KẾT LUẬN
Vòng nhẫn mạch máu là một bệnh lý hiếm,
thường gây chèn ép khí quản hơn thực quản.
Tỷ lệ mắc bệnh của nam cao hơn nữ 1,5 lần.
Bệnh khởi phát sớm, tuổi chẩn đoán đa phần ở
tuổi nhũ nhi. Khò khè, thở rít kéo dài, đặc biệt
là khó thở 2 thì là triệu chứng gợi ý giúp chẩn
đoán bệnh.
X quang phổi không đặc hiệu, số ít trường
hợp có dấu hiệu gợi ý chẩn đoán khi có hình ảnh
đẩy lệch khí quản qua trái.
Siêu âm tim phát hiện số ít có dấu hiệu bất
thường nghi ngờ vòng nhẫn mạch máu, nhưng
phát hiện tỷ lệ cao trẻ có bệnh tim bẩm sinh
kèm theo.
CT ngực đa lát cắt có cản quang phát hiện và
phân loại bất thường vòng nhẫn mạch máu. bao
gồm 39 trường hợp bất thường ĐM phổi trái, 8
trường hợp cung ĐMC đôi, 7 trường hợp bất
thường ĐM không tên, 1 trường hợp cung ĐMC
bên phải và bất thường động mạch dưới đòn
bên trái, 1 trường hợp cung ĐMC vòng quanh.
Bất thường ĐM phổi trái hẹp khí quản nặng
hơn, độ dài đoạn hẹp dài hơn so với các loại
vòng nhẫn mạch máu còn lại. Bất thường ĐM
phổi trái thường kèm theo dị tật bẩm sinh khác
tại phổi, như hẹp khí quản bẩm sinh, phế quản‐
khí quản thùy trên phổi phải.
Điều trị phẫu thuật còn ít, gồm 2 trường
hợp cung ĐMC đôi và 4 trường hợp bất thường
ĐM phổi trái. Kết quả sau phẫu thuật: 2 trường
hợp cung ĐMC đôi kết quả khỏi hoàn toàn, ở
nhóm bất thường ĐM phổi trái có 2 bệnh nhi tử
vong và 2 bệnh nhi cải thiện triệu chứng khó
thở, dù vẫn còn khò khè.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh lý vòng nhẫn mạch máu có tắc nghẽn đường hô hấp tại bệnh viện Nhi đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 256
ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ VÒNG NHẪN MẠCH MÁU
CÓ TẮC NGHẼN ĐƯỜNG HÔ HẤP TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1
Lê Bình Bảo Tịnh*, Phan Hữu Nguyệt Diễm **
TÓM TẮT
Tổng quan và mục tiêu nghiên cứu: Vòng nhẫn mạch máu thường gây những triệu chứng hô hấp dai
dẳng không giải thích được ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Việc chẩn đoán và điều trị thường bị chậm trễ. Hiện nay tại
Việt Nam chỉ có 1 nghiên cứu về bệnh lý này với 9 ca được báo cáo. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với
mục tiêu khảo sát các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả điều trị của các loại vòng nhẫn mạch
máu có hẹp đường thở tại Nhi Đồng 1.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca
Kết quả: Từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 12 năm 2013, có 56 bệnh nhi được thu thập vào mẫu nghiên cứu.
Tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán là 13 tháng, 78,5% ở tuổi nhũ nhi. Triệu chứng hô hấp tìm thấy ở 52/56
bệnh nhi, bao gồm thở rít 17,8%, khò khè 19,6% và khó thở 2 thì 57,1%. Hai mươi mốt trường hợp (37,5%)
triệu chứng xuất hiện trong giai đoạn sơ sinh. Hầu hết các bệnh nhi được phát hiện trong bệnh cảnh khò khè kéo
dài 42,8%, thở rít kéo dài 17,8 % và viêm phổi kéo dài 23,2%. Tất cả bệnh nhi thực hiện CT scan ngực với tái tạo
hình ảnh 3D xác định chẩn đoán. Bất thường giải phẫu của vòng nhẫn mạch máu được xác định dựa vào CT
ngực, bao gồm 39 trường hợp bất thường động mạch (ĐM) phổi trái, 8 trường hợp cung động mạch chủ (ĐMC)
đôi, 7 trường hợp bất thường ĐM không tên, 1 trường hợp cung ĐMC bên phải và bất thường động mạch dưới
đòn (ĐMDĐ) bên trái, 1 trường hợp cung ĐMC vòng quanh. Sáu trong 56 trường hợp có điều trị phẫu thuật
bao gồm 2 ca cung ĐMC đôi và 4 ca bất thường ĐM phổi trái. Hai ca cung ĐMC đôi khỏi hoàn toàn, 2 ca bất
thường ĐM phổi trái mặc dù giảm nhưng vẫn còn triệu chứng về hô hấp. Không có tử vong trong phẫu thuật,
nhưng trong thời gian hậu phẫu 2 ca bất thường ĐM phổi trái có hẹp khí quản đoạn dài tử vong trong bệnh
cảnh nhiễm trùng huyết và suy hô hấp.
Kết luận: Ở những bệnh nhi có các triệu chứng hô hấp dai dẳng hoặc tái phát như thở rít, khò khè hay khó
thở 2 thì, đặc biệt triệu chứng khởi phát sớm ở tuổi nhũ nhi, nên tìm những triệu chứng của bất thường bẩm
sinh vòng nhẫn mạch máu. CT scan có cản quang giúp chẩn đoán và xác định cấu trúc của vòng nhẫn mạch
máu. Phẫu thuật sớm ở những bệnh nhi có triệu chứng trong nhóm cung ĐMC đôi hiệu quả hơn nhóm bất
thường ĐM phổi trái.
Từ khóa: vòng nhẫn mạch máu, tắc nghẽn đường hô hấp, khó thở 2 thì, khò khè kéo dài.
ABSTRACT
CHARACTERS OF VASCULAR RINGS ASSOCIATED WITH TRACHEAL STENOSIS
AT PEDIATRIC HOSPITAL No 1
Le Binh Bao Tinh, Phan Huu Nguyet Diem
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 256 ‐ 262
Background and objectives: Congenital vascular rings (VR) may often cause unexplained persistent
respiratory symptoms in infants and young children. The diagnosis and treatment are often delayed. Up to now,
there is only one study of vascular rings with 9 patients reported in Vietnam. The aim of this study was to
describe the clinical, imaginary manifestations, and management at Pediatric hospital 1.
* Khoa hô hấp, Bệnh viện Nhi Đồng 1 ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lê Bình Bảo Tịnh ĐT: 0906756879 Email: dr.letinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 257
Method: Retrospective case series descriptive study.
Results: From January 2009 through June 2013, 56 patients were enrolled. The mean age at diagnosis was
13 month, 78.5% in infant. Respiratory manifestations were found in 52 patients, including stridor in 17.8%,
wheezing in 19.6% and biphasic dyspnea in 57.1%. Twenty one (37.5%) showed symptoms in the neonatal
period. Most patients were detected by prolonged wheezing (42.8%), prolonged stridor (12.5%), or by prolonged
pneumonia (23.2%). Thoracic computerized tomography (CT) scan with three‐dimensional (3D) was performed
in all patients. The anatomy of vascular rings were correctly identified by thoracic CT, including 39 pulmonary
artery sling (PAS), 8 double aortic arch (DAA), 7 anomalous innominate artery, 1 right aortic arch with aberrant
left subclavian artery and 1 circumflex aortic arch. Six of the 56 patients underwent surgery for repair of VR, 2
DAA and 4 PAS. Whereas 2 patients with DAA were completely relieved of symptoms, 2 patients with PAS
were improved but still had persistent respiratory symptoms after surgery. There was no intraoperative
mortality, while 2 patients with a pulmonary sling and severe long‐segment tracheal stenosis died of sepsis and
respiratory failure in the postoperative period.
Conclusions: Patients, with recurrent or chronic respiratory symptoms such as stridor, wheezing and
biphasic dyspnea, especially whose the first onset of symptoms occurs in early infancy, should be examined for the
possible presence of congenital vascular rings. Contrast‐enhanced CT scan clearly defines the anatomy of vascular
rings. Early surgical management in symptomatic patients with DAA is more effective than PAS.
Key words: vascular rings, tracheal stenosis, biphasic dyspnea, prolonged wheezing.
MỞ ĐẦU
Vòng nhẫn mạch máu là một dị tật bẩm sinh
do sự hình thành bất thường của cung ĐMC
và/hoặc các mạch máu lớn, các mạch máu này
bao quanh và chèn ép khí quản và thực quản,
hình thành nên vòng mạch hoàn toàn hay không
hoàn toàn(9). Đây là một bệnh bẩm sinh hiếm
gặp, chiếm tỷ lệ khoảng 1% các bất thường của
bệnh lý tim mạch(16,21,28,34).
Nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam,
hiện nay chúng tôi ghi nhận duy nhất nghiên
cứu của tác giả Trần Quỳnh Hương và Nguyễn
Phương Hòa Bình tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ
năm 2001 đến năm 2006 được công bố với 9 ca
vòng nhẫn mạch máu. Vẫn có những trường
hợp chẩn đoán vòng nhẫn mạch máu bị bỏ sót
dẫn tới điều trị kéo dài với các chẩn đoán khác
như hen phế quản, viêm phổi kéo dài, trào
ngược dạ dày thực quản..., trong khi điều trị chủ
yếu của bệnh này là can thiệp ngoại khoa. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm ra các triệu
chứng gợi ý giúp chẩn đoán sớm, đánh giá vai
trò của chẩn đoán hình ảnh và khả năng điều trị
bệnh lý này trong thực tế ở nước ta.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán
hình ảnh và kết quả điều trị của các loại vòng
nhẫn mạch máu gây tắc nghẽn đường hô hấp ở
trẻ em nhập viện Nhi Đồng 1 từ tháng 1 năm
2009 đến tháng 6 năm 2013.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhi có chẩn đoán xác định vòng
nhẫn mạch máu gây chèn ép đường thở nhập
viện tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 1/2009
tới tháng 6/2013.
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tần suất mắc bệnh
Trong thời gian 54 tháng, 56 trường hợp có
chẩn đoán vòng nhẫn mạch máu gây hẹp đường
thở tại bệnh viện Nhi Đồng 1 đủ tiêu chuẩn đưa
vào nghiên cứu. Vòng nhẫn mạch máu là một
bất thường bẩm sinh hiếm gặp, tỷ lệ mắc bệnh
trong dân số rất khó xác định, vì có những
trường hợp vòng nhẫn mạch máu không biểu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 258
hiện triệu chứng. Chúng tôi thấy rằng tần suất
bắt gặp bệnh của chúng tôi cao hơn so với báo
cáo của một số tác giả khác. Tại bệnh viện Nhi
Đồng 2, theo báo cáo của Trần Quỳnh Hương có
9 trường hợp bất thường mạch máu trong 5,5
năm(38), của Đỗ Ngọc Thanh có 2 trường hợp
trong 1 năm(10). Với thời gian dài hơn, tác giả
Shah báo cáo có 64 trường hợp được phẫu thuật
trong 11 năm tại bệnh viện Nhi Boston, Mỹ (34).
Nhìn ở góc độ khác, tác giả Nguyễn Thị Mai
Hoàn trong 4 năm đã ghi nhận 62 ca dị dạng
đường thở tại bệnh viện Nhi Trung ương, trong
đó có 33 ca hẹp khí quản, trong số 33 ca này chỉ
có 5 ca là do vòng nhẫn mạch máu (30).
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tỷ lệ mắc bệnh của nam cao hơn nữ 1,5 lần,
điều này phù hợp nhận định giới tính nam
thường chiếm ưu thế hơn so với nữ của đa số tài
liệu khác(1,18,21,27,34,37,40).
Bảy trường hợp kèm các dị tật bẩm sinh
không thuộc tim mạch và hô hấp, bao gồm 3
trường hợp bất sản hậu môn trực tràng và 1 bất
thường đốt sống ngực trong nhóm bất thường
ĐM phổi trái, và 3 trường hợp với 3 dị tật khác
nhau là bất sản thận trái, hội chứng Down và sứt
môi chẻ vòm trong nhóm bất thường ĐM không
tên. Vòng nhẫn mạch máu thường kèm theo các
dị tật bẩm sinh ở nhiều cơ quan khác nhau, được
nói đến với hội chứng VACTERL bao gồm các dị
tật bất thường đốt sống, bất sản hậu môn, bất
thường tim mạch, dò khí thực quản và bất
thường ở các chi(6,18,37).
Đặc điểm lâm sàng
Tuổi chẩn đoán trung bình là 13 tháng,
78,5% bệnh nhi có tuổi nhỏ hơn 1 tuổi, kết quả
này tương tự như của tác giả Ruzmetov (71%)
và tác giả Marmon (76 %)(27,32).
Có 78,6% bệnh nhi của chúng tôi có tiền
căn khò khè hoặc thở rít trước đây, trong đó
hơn 1/3 các trường hợp (37,5%) triệu chứng
khởi phát trong thời kỳ sơ sinh. Điều này cũng
tương tự như báo cáo của các tác giả khác, cho
thấy tuổi khởi phát triệu chứng thường rất
sớm, thường nhỏ hơn 12 tháng tuổi và có gần
½ bệnh nhi triệu chứng có thể khởi phát trong
thời kỳ sơ sinh(5,6).
Có 66,1% bệnh nhi có tiền căn nhập viện, với
chẩn đoán là viêm tiểu phế quản, viêm phổi,
viêm thanh khí phế quản, suyễn nhũ nhi và
mềm sụn thanh quản. Theo y văn, khoảng 50%
các trường hợp vòng nhẫn mạch máu có các đợt
nhiễm trùng hô hấp tái phát. Cá biệt, 1 trường
hợp nhập viện 6 lần được chẩn đoán suyễn,
bệnh nhi này đã có điều trị dự phòng suyễn với
ICS, tình trạng suyễn không kiểm soát, bệnh nhi
được thực hiện CT scan ngực phát hiện bất
thường ĐM phổi trái. Tác giả Stoica cũng đã báo
cáo trường hợp 1 bệnh nhân cung ĐMC đôi có
chẩn đoán nhầm là suyễn trong suốt 30 năm(36).
Đa số các trẻ nhập viện vì bệnh lý hô hấp,
chiếm tỷ lệ 92,9%. Lâm sàng bao gồm những
triệu chứng không đặc hiệu như ho (85,7%),
chảy mũi và/hoặc nghẹt mũi (48,2%), biểu hiện
của bệnh lý nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính.
Những triệu chứng đặc hiệu hơn thể hiện sự tắc
nghẽn đường thở như thở rít chiếm tỷ lệ 17,8%,
nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau cho
thấy đây là biểu hiện nổi bật của bệnh, như của
tác giả Backer 47% cung ĐMC đôi có thở rít(1),
hay 86% vòng nhẫn mạch máu có thở rít theo
báo cáo của tác giả Gormley(14). Nhìn từ góc độ
khác, Wu nghiên cứu trên 92 bệnh nhi có thở rít,
phát hiện 7,7% trong số đó có bất thường mạch
máu(41). Triệu chứng khò khè gặp ở 19,6% bệnh
nhi. Cả hai triệu chứng khò khè và thở rít là do
tình trạng tắc nghẽn khí quản với mức độ khác
nhau tùy thuộc vị trí hẹp trên khí quản. Biểu
hiện triệu chứng và mức độ nặng nhẹ không
đồng nhất và không hằng định. Có những bệnh
nhi đã có tiền sử khó thở và thở rít, nhập viện 1
đến 2 lần được chẩn đoán là viêm thanh khí phế
quản, sau đó hoặc lần nhập viện này khò khè
nổi trội được chẩn đoán viêm tiểu phế quản hay
suyễn. Cũng có bệnh nhi trong lần nhập viện
này, có 2 chẩn đoán song song: viêm thanh khí
phế quản và viêm tiểu phế quản hay suyễn, do
bệnh nhi có khó thở 2 thì, lúc thở rít rõ hơn ở thì
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 259
hít vào, lúc khò khè nổi trội hơn. Những bệnh
nhi lần này nhập viện có cả 2 triệu chứng trên
chúng tôi phân thành nhóm khó thở 2 thì, vì vậy
nên tỷ lệ thở rít hoặc khò khè của chúng tôi thấp
hơn các tác giả khác. Khó thở 2 thì chiếm tỷ lệ
cao, 57,1%, là triệu chứng đặc trưng rõ nhất của
bệnh lý này trong nghiên cứu của chúng tôi.
Phần lớn bệnh nhi được chẩn đoán phát
hiện vòng nhẫn mạch máu qua triệu chứng khò
khè kéo dài (42,8%) thở rít kéo dài (12,5%), hay
trong bệnh cảnh viêm phổi kéo dài đáp ứng kém
điều trị (23,2%). Có 2 trường hợp được phát hiện
vòng nhẫn mạch máu một cách ngẫu nhiên,
không có dấu hiệu gợi ý. Nhiều trường hợp
vòng nhẫn mạch máu hoàn toàn không có triệu
chứng, được phát hiện tình cờ, thậm chí phát
hiện ở người lớn tuổi khi nhập viện vì bệnh lý
mạch vành hay các bệnh khác(13,15,17,22,24,33,37).
Cận lâm sàng
X quang ngực
Có 87,3% có hình ảnh bất thường trên X
quang ngực thẳng, những bất thường này đa
phần không đặc hiệu, trùng lắp với biểu hiện
của nhiều bệnh lý khác như: ứ khí 1 hoặc 2
phổi, xẹp phổi, hoặc tổn thương nhu mô phổi.
Hai bệnh nhi có hình ảnh khí quản lệnh trái
trên X‐Quang phổi và chẩn đoán cuối cùng là
bất thường ĐM phổi trái. Đây là xét nghiệm
thường qui được thực hiện đầu tiên đối với đa
phần các bệnh lý hô hấp, nhưng có độ nhạy và
độ đặc hiệu thấp trong chẩn đoán vòng nhẫn
mạch máu(26).
Siêu âm tim
Tỷ lệ trẻ có bệnh tim kèm theo là 35,7%, so
với tác giả Ruzmeto 50%(32) và tác giả Kocid
32%(23). Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có
69,9% bệnh nhi được siêu âm tim, vì thế tỷ lệ
bệnh tim kèm theo có thể cao hơn nữa.
Trên siêu âm tim phát hiện 14 trường hợp có
bất thường mạch máu, chiếm tỷ lệ 35,7% số ca
siêu âm tim, và 25% tổng số ca trong lô nghiên
cứu. Tỷ lệ này hơi thấp so với kết quả của một số
tác giả khác, như của Turner 46,7%(39), Suh
40%(37), Humphrey 45%(18).
CT scan ngực có cản quang
Tất cả bệnh nhi trong nghiên cứu được thực
hiện CT scan ngực đa lát cắt có cản quang, kết
hợp với dựng hình 3D giúp xác định chẩn đoán.
Đây là một trong những phương tiện chẩn đoán
hình ảnh được ứng dụng rộng rãi trong việc xác
định vòng nhẫn mạch máu, khảo sát được nhiều
góc độ không gian, mối liên quan giữa khí quản,
thực quản và các cấu trúc khác của trung thất,
từ đó hướng dẫn và định hướng kế hoạch
phẫu thuật.
CT scan xác định được loại vòng nhẫn mạch
máu của tất cả 56 trường hợp, bao gồm 39
trường hợp bất thường ĐM phổi trái, 8 trường
hợp cung ĐMC đôi, 7 trường hợp bất thường
ĐM không tên, 1 trường hợp cung ĐMC bên
phải và bất thường ĐMDĐ bên trái, 1 trường
hợp cung ĐMC vòng quanh.
Bất thường ĐM phổi trái là nguyên nhân
thường gặp nhất, chiếm tỷ lệ 69,6%. Điều này là
một sự khác biệt rất lớn với những nghiên cứu
trước đây ở Việt Nam và thế giới. Theo Trần
Quỳnh Hương tỷ lệ này là 44,4%(38), tác giả
Turner là 12,5%(39) và thấp hơn rất nhiều là tỷ lệ
5,6% trong tổng số 54 ca vòng nhẫn mạch máu
của tác giả Marmon(27) và 4,4% trong 183 ca của
tác giả Ruzmetov(32). Tương tự, báo cáo của tác
giả Yong trong 27 năm (1984‐2011) có 21 trường
hợp loại vòng nhẫn mạch máu này được phẫu
thuật(43), tác giả Backer trong 26 năm (1985‐2011)
có 34 trường hợp được phẫu thuật(2). Hiện nay tỷ
lệ chính xác của bất thường ĐM phổi trái chưa
được xác định do số trường hợp được báo cáo
còn ít, theo số ít tác giả, bất thường này có thể
chiếm hơn 10% các trường hợp(1, 23).
Cung ĐMC đôi Cùng với bất thường dạng
vòng nhẫn cung ĐMC bên phải với dây chằng
ĐM bên trái, hai bất thường này chiếm khoảng
80% ‐ 95% các trường hợp trong đa số các
nghiên cứu nước ngoài(12,16,18,23,27,32,37,39). Nghiên
cứu của chúng tôi, cung ĐMC đôi chiếm tỷ lệ rất
thấp, 14,3%, đây cũng là một khác biệt mà chúng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 260
tôi thấy cần có thêm thời gian và nghiên cứu để
có thể lý giải được.
Trong nhóm cung ĐMC bên phải và bất
thường ĐMDĐ bên trái chúng tôi có 1 trường
hợp có túi phình Kommerell, chiếm tỷ lệ 12,5%,
tỷ lệ này tương tự với nhiều nghiên cứu(1,7,20).
Tỷ lệ có bất thường khác kèm theo tại phổi là
46,4%. Trường hợp duy nhất bất thường ĐM
không tên kèm theo bất sản phổi trái, các trường
hợp bất thường còn lại thuộc nhóm bất thường
ĐM phổi trái. Hai mươi năm bệnh nhi hẹp khí
quản bẩm sinh kèm theo được chẩn đoán dựa
vào hình ảnh trên CT scan ngực, trong đó nhiều
trường hợp đoạn khí phế quản hẹp kéo dài ra
ngoài vị trí chèn ép của vòng nhẫn mạch máu và
hình ảnh khí quản dạng tròn của vòng sụn khí
quản hoàn toàn. Theo báo cáo của nhiều tác giả,
khoảng 1/2 tới 2/3 các trường hợp bất thường
ĐM phổi trái kèm hẹp khí quản đoạn dài với
vòng sụn hoàn toàn(2,7,11,19,28,29). Để mô tả sự kết
hợp này, tác giả Bendon sử dụng thuật ngữ
tiếng Anh là “phức hợp ring – sling”(4). Theo báo
cáo của tác giả Oshima, 71% bệnh nhân có bất
thường ĐM phổi trái có hẹp khí quản đoạn dài,
với đoạn hẹp từ 50 – 100% chiều dài khí quản(31).
Phế quản‐khí quản bẩm sinh là trường hợp
phế quản thùy trên phổi phải xuất phát trực tiếp
từ 1/3 trên của khí quản. Chúng tôi có 10 ca có
bất thường dạng phế quản‐khí quản bẩm sinh,
chiếm tỷ lệ 25,6% của bất thường ĐM phổi trái,
tỷ lệ này cao hơn so với tác giả Oshima
(19,4%)(31) và tác giả Yong (9,1%)(43). Trường hợp
phế quản bắt nguồn trực tiếp từ khí quản nhưng
không thông nối với nhu mô phổi được gọi là
khí quản chột hay túi thừa khí quản, chúng tôi
có 1 trường hợp bất thường này, với nghiên cứu
của các một số tác giả khác chúng tôi không thấy
ghi nhận(8,31,43). Chúng tôi cũng ghi nhận một
dạng khác hiếm gặp của bất thường cây khí
quản, đó là khí quản chia 3.
Mức độ hẹp trung bình của đường thở
46,1%, độ hẹp ít nhất là 20%, nhiều nhất 70,2%.
Độ hẹp của từng nhóm như sau: có 1 trường
hợp cung ĐMC bên phải và bất thường ĐMDĐ
trái với mức độ hẹp 23,4%, 1 cung ĐMC vòng
quanh hẹp 50%, độ hẹp trung bình của nhóm
cung ĐMC chủ đôi gần bằng với nhóm bất
thường ĐM phổi trái lần lượt 48% và 48,6%, cao
hơn nhiều nhóm bất thường ĐM không tên
37,9%, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê, có thể do số bệnh nhi trong
nghiên cứu còn ít và phân bố không đồng đều
giữa các nhóm vòng nhẫn mạch máu.
CT scan đánh giá vị trí hẹp đường thở, vị trí
hẹp đa phần là khí quản đoạn thấp, đoạn hẹp
kéo dài tới gần 1/3 giữa khí quản (64%), hay
đoạn hẹp kéo dài tới carina kèm theo hẹp phế
quản gốc 1 hoặc 2 bên (9%). Điều này có thể lý
giải do tỷ lệ bất thường ĐM phổi trái trong
nghiên cứu của chúng tôi cao, chiếm tỷ lệ 69,6%.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí hẹp
đường thở trong các nhóm vòng nhẫn mạch
máu: cung ĐMC đôi và bất thường ĐM không
tên đa phần gây hẹp 1/3 trên khí quản, bất
thường ĐM phổi trái thường gây hẹp khí quản
đoạn thấp đến 1/3 giữa khí quản và hẹp khí
quản quanh carina kèm theo hẹp phế quản gốc
một hoặc hai bên (p < 0,001). Trường hợp hẹp
1/3 trên khí quản thường gây ra thở rít 1 thì, hẹp
khí quản 1/3 giữa gây khó thở hai thì, hẹp khí
quản đoạn thấp gần carina kèm theo hẹp phế
quản gốc 1 hoặc 2 bên chủ yếu gây khò khè.
Độ dài trung bình của đoạn khí quản hẹp
22,6 ±13 mm( từ 4mm đến 65mm). Độ dài đoạn
hẹp của 3 nhóm thường gặp nhất khác nhau có
ý nghĩa thống kê: nhóm bất thường ĐM không
tên có độ dài trung bình ngắn nhất (11,5mm), kế
đến nhóm cung ĐMC đôi (17,2 mm) và nhóm
bất thường ĐM phổi trái dài nhất (27,8mm).
Trong đó độ dài trung bình đoạn hẹp của nhóm
bất thường ĐM phổi trái khác nhau có ý nghĩa
thống kê với 2 nhóm còn lại, còn nhóm bất
thường ĐM không tên và nhóm cung ĐMC đôi
không khác nhau có ý nghĩa thống kê. So với
nghiên cứu của tác giả Chen, độ dài trung bình
của nhóm bất thường ĐM phổi trái trong nghiên
cứu của chúng tôi dài hơn 18mm(8).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 261
ĐIỀU TRỊ
Năm mươi bệnh nhi được điều trị nội khoa
đơn thuần, 40 bệnh nhi cải thiện lâm sàng, xuất
viện với tình trạng hết suy hô hấp, giảm khò khè
và 10 ca tử vong. Trong số đó, 6 trẻ tử vong tại
bệnh viện và 4 trẻ có bệnh nặng thân nhân xin
về. Tử vong nhiều nhất ở nhóm bất thường ĐM
phổi trái, 7 trường hợp.
Sáu bệnh nhi điều trị phẫu thuật, gồm 2/8
trường hợp cung ĐMC đôi, và 4/39 trường hợp
bất thường ĐM phổi trái, 3 bệnh nhi trong nhóm
bất thường động mạch phổi trái được phẫu
thuật tạo hình cây khí quản. Sau phẫu thuật 2 ca
cung ĐMC đôi kết quả khỏi hoàn toàn, bất
thường ĐM phổi trái có 2 bệnh nhi tử vong và 2
bệnh nhi cải thiện triệu chứng khó thở, dù vẫn
còn khò khè.
KẾT LUẬN
Vòng nhẫn mạch máu là một bệnh lý hiếm,
thường gây chèn ép khí quản hơn thực quản.
Tỷ lệ mắc bệnh của nam cao hơn nữ 1,5 lần.
Bệnh khởi phát sớm, tuổi chẩn đoán đa phần ở
tuổi nhũ nhi. Khò khè, thở rít kéo dài, đặc biệt
là khó thở 2 thì là triệu chứng gợi ý giúp chẩn
đoán bệnh.
X quang phổi không đặc hiệu, số ít trường
hợp có dấu hiệu gợi ý chẩn đoán khi có hình ảnh
đẩy lệch khí quản qua trái.
Siêu âm tim phát hiện số ít có dấu hiệu bất
thường nghi ngờ vòng nhẫn mạch máu, nhưng
phát hiện tỷ lệ cao trẻ có bệnh tim bẩm sinh
kèm theo.
CT ngực đa lát cắt có cản quang phát hiện và
phân loại bất thường vòng nhẫn mạch máu. bao
gồm 39 trường hợp bất thường ĐM phổi trái, 8
trường hợp cung ĐMC đôi, 7 trường hợp bất
thường ĐM không tên, 1 trường hợp cung ĐMC
bên phải và bất thường động mạch dưới đòn
bên trái, 1 trường hợp cung ĐMC vòng quanh.
Bất thường ĐM phổi trái hẹp khí quản nặng
hơn, độ dài đoạn hẹp dài hơn so với các loại
vòng nhẫn mạch máu còn lại. Bất thường ĐM
phổi trái thường kèm theo dị tật bẩm sinh khác
tại phổi, như hẹp khí quản bẩm sinh, phế quản‐
khí quản thùy trên phổi phải.
Điều trị phẫu thuật còn ít, gồm 2 trường
hợp cung ĐMC đôi và 4 trường hợp bất thường
ĐM phổi trái. Kết quả sau phẫu thuật: 2 trường
hợp cung ĐMC đôi kết quả khỏi hoàn toàn, ở
nhóm bất thường ĐM phổi trái có 2 bệnh nhi tử
vong và 2 bệnh nhi cải thiện triệu chứng khó
thở, dù vẫn còn khò khè.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Backer CL, et al. (2005). Trends in vascular ring surgery. J
Thorac Cardiovasc Surg, 129(6): 1339‐47
2. Backer CL, et al. (2012). Pulmonary artery sling: current
results with cardiopulmonary bypass. J Thorac Cardiovasc
Surg, 143(1): 144‐51
3. Beekman RP, et al. (1998). A new diagnostic approach to
vascular rings and pulmonary slings: the role of MRI. Magn
Reson Imaging, 16(2): 137‐45
4. Berdon WE (2000). Rings, slings, and other things: vascular
compression of the infant trachea updated from the
midcentury to the millennium‐ the legacy of Robert E. Gross,
MD, and Edward B. D. Neuhauser, MD. Radiology, 216(3):
624‐32
5. Bernstein (2011). Other congenital heart and vascular
malformations In: Kliegman. Nelson Textbook of Pediatrics,
19th ed., 1596 ‐ 1599. Elsevier Saunders, Philadelphia
6. Bonnard A, et al (2003). Vascular ring abnormalities: A
retrospective study of 62 cases. Journal of Pediatric Surgery,
38(4): 539‐543
7. Browne LP (2009). What is the optimal imaging for vascular
rings and slings? Pediatr Radiol, 39 Suppl 2: S191‐5
8. Chen SJ, et al (2007). Left pulmonary artery sling complex:
computed tomography and hypothesis of embryogenesis.
Ann Thorac Surg, 84(5): 1645‐50
9. Davies M, et al (2003). Developmental abnormalities of the
great vessels of the thorax and their embryological basis. Br J
Radiol, 76(907): 491‐502
10. Đỗ Ngọc Thanh, Phạm Thị Minh Hồng (2008). Khảo sát
nguyên nhân khò khè ở trẻ từ 2 tháng đến 15 tuổi tại khoa hô
hấp bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 6/2007 ‐ 5/2008. Luận văn
bác sĩ chuyên khoa II. Đại học Y dược TPHCM
11. Fiore AC, et al (2005). Surgical treatment of pulmonary artery
sling and tracheal stenosis. Ann Thorac Surg, 79(1): 38‐46;
discussion 38‐46
12. Fleenor JT, et al (2003). Vascular rings and their effect on
tracheal geometry. Pediatr Cardiol, 24(5): 430‐5.
13. Ganesh V, et al (2009). Pulmonary artery sling: an
unexpected finding on cardiac multidetector CT. Postgrad
Med J, 85(1001): 128
14. Gormley PK, et al (1999). Congenital vascular anomalies and
persistent respiratory symptoms in children. Int J Pediatr
Otorhinolaryngol, 51(1): 23‐31
15. Gundavaram MS, Gaba RC (2012). Asymptomatic pulmonary
artery sling: a rare congenital vascular anomaly. Heart Lung
Circ, 22(4): 297‐9
16. Hernanz‐Schulman M (2005). Vascular rings: a practical
approach to imaging diagnosis. Pediatr Radiol, 35(10): 961‐79
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 262
17. Higashikuni Y, et al (2008). Right aortic arch with mirror
image branching and vascular ring. International Journal of
Cardiology, 130(1): e53‐e55
18. Humphrey C, et al (2006). Decade of experience with vascular
rings at a single institution. Pediatrics, 117(5): e903‐8
19. Kagadis GC, et al (2007). Preoperative evaluation of the
trachea in a child with pulmonary artery sling using 3‐
dimensional computed tomographic imaging and virtual
bronchoscopy. J Pediatr Surg, 42(5): E9‐13.
20. Kanne JP et al (2010). Right aortic arch and its variants.
Journal of Cardiovascular Computed Tomography, 4(5):
293‐300.
21. Kellenberger CJ (2010). Aortic arch malformations. Pediatr
Radiol, 40(6): 876‐84
22. Kir M, et al (2012). Vascular Rings: Presentation, Imaging
Strategies, Treatment, and Outcome. Pediatr Cardiol.
Apr;33(4):607‐17
23. Kocis KC, et al (1997). Aortic arch complex anomalies: 20‐year
experience with symptoms, diagnosis, associated cardiac
defects, and surgical repair. Pediatr Cardiol, 18(2): 127‐32
24. Kypson AP, et al (2008). Double aortic arch in an adult
undergoing coronary bypass surgery: a therapeutic dilemma?
European Journal of Cardio‐Thoracic Surgery, 34(4): 920‐921
25. Lee EY (2007). MDCT and 3D evaluation of type 2
hypoplastic pulmonary artery sling associated with right lung
agenesis, hypoplastic aortic arch, and long segment tracheal
stenosis. J Thorac Imaging, 22(4): 346‐50
26. Ma GQ, et al (2007). Congenital vascular rings: a rare cause of
respiratory distress in infants and children. Chin Med J (Engl),
120(16): 1408‐12
27. Marmon LM, et al (1984). Vascular rings and slings: long‐term
follow‐up of pulmonary function. J Pediatr Surg, 19(6): 683‐92
28. McLaren CA, et al (2008). Vascular compression of the airway
in children. Paediatr Respir Rev, 9(2): 85‐94
29. Newman B, Cho Y (2010). Left pulmonary artery sling‐
anatomy and imaging. Semin Ultrasound CT MR, 31(2): 158‐
70
30. Nguyễn Thị Mai Hoàn, Đào Minh Tuấn (2010). Đặc điểm lâm
sàng và hình thái của các dị dạng đường thở bẩm sinh ở trẻ
em tại bệnh viện Nhi Trung ương 2006‐2010.Tạp chí y học
thực hành: 37‐39
31. Oshima Y, et al (2008). Management of pulmonary artery
sling associated with tracheal stenosis. Ann Thorac Surg,
86(4): 1334‐8
32. Ruzmetov M, et al (2009). Follow‐up of surgical correction of
aortic arch anomalies causing tracheoesophageal
compression: a 38‐year single institution experience. J Pediatr
Surg, 44(7): 1328‐32
33. Sariaydin M, et al (2010). Asymptomatic double aortic arch.
Int Med Case Rep J, 3: 63‐6
34. Shah RK, et al (2007). The presentation and management of
vascular rings: An otolaryngology perspective. International
Journal of Pediatric Otorhinolaryngology, 71(1): 57‐62
35. Singh C, et al (2006). Compression of trachea due to double
aortic arch: demonstration by multi‐slice CT scan (MSCT).
Heart Lung Circ, 15(5): 332‐3
36. Stoica SC, et al (2002). Double aortic arch masquerading as
asthma for thirty years. Respiration, 69(1): 92‐5
37. Suh YJ, et al (2012). Clinical course of vascular rings and risk
factors associated with mortality. Korean Circ J, 42(4): 252‐8
38. Trần Quỳnh Hương, Nguyễn Phương Hòa Bình (2006). Đặc
điểm của dị dạng vòng mạch‐băng treo mạch tại bệnh viện
Nhi Đồng II từ 1/2001 đến 6/2006. Y Học TP.Hồ Chí Minh:
124‐127
39. Turner A, et al (2005). Vascular rings ‐ presentation,
investigation and outcome. Eur J Pediatr, 164(5): 266‐70
40. Woods RK, et al (2001). Vascular anomalies and
tracheoesophageal compression: a single institutionʹs 25‐year
experience. Ann Thorac Surg, 72(2): 434‐8; discussion 438‐9
41. Wu JM, et al (1996). Upper airway obstruction caused by
vascular anomalies in children. Zhonghua Min Guo Xiao Er
Ke Yi Xue Hui Za Zhi, 37(2): 122‐7
42. Yilmaz M, et al (2003). Vascular anomalies causing
tracheoesophageal compression: a 20‐year experience in
diagnosis and management. Heart Surg Forum, 6(3): 149‐52
43. Yong MS, et al (2013). Surgical management of pulmonary
artery sling in children. J Thorac Cardiovasc Surg, 145(4):
1033‐9
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_benh_ly_vong_nhan_mach_mau_co_tac_nghen_duong_ho_ha.pdf