trên cơ địa có bệnh lý nền, do đó cần điều trị triệt
để tình trạng viêm phổi ở đối tượng này, tránh
để dẫn đến hình thành áp xe phổi. Ngay khi
chẩn đoán ra áp xe phổi, cần phối hợp thêm
kháng sinh loại có thể diệt được vi khuẩn kỵ khí.
Lựa chọn đầu tiên nên là Clindamycin. Đối với
áp xe ở gần thành ngực, cần sớm chọc hút qua
thành ngực để vừa có tác dụng giúp chẩn đoán
bệnh nguyên vừa có tác dụng dẫn lưu mủ áp xe.
Đối với áp xe ở gần trung tâm, cân nhắc thực
hiện nội soi phế quản. Cần xác định thời điểm
mốc của thất bại điều trị nội để can thiệp ngoại
khoa sớm, nhằm rút ngắn thời gian sử dụng
kháng sinh và giảm biến chứng cũng như tỉ lệ tử
vong. Nếu cần phẫu thuật, nên thực hiện các thủ
thuật chọc hút và dẫn lưu mủ trước (ở cả áp xe
phổi nguyên phát lẫn thứ phát).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bartlett JG (2007), “Lung abscess”,
2. Bartlett JG (2008), “Anaerobic bacterial infections”,
3. Bartlett Jg, Gorbach Sl (1975), “Treatment of aspiration
pneumonia and primary lung abscess. Penicillin G vs
clindamycin”, JAMA.; 234(9), pp. 935-7
4. Brook I (1979), “Clindamycin in treatment of aspiration
pneumonia in children”, Antimicrob Agents Chemother; 15(3),
pp. 342-345
5. Brook I (2006), “Lung abscess and Pulmonary Infections Due
to Anaerobic bacteria”, Kendig’s disorders of Respiratory tract in
children, vol.1, Saunders Elsevier, Elsevier Inc., pp. 478-484
6. Brook I, Finegold SM (1979), “Bacteriology and therapy of
lung abscess in children”, J Pediatr; 94(1), pp. 10-12
7. Bùi Xuân Tám (1999), “Áp xe phổi”, Bệnh hô hấp, Nhà Xuất
bản Y học, tr.474 – 492
8. Chan PC et al. (2005), “Clinical management and outcome of
childhood lung abscess : a 16-year experience”, J Microbiol
Immunol Infect; 38, pp. 183-188
9. Emanuel B, Shulman St (1995), “Lung abscess in infants and
children”, Clin Pediatr (Phila).; 34(1), pp. 2-6
10. Ferri FF, Opal SM, Mylonakis EE (2007), “Lung abscess”,
11. Lê Thị Ngọc Bích (2006), “Áp xe phổi”, Phác đồ điều trị nhi khoa
2006, Nhà xuất bản y học, tr.416 – 418
12. Moore TC, Battersby JS (1959), “Pulmonary abscess in infancy
and childhood : Report of 18 cases”, Ann Surg.; 154(4), pp.
496-500
13. Phan Hữu Nguyệt Diễm (2004), “Áp xe phổi”, Thực hành lâm
sàng nhi khoa, Nhà xuất bản y học, tr.401– 404
14. Rolston KVI (2004), “Primary lung abscess”, Conn’s Current
Therapy, Elsevier Inc., pp. 260-261
15. Trần Thị Minh Ái (1990), Góp phần nghiên cứu áp xe phổi trẻ
em tại khoa Hô hấp bệnh viện Nhi Đồng 1, Luận văn tốt
nghiệp Sơ bộ chuyên khoa Nhi, Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 1 – 42
16. Tumwine JK (1992), “Lung abscess in children in Harare,
Zimbabwe”, East Afr Med J.; 69(10), pp. 547-549
17. Wiedemann H. P., Rice T. W. (1995), “Lung abscess and
empyema”, Semin Thorac Cardiovasc Surg; 7(2), pp. 119-128
18. Yen CC, Tang RB et al. (2004), “Pediatric lung abscess : a
retrospective review of 23 cases”, J Microbiol Immunol Infect;
37, pp. 45-49
Chuyên Đề Nhi Khoa 8
Chuyên Đề Nhi Khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_ap_xe_phoi_tai_benh_vien_nhi_dong_1_va_nhi_dong_2_t.pdf