KẾT LUẬN
Bệnh XLA với tiêu chuẩn chẩn đoán xác
định dựa vào dấu hiệu suy giảm tế bào miễn
dịch B, giảm kháng thể miễn dịch, có đột biến
gen Btk đã được xác định chẩn đoán tại Việt
Nam. Các bệnh nhân XLA này đều có các đặc
điểm về giới tính và dấu hiệu nhiễm trùng nặng
thường xuyên tái phát ở lứa tuổi nhỏ, cho nên
bước đầu phát hiện bệnh XLA hay bệnh lý suy
giảm miễn dịch tiên phát sẽ tùy thuộc vào bác sĩ
NHI khoa ở tuyến cơ sở. Bác sĩ tuyến cơ sở cần
sàng lọc các bệnh nhân nam, nhỏ tuổi có tiền sử
nhập viện nhiều lần vì các bệnh lý nhiễm trùng
hô hấp, nhiễm trùng tiêu hóa, nhiễm trùng da,
hay khi bệnh nhân nằm viện kéo dài và không
đáp ứng với kháng sinh phổ rộng phối hợp.
Phát hiện sớm từ tuyến cơ sở sẽ tăng cường
chẩn đoán sớm bệnh nhân XLA giúp cho bệnh
nhân được điều trị và phòng bệnh an toàn và
hữu hiệu. Đối với các bác sĩ nhi khoa tại bệnh
viện trung tâm, chẩn đoán bệnh chính xác sẽ cho
biết tần suất bệnh thực sự của XLA cũng như
các bệnh lý Suy giảm miễn dịch tiên phát khác,
từ đó mở hướng nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh
vực bệnh lý miễn dịch di truyền, và các công
trình nghiên cứu tương lai đó sẽ giúp ngành y tế
cập nhật thông tin và mở rộng biện pháp điều
trị và quản lý các bệnh lý di truyền.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh nhân thiếu Gammaglobulin máu có liên quan nhiễm sắc thể giới tính tại bệnh viện nhi đồng 1 thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 305
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN THIẾU GAMMAGLOBULIN MÁU
CÓ LIÊN QUAN NHIỄM SẮC THỂ GIỚI TÍNH
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TP HỒ CHÍ MINH
Lâm Thị Mỹ*, Hoàng Anh Vũ*, Nguyễn Hoàng Mai Anh**,
Trần Ngọc Kim Anh**, Trần Thị Hồng Ngọc**, Hoàng Lê Phúc**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh thiếu gammaglobulin có liên quan nhiễm
sắc thể giới tính (X-linked Agammaglobulinemia =XLA) của bệnh nhân nhập viện bệnh viện Nhi Đồng 1 thành
phố Hồ Chí Minh (BVNĐ 1 HCM).
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả tại BVNĐ1HCM trong thời gian từ
01/2010 đến 07/2011. Dân số nghiên cứu: Bệnh nhân có đặc điểm khi nhập viện với bệnh cảnh nhiễm trùng
nặng nhiều lần, đáp ứng kém với kháng sinh trị liệu, và được xác định chẩn đoán XLA khi xuất viện. Tiêu chuẩn
chẩn đoán XLA dựa theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) giảm nặng đồng loạt các thành phần
globulin miễn dịch trong máu, giảm hay mất tế bào B lưu hành, di truyền lặn theo nhiễm sắc thể giới tính, đột
biến gen Burton tyrosine kinase (BTK) và nhiễm trùng nặng.
Kết quả: Tổng cộng 4 ca được chẩn đoán xác định XLA với đặc điểm miễn dịch: Nồng độ trung bình
của tất cả thành phần globulin miễn dịch trong máu giảm: IgG (25,5 mg/dl), IgM (13,5 mg/dL), IgA
(10mg/dL); lượng tế bào B lưu hành máu thấp (6%). Tất đều có đột biến gen BTK. Tuổi trung bình khi
chẩn đoán XLA là 3 tuổi trong khi tuổi trung bình của phát bệnh là 10 tháng tuổi. Về tiền sử bệnh, tất cả
đều có tiền sử nằm viện, số lần nhập viện từ 1 đến 4 lần. Bệnh cảnh lâm sàng thường gặp là: Sốt kéo dài,
nhiễm trùng tiêu hóa, viêm phổi, nhiễm trùng da.Tất cả đều đáp ứng kém với kháng sinh phổ rộng phối
hợp, với thời gian nằm viện trung bình là 45,5 ngày (22 - 48).
Kết luận: Bệnh XLA có đặc điểm giảm tất cả các thành phần globulin miễn dịch, giảm tế bào B và có đột
biến gen BTK đã được xác định ở trẻ em Việt Nam. Bệnh XLA cần được phát hiện ban đầu bởi các bác sĩ Nhi
khoa tổng quát khi dựa vào các dấu hiệu cảnh báo sau: Trẻ nam hay bị nhiễm trùng nhiều lần, sốt kéo dài, viêm
phổi, nhiễm trùng tiêu hóa, nhiễm trùng da, đáp ứng kém với kháng sinh phổ rộng và nằm viện kéo dài.
Từ khóa: Bệnh thiếu gamma globulin máu có liên quan giới tính, gen Burton tyrosine kinase, truyền
Immune Globulin (IVIG).
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF PATIENTS WITH X- LINKED AGAMMAGLOBULINEMIA AT THE
CHILDREN’S HOSPITAL N1, HO CHI MINH CITY.
Lam Thi My, Hoang Anh Vu, Nguyen Hoang Mai Anh,
Tran Ngoc Kim Anh, Hoang Le Phuc, Tran Thi Hong Ngoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 305 - 314
Objectives: To determine the clinical and paraclinical characteristics of the X-lined Agammaglobulin from
patients who were hospitalized at the Children’s Hospital N1 (CH1).
*Đại học Y Dược TP HCM **Bệnh Viện Nhi Đồng 1 TPHCM
Tác giả liên lạc: Lâm Thị Mỹ ĐT: 0918111668 Email: drlamthimy@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 306
Methods: A descriptive study was performed at CH1 from 02/2011 to 07/2011. The study
population included patients who were diagnosed at admission on the basis of features: Severe recurrent infections
with poor responses to antibiotics and persistent hospitalization, and were found with definitive diagnosis of XLA
after their discharge. The diagnosis of XLA was based on the recommendation of WHO: Severe reduction in all
serum immunoglobulin iso-type, profound deficiency or absence of B cell, X linked inheritance, mutations in
Burton tyrosine kinases and severe bacterial infections.
Results: A total of 4 male cases were found to have defined XLA with the following immunologic
characteristics: Low isotype immunoglobulinemia median with IgG (25.5mg/dL), IgM (13.5mg/dL), IgA
(10mg/dL), and decreased circulating B cell level (6%). In addition, mutation in BTk gene was detected in all of
cases. The median age for XLA diagnosis was 3 years old while the median age of first hospitalization was 10
months. For past illness, all of patients had hospitalization, the hospitalization frequency of the patients varied
from 1 to 4 times. Common clinical features were: persistent fever, pneumonia, gastroenteritis, and skin
infections. All of patients had poor response to the combination of multiple antibiotics and their median duration
of hospitalization was 45.5 days (22 - 48)
Conclusion: XLA disease with low immunoglobulin isotype, decreased B cell, and Btk mutation was
detected in Vietnamese patients. XLA should be initially identified by general pediatricians following warning
signs including: Young boy with high frequency of recurrent infections, persistent fever, pneumonia,
gastroenteritis, skin infections, poor response to broad – spectrum antibiotics combination, prolong duration of
hospitalization.
Keywords: X-linked Agammaglobulinemia, Burton tyrosine kinase (BTK) gene, Intravenous immune
Globulin G (IVIG)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thiếu gammaglobulin máu có liên
quan giới tính (X linked agammaglobulinemia =
XLA) là một bệnh lý suy giảm miễn dịch tiên
phát có tính di truyền; đặc điểm bệnh là giảm
trầm trọng globuline miễn dịch trong máu, giảm
lượng tế bào B và tương bào trưởng thành, bệnh
xảy ra do hiện tượng đột biến gen Burton’s
tyrosine kinase (BTK)(7). Bệnh được Burton O.C,
bác sĩ nhi khoa Hoa kỳ mô tả lần đầu tiên vào
năm 1952 nên còn được gọi là bệnh Burton(2).
Năm 1986, nhóm nghiên cứu Y khoa Harvard đã
xác định được vị trí gen trách nhiệm tới bệnh
XLA ở trên nhánh dài của nhiễm sắc thể giới
tính X từ đó mở hướng khảo sát tầm soát trước
sanh cho các bà mẹ thể ẩn, có tiền căn gia đình(9).
Năm 1993, nhóm nghiên cứu Tsukada S đã phát
hiện tyrosine kinase trong tế bào chất (B cell
progenitor kinase, hay Burton’s tyrosine kinase
= BPK) có liên quan đến tiến trình tăng trưởng
và biệt hóa của tế bào B, và sự thiếu hụt BTK đã
được quan sát ở cá thể bị bệnh XLA(16). Tiếp theo
các nghiên cứu sàng lọc về đột biến gen của BTK
của các gia đình có trẻ bệnh đã giúp chẩn đoán
phân biệt được các thể khác nhau có liên quan
tới giảm gammaglobulin(4). Hiện nay, tại một số
quốc gia có sự phát triển về kỹ thuật sinh học
phân tử và di truyền, bệnh XLA đã được các bác
sĩ nhi khoa quan tâm phát hiện và theo
dõi(3,10,15,17). Tuy nhiên thực tế tại những quốc gia
đang phát triển, các bác sĩ nhi khoa chưa quen
thuộc với sàng lọc lâm sàng để chẩn đoán và cơ
sở thiết bị tại các khu vực chưa đồng bộ cho nên
bệnh XLA chưa được phát hiện nhiều(18). Tại Việt
Nam, với đặc tính bệnh lý dịch tễ vùng nhiệt
đới, các bệnh nhiễm trùng cấp tính hô hấp, tiêu
hóa cùng các bệnh kéo dài như sốt rét, lao,
thương hàn và nhiễm HIV... có tần suất cao ở trẻ
nhỏ do đó các bệnh lý có tính dịch tễ này không
xa lạ đối với các bác sĩ nhi khoa Trong khi
bệnh XLA cùng với các đặc điểm lâm sàng khởi
phát ở trẻ nhỏ, nhiễm trùng nặng đường hô hấp,
tiêu hóa, tái phát nhiều lần làm cho XLA dễ bị
trùng lắp trong bối cảnh đa dạng nhiễm trùng ở
trẻ em, khiến cho các bác sĩ tuyến cơ sở dễ bỏ sót
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 307
chẩn đoán. Từ năm 2010 đến nay, tại thành phố
Hồ Chí Minh, một số phòng xét nghiệm chuyên
khoa với các trang thiết bị chẩn đoán về sinh học
phân tử đã hỗ trợ cho các bác sĩ lâm sàng trong
xác định các bệnh di truyền. Do đó chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này nhằm bước đầu khảo
sát đặc điểm bệnh XLA ở trẻ em Việt Nam hy
vọng kết quả tìm được sẽ giúp cho các bác sĩ nhi
khoa phát hiện sớm bệnh XLA từ đó lập kế
hoạch điều trị, phòng bệnh kịp thời cho các
bệnh nhân XLA nói riêng và suy giảm miễn dịch
tiên phát nói chung.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm chẩn
đoán bệnh XLA tại bệnh viện Nhi Đồng 1 năm
2010 – 2011.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả hàng loạt ca dành cho các bệnh nhân
dưới 15 tuổi nhập viện tại BVNĐ 1HCM từ
01/01/2010 đến 30/07/2011, thỏa tiêu chí chọn
bệnh như sau:
Tiêu chuẩn ban đầu chọn bệnh vào lô
nghiên cứu:
-Bệnh nhân có sốt kéo dài trước và hoặc
trong khi nằm viện.
-Nhiều nhiễm trùng nặng liên tiếp xuất hiện
trong quá trình nằm viện.
-Bệnh nhân không có đáp ứng sau điều trị
kháng sinh phối hợp và hoặc bệnh tái phát
nhanh chóng ngay trong thời gian còn nằm
viện.
Tiêu chuẩn loại trừ vào lô nghiên cứu:
-Bệnh nhân có kết quả tủy đồ hoặc sinh thiết
hạch có biểu hiện bệnh lý huyết học ác tính.
-Bệnh nhân đã được xác định bệnh lý ác tính
hoặc và đang nằm trong phác đồ điều trị chuyên
khoa với đa hóa trị liệu và ức chế miễn dịch.
-Bệnh nhân xác định có bệnh suy giảm miễn
dịch mắc phải: nhiễm HIV.
-Bệnh nhân đã được xác định bệnh lý rối
loạn chuyển hóa di truyền.
-Bệnh nhân đã bị cắt lách.
Các bệnh nhân đủ tiêu chí chọn bệnh trên
sẽ khảo sát xét nghiệm miễn dịch và di
truyền
- Điện di protein.
-Định lượng các thành phần
immunoglobulin máu.
-Khảo sát dấu ấn miễn dịch tế bào
lymphocyte: T, B và NK.
-Khảo sát đột biến gen Btk.
Các bệnh nhân qua quá trình khảo sát sẽ
được xác định chẩn đoán XLA, khi có đủ
các tiêu chuẩn sau theo WHO(10)
-Giới nam.
-Có nhiều bệnh nhiễm trùng nặng.
-Giảm nặng immunoglobulin máu (sau khi
so sánh nồng độ globuline máu theo tháng tuổi).
-Giảm đồng loạt các thành phần globulin
máu (sau khi so sánh theo tháng tuổi).
- Giảm tế bào B.
- Đột biến Burton tyrosine kinase (BTK).
Tất cả bệnh nhân này sẽ được thu thập số
liệu vào mẫu nghiên cứu.
Biến số nghiên cứu
- Cơ địa: Giới, tuổi khi chẩn đoán, tình trạng
dinh dưỡng.
- Tiền sử bệnh lý của cá nhân và gia đình
(dựa vào lời khai của người nuôi dưỡng).
- Đặc điểm lâm sàng khi chẩn đoán.
- Đặc điểm xét nghiệm huyết học và miễn
dịch khi chẩn đoán.
- Đặc điểm về điều trị: Thời gian phát bệnh
trước khi chẩn đoán, thời gian nằm viện, kháng
sinh trị liệu.
Phương tiện chẩn đoán
Xét nghiệm khảo sát điện di protein máu và
định lượng nồng độ immunoglobulin máu được
thực hiện tại phòng xét nghiệm Medic Hòa Hảo,
TP. HCM.
Xét nghiệm khảo sát tế bào B, T, NK
(natural killer): Được thực hiện tại bộ phận
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 308
dấu ấn miễn dịch thuộc khoa miễn dịch của
bệnh viện Truyền máu huyết học TP HCM.
Phân loại tế bào lymphocyte được dựa trên
phương pháp dấu ần miễn dịch với CD panel:
CD45, CD3, CD4, CD8, CD19.
Xét nghiệm xác định chẩn đoán đột biến gen
Btk dựa vào phương pháp giải trình tự gen BTK
(exon 2-19) bằng máy ABI 3130 Genetic
Analyzer, được thực hiện tại phòng xét nghiệm
Sinh học phân tử của trường Đại Học Y Dược
TP Hồ Chí Minh.
Khảo sát đột biến gen BTK
Thực hiện PCR: Chúng tôi sử dụng RNA
RNeasy mini Kit (Qiagen, Mỹ) để tách chiết
RNA từ máu ngoại biên. Tổng hợp cDNA được
thực hiện bằng Superscript II Reverse
Transcriptase (Invitrogen, Mỹ) từ 1 µg RNA
theo hướng dẫn của nhà sản xuất.Từ cDNA,
vùng mã hóa của gen BTK được khuếch đại
bằng 2 cặp mồi. Đoạn đầu chứa các exon 2 - 11
(1023 bp) được khuếch đại bằng mồi xuôi BTK-
F1 (5’ – GTGAACTCCAGAAAGAAGAAGCT –
3’) và mồi ngược BTK-R2 (5’ –
AATGACGTATCACCCCTTGAGG – 3’); đoạn
sau chứa các exon 12 – 19 (1046 bp) được khuếch
đại bằng mồi xuôi BTK-F3 (5’ –
GTTTGCTAAATCCACAGGGGAC – 3’) và mồi
ngược BTK-R4 (5’ –
ACCAAGAAGCTTATTGGCGAGC – 3’). Phản
ứng khuếch đại được thực hiện bằng TaKaRa
Taq Hot Start Polymerase (Takara, Nhật Bản)
chạy trên máy GeneAmp® PCR system 9700
(Applied Biosystems, Mỹ), với giai đoạn biến
tính ban đầu 980C trong 2 phút, theo sau bởi 40
chu kỳ luân nhiệt (980C trong 10 giây, 600C trong
15 giây, 720C trong 70 giây) và kết thúc phản
ứng ở 720C trong 5 phút. Sản phẩm PCR được
phát hiện bằng điện di trên thạch agarose 1,2%
có nhuộm ethidium bromide và quan sát dưới
màn soi gel Pringraph (Atto, Nhật Bản). Những
trường hợp chỉ có một băng đặc hiệu thì sản
phẩm PCR sẽ được tinh sạch trực tiếp bằng
QIAquick Gel Extraction kit. Trường hợp có
băng phụ xuất hiện, các băng chính và băng phụ
sẽ được cắt riêng dưới màn soi gel của
Pringraph – Atto và được tinh sạch riêng biệt.
Thực hiện giải trình tự chuỗi DNA: Sản
phẩm PCR đã được tinh sạch sẽ được thực hiện
phản ứng cycle sequencing với BigDye V3.1 từ
Applied Biosystems. Sản phẩm sau đó được kết
tủa bằng ethanol, hòa tan trong Hi-Di
formamide, biến tính ở 950C trong 2 phút trước
khi làm lạnh đột ngột. Trình tự DNA được đọc
bằng máy ABI 3130 Genetic Analyzer, với POP-7
polymer và capillary 80 cm (Applied
Biosystems, Mỹ). Kết quả được phân tích bằng
phần mềm SeqScape. Số thứ tự của các
nucleotide được tính theo chuỗi cDNA bình
thường của BTK với accession number
NM_00061 trong GenBank.
Dữ liệu được thu nhập vào mẫu nghiên
cứu bằng phần mềm thống kê. Kết quả mô tả
được thể hiện bằng các biến số rời và biến số
liên tục. Biến số rời được mô tả theo tỉ lệ % và
biến số liên tục mô tả bằng biến trung vị và
ranh. Tất cả các phép tính thống kê được thực
hiện bằng phần mềm R.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chẩn đoán
Có tất cả 4 ca đạt đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
của WHO. Để sàng lọc ban đầu, các ca này
đều có gammaglobuliun máu giảm và
albumin máu bình thường. Cả 4 ca đều có
giảm toàn bộ các thành phần globulin miễn
dịch trong máu, nồng độ trung bình IgG máu
là 25,5 mg/dL, IgM là 13,5 mg/dL và IgA là 10
mg/dL. Xét nghiệm phân tích tế bào B và T chỉ
thực hiện được 2/4 ca, trong đó 1 ca có CD19
là 0% và 1 ca là < 12,3 %, cả 4 đều có mang đột
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 309
biến gen Btk.
Bảng 1: Đặc điểm chẩn đoán miễn dịch của bệnh XLA
Bệnh nhân Albumin máu Gamma
globulin
Nồng độ gammaglobulin máu
(mg/dL)
Tế bào CD19 Tế bào
CD3,CD4,CD 8
Tế bào
NK
g/L mg/dL IgG IgM IgA (%) (%) (%)
1 49,5 0,6 4,8 6,3 11 Không thực
hiện
Không thực
hiện
Không
thực hiện
2 40,5 1,1 15 112 4.4 Không thực
hiện
Không thực
hiện
Không
thực hiện
3 45,0 0,8 255 15 11 12,3 81 6,8
4 46,6 0,7 28 12 9 0 95 5
TC:Trung vị
(ranh)
45,8 (40,5 -
49,5)
0,7 (0,6 -
1,1)
25,5
(4,8 - 255)
13,5
(6,3 - 112)
10 (4,4 - 11) 0,62 (0 - 12,3) 88 (81 - 95) 5,9 (5 -
6,8)
Bảng 2: Kết qủa đột biến gen Burton Tyrosine Kinase
của bệnh nhân XLA
Bệnh
nhân
Exon/Intron Đột biến
1 Exon18 c.1855C > A(Pro619Thr)
2 Exon 5-6 30bp của intron 5
3 Exon 6-13 Mất đoạn giữa exon 6-13
(c393-1124 del)
4 Exon 19 C1921 C > T (Arg641 Cys)
trên exon 19
Đặc điểm cơ địa và tiền sử bệnh
Cả 4 ca đều là nam và có tiền sử thai kỳ bình
thường (thai trên 37 tuần, sinh thường) và cân
nặng trung bình khi sinh là 3050g. Tiền sử gia
đình không phát hiện có anh chị em hay người
thân trong họ mẹ bị bệnh lý kéo dài hoặc tử
vong sớm. Tuổi trung bình lúc chẩn đoán bệnh
là 34 tháng tuổi (khoảng 3 tuổi), tuổi trung bình
nhập viện lần đầu là 10 tháng tuổi là 3/4 (75%).
Tất cả bệnh nhân đều có tiền sử nhập viện trước
đây với tần suất là 1,5. Các bệnh thường mắc là
viêm phổi, viêm hô hấp, nhiễm trùng huyết,
viêm tai giữa, nhiễm trùng da, 1 ca có tiền sử
viêm khớp.
Bảng 3: Đặc điểm cơ địa và tiền sử nhiễm trùng của bệnh XLA
Bệnh nhân Giới Cân nặng
khi sanh (g)
Tiền sử sản
khoa: Tuổi thai
> 37 tuần, sinh
thường
Tiền sử gia
đình có anh chị
ruột hay bị
bệnh nặng hay
tử vong sớm
Tuổi lúc
chẩn
đoán XLA
(tháng)
Tuổi lúc
bắt đầu bị
bệnh
(tháng)
Số lần nhập
viện trước
đây
Tiền sử: Các bệnh
lý nhiễm trùng đã
mắc
1 Nam 3200 Bình thường Không 60 36 2 Viêm tai giữa, viêm
khớp, nhiễm trùng
huyết (NTH)
2 nam 2800 Bình thường Không 9 9 1 Viêm phổi
3 nam 3300 Bình thường Không 8 6 1 Viêm hô hấp,
(VHH), NTH
4 nam 2900 Bình thường Không 63 12 4 VHH, NTH viêm da,
viêm tai giữa,
TC: N (%)
Trung vị
(Khoảng)
4 (100)
năm
3050 (2800 -
3300)
4 (100) Bình
thường
4 (100) Tiền sử
GĐ không bệnh
34,5 (8 -
63)
10,5 (6 -
36)
1,5 (1 - 4) +++++
Về đặc điểm lâm sàng khi chẩn đoán
bệnh XLA
Sốt kéo dài trước và trong khi nhập viện là là
một dấu hiệu nổi bật với thời gian trung bình là
15 ngày (100%); các dấu hiệu lâm sàng có tỉ lệ
xuất hiện cao kế tiếp là nhiễm trùng tiêu hóa,
viêm phổi và nhiễm trùng da (75%). Trong khi
đó dấu hiệu thiếu máu chỉ có 1 ca (25%) ở mức
độ trung bình, dấu hiệu suy dinh dưỡng chỉ có 1
ca (25%), tất cả đều không có biểu hiện amydale
to hay hạch ngoại biên to.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 310
Bảng 4: Đặc điểm lâm sàng khi chẩn đoán bệnh XLA
Bệnh
nhân
Sốt kéo dài >
7 ngày*
Nhiễm trùng
tiêu hóa
Viêm
phổi
Viêm da,
mô tế bào
Nấm
miệng
Gan lách
to
Viêm tai
giữa
Thiếu
máu
Suy dinh
dưỡng
Amydale và
hạch ngoại biên
to
1 + + + + + - + - + -
2 + + + - - - - - - -
3 + - - + - + - + - -
4 + + + + + + - - - -
TC (%) 4 (100) 4 (100) 3 (75) 3 (75) 2 (50) 2 (50) 1 (25) 1 (25) 1 (25) 0 (0)
*Từ khi sốt đến khi được chẩn đoán
Đặc điểm xét nghiệm huyết học khi chẩn
đoán bệnh XLA
Bệnh nhân XLA không có biểu hiện thay đổi
về tiểu cầu, chỉ có 1 ca có thiếu máu với
Hemoglobin giảm ở mức trung bình. Đối với
dòng bạch cầu, số lượng bạch cầu có thay đổi,
tuy nhiên số lượng trung bình vẫn thấp theo
ngưỡng tuổi (4,03 x 109/l), trong đó số lượng
neutrophile trung bình là 0,93 x 109/l, có 3/4
(75%) ca có số lượng < 1,50 x 109/l; lượng
lymphocyte ngoại biên trung bình là 2,61 x 109/l,
trong đó 2/4 (50%) ca có số lượng tế bào lympho
dưới 4,0 x 109/l.
Bảng 5: Đặc điểm xét nghiệm huyết học khi chẩn
đoán bệnh XLA
Bệnh
nhân
Bạch
cầu (1,0
x 109/l)
Neutrop
hile (1,0
x 109/l)
Lymphoc
yte (1,0 x
109/l)
Hemogl
obin
(g/dL)
Tiểu cầu
(1,0 x
109/l)
1 1,56 0,39 1,12 14 407,00
2 2,65 1,75 22,33 12 274,00
Bệnh
nhân
Bạch
cầu (1,0
x 109/l)
Neutrop
hile (1,0
x 109/l)
Lymphoc
yte (1,0 x
109/l)
Hemogl
obin
(g/dL)
Tiểu cầu
(1,0 x
109/l)
3 6,60 0,60 4,10 6,6 530,00
4 1,26 0,31 0,670 11 93,00
Trungvị
(ranh)
4,03
(1,56 -
26,51)
0,93
(0,31 -
1,75)
2,61 (0,67
– 22,33)
11.5 (6,6
- 14)
183,00
(93,00 -
530,00)
Đặc điểm điều trị bệnh XLA trong đợt nằm
viện được chẩn đoán xác định XLA
Các bệnh nhân đều có sốt kéo dài liên tục
trong lúc nằm viện (100%), và được sử dụng
trên 2 kháng sinh phối hợp (100% ca), số ca có
thời gian nằm viện trung bình trên 45 ngày
chiếm tới 3/4 (75%). Điều đáng lưu ý là bệnh
nhân đáp ứng ngoạn mục khi phối hợp thêm
IVIG với kháng sinh trị liệu, thể hiện qua dấu
hiệu sốt giảm 3 - 5 ngày sau dùng IVIG, tất cả
đều xuất viện sau điều trị kháng sinh phối hợp
và IVIG.
Bảng 6: Đặc điểm điều trị bệnh XLA trong đợt nằm viện được chẩn đoán xác định
Bệnh nhân Thời gian từ khi
sốt đến nhập
viện (ngày)
Thời gian
nằm viện
(ngày)
Kháng sinh được
dùng
Kháng nấm IVIG Đáp ứng sau
điềutrị IVIG
(giảm sốt) (ngày)
Kết qủa điều trị trong
đợt nẳm viện được
xác định chẩn đoán
1 38 47 Imipenem
Vancomycin
Có, 2
lần
3 Sống
2 4 44 Cefotaxime
Ciprofloxacin
Amiklin Imipenem.
Có 3 Sống
3 10 22 Vancomycine
Imipenem
Có 5 Sống
4 21 48 Imipenem
Vancomycin
Pefloxacin
Amphotericin
e B
Có 5 Sống
TC: N (%)
Trung vị
(ranh)
15,5 (4 - 38) 45.5
(22 - 48)
4 (100) 1 (25) 4 (100) 4 (4-5) 4 (100)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 311
BÀN LUẬN
Về chẩn đoán bệnh XLA, tại các quốc gia
tiên tiến bệnh nhân sẽ được phân độ chẩn đoán
tùy vào các tiêu chuẩn sau:(18)
Chẩn đoán xác định (definitive diagnosis)
-Bệnh nhân nam, có tế bào B CD19+ dưới 2%
và ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau:
+ Đột biến gen Btk.
+Mất mRNA Btk qua khảo sát bạch cầu đa
nhân trung tính và bạch cầu đơn nhân bằng
northern blot.
+ Mất protein Btk trong bạch cầu đơn nhân
hay tiểu cầu.
+ Có người cùng huyết thống gia đình bị
giảm tế bào B CD19+ < 2%.
Chẩn đoán rất có thể (probable diagnosis)
Khi bệnh nhân nam, có tế bào B CD19+ dưới
2% và có đủ các tiêu chuẩn sau:
+ Nhiễm trùng nhiều lần xuất hiện trước 5
tuổi.
+ Nồng độ IgG, IgM, IgA dưới 2SD so với
tuổi.
+ Không có phản ứng isohemagglutinin và
hoặc đáp ứng kém với chủng ngừa.
+ Cần loại bỏ các nguyên nhân khác gây
giảm gamma globulin máu.
Chẩn đoán có thể (possible diagnosis)
Khi bệnh nhân nam, có tế bào B CD19+ dưới
2% và đã được loại bỏ các nguyên nhân gây
giảm gamma globulin khác và có ít nhất một
trong các dấu hiệu dương tính sau:
+ Nhiễm trùng nhiều lần xuất hiện trước 5
tuổi.
+ Nồng độ IgG, IgM, IgA dưới 2SD so với
tuổi.
+ Không có phản ứng isohemagglutinin.
Trong khi đó theo WHO(11), tiêu chuẩn chẩn
đoán XLA được xác định gồm giới nam, nhiễm
trùng nặng, giảm globuline miễn dịch, giảm
lượng tế bào B lưu hành trong máu và có đột
biến gen Btk. Như vậy theo y văn, tiêu chuẩn
cần và đủ để chẩn đoán XLA gồm đột biến gen
Btk và có giảm tế bào B CD19+ ở trên bệnh nhân
nam có nhiễm trùng nhiều lần, tất cả tiêu chí
này đủ để chứng minh mối liên hệ sinh lý bệnh
XLA. Vì xác định đột biến gen Btk và giảm tế
bào B CD19+ cho thấy chính đột biến gen Btk
gây thiếu hụt protein Btk ảnh hưởng tới tiến
trình tăng sinh và biệt hóa của tế bào B, từ đó
làm giảm sản xuất gamma globulin máu làm
cho bệnh nhân bị XLA không có đủ kháng thể
miễn dịch để bảo vệ cơ thể khi có tác nhân gây
bệnh xâm nhập(14,18). Ngoài ra, bệnh nhân có đủ
các tiêu chuẩn này mới giúp phân biệt được một
số các bệnh lý suy giảm miễn dịch tiên phát
cũng có giảm gamma globulin như Common
variable immunodeficiency (CVID), hoặc
autosomal recessive agammaglobulinemia hoặc
giảm phối hợp tế bào T và B (combined T and B
immunodeficiencies) và nhất là để tránh sai lầm
chẩn đoán bước đầu ở các trẻ nhũ nhi có hiện
tượng giảm miễn dịch sinh lý(5,13).
Cả 4 bệnh nhân tại BVNĐ1 HCM, được chẩn
đoán bệnh XLA có đủ tiêu chuẩn chẩn xác định
XLA theo WHO(11) như đều là giới nam, có biểu
hiện nhiễm trùng nặng khi nằm viện, có gamma
globulin máu giảm thấp, các thành phần
globulin miễn dịch thấp, tế bào B trưởng thành
thấp và xác định được có đột biến gen Btk.
Chúng tôi nhận thấy tiêu chuẩn chẩn đoán của
y văn về bệnh XLA rất quan trọng vì đòi hỏi bác
sĩ nhi khoa ngoài việc nghi ngờ các ca lâm sàng
bước đầu cần thực hiện tiếp các xét nghiệm
chuyên khoa, hoặc cần khảo sát nhiều lần trong
các thời gian kế tiếp mỗi 6 tháng về xét nghiệm
định lượng gammaglobulin máu để đạt mức
chính xác trong việc chẩn đoán dương tính.
Về tuổi chẩn đoán, bệnh nhân XLA trong lô
chúng tôi có tuổi trung bình 3 tuổi, và tuổi bắt
đầu bị bệnh là dưới 12 tháng (bảng 3). Kết qủa
của chúng tôi tương tự như các nơi như tại
Brazin, tuổi bệnh nhân từ 3-10 tuổi(12), hoặc tại
Korea là 4.89 tuổi(3). Theo y văn, bệnh cảnh
nhiễm trùng thường xuất hiện từ khi trẻ trên 3
tháng đến 18 tháng(16,18). Tuổi phát hiện có liên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 312
quan tới sinh lý miễn dịch của trẻ và có liên
quan tới thái độ phát hiện chẩn đoán của bác sĩ
lâm sàng. Thông thường trẻ sau sinh sẽ được
hưởng IgG từ mẹ sang thai qua nhau cho nên
khi sanh trẻ có lượng IgG tương tự IgG của mẹ,
IgG mẹ cho sẽ giảm còn 50% trong vòng 2 - 3
tháng sau sanh. Trẻ cũng tự tổng hợp IgG, tốc
độ tổng hợp IgG của trẻ sẽ cao hơn tốc độ giảm
IgG của mẹ vào khoảng 4 - 6 tháng tuổi. IgG trẻ
sẽ tăng nhanh trong 3 năm đầu tiên đạt đến
ngưỡng 60% so với IgG người lớn, sau đó IgG sẽ
tăng chậm lại và đạt ngưỡng IgG người lớn vào
lúc vị thành niên. Do đặc điểm bệnh XLA có đột
biến gen BTK, tế bào B của trẻ bệnh XLA không
có khả năng tăng sinh, biệt hóa để tạo lượng
gamma globulin bảo vệ cho trẻ, cho nên ở giai
đoạn sau sinh lượng IgG từ mẹ cho con ở các trẻ
này vẫn còn làm hàng rào tự nhiên đủ để bảo vệ
trẻ, chỉ sau 4 - 6 tháng tuổi khi IgG mẹ giảm thì
trẻ mới dễ bị mắc bệnh(14). Tuy nhiên từ 6 tháng
đến 12 tháng tuổi lại trùng lấp với giai đoạn
giảm sinh lý kháng thể. Vì vậy đối với trẻ dưới
12 tháng tuổi, để chẩn đoán XLA nên chú dấu
hiệu mắc nhiều lần các bệnh lý nhiễm trùng,
hoặc bệnh thường kéo dài đáp ứng kém với điều
trị mặc dù trẻ đã được gia đình đưa đi khám bác
sĩ rất sớm và nếu là trẻ nam thì ngoài các xét
nghiệm thường qui tầm soát nguyên nhân sốt
kéo dài do bệnh lý nhiễm trùng, bệnh lý huyết
học ác tínhcần tầm soát thêm các xét nghiệm
về miễn dịch dịch thể và tế bào. Ngoài ra, yếu tố
tiền căn sản khoa bình thường, thời gian ổn
định trong giai đoạn sơ sinh, cũng là điều kiện
giúp cho các bác sĩ lâm sàng loại bỏ các bệnh lý
suy giảm miễn dịch thứ phát do nhiễm trùng
bào thai, do rối loạn chuyển hóa di truyền, hoặc
cơ địa suy dinh dưỡng bào thai(7).
Phân tích dấu hiệu lâm sàng của bệnh XLA
tại bệnh viện Nhi đồng 1 TPHCM cho thấy các
dấu hiệu nổi bật nhất là dấu hiệu sốt cao liên tục
và kéo dài, dấu hiện nhiễm trùng nhiều cơ quan
trong giai đoạn nhập viện, nhiễm trùng đường
tiêu hóa, viêm phổi nặng, nhiễm trùng da (bảng
4). Đặc điểm đa nhiễm trùng của bệnh nhân
XLA tại BVNĐ1 phù hợp với y văn của bệnh
nhân XLA ở khu vực chưa phát triển, tác nhân
gây bệnh sẽ tùy thuộc vùng cư trú của người
bệnh, theo tác giả Chun bệnh lý viêm phổi, viêm
tai giữa và viêm khớp nhiễm trùng chiếm ưu thế
tại bệnh viện Nhi Korea(3), tương tự theo tác giả
Brazin(12) thì trẻ em bị XLA tại Brazin có tỉ lệ
viêm phổi tái phát nhiều lần, viêm tai giữa rất
thường gặp. Theo y văn tình trạng nhiễm vi
khuẩn có vỏ bọc là đặc điểm của bệnh nhân bị
thiếu hụt kháng thể miễn dịch, vì khi kháng thể
miễn dịch giảm nặng sẽ không còn khả năng bắt
giữ các vi khuẩn lưu hành trong máu(1), nên khi
tác nhân gây bệnh xâm nhập không được kháng
thể ngăn chặn sẽ đưa đến nhiễm trùng nặng và
lan tràn. Khi tế bào B do đột biến gen không biệt
hóa để sản xuất IgM và cũng mất khả năng biệt
hóa chuyền tiếp sản xuất các kháng thể IgG,
IgA. Nên bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng hô hấp,
tiêu hóa và bệnh tiến triển nhanh đưa đến
nhiễm trùng huyết nặng. Bệnh nhân XLA tại
BVNĐ1 đều không sờ được hạch ngoại biên,
theo y văn dấu hiệu hạch ngoại biên không to là
một trong những hướng dẫn phát hiện lâm sàng
để chẩn đoán phân biệt với bệnh nhân không bị
suy giảm miễn dịch tiên phát XLA vì hạch to
cho biết phản ứng tăng sinh và hoạt hóa của các
lympho bào tại hạch khi có tác nhân gây bệnh
xâm nhập vào cơ thể(18). Trong bệnh XLA, các tế
bào B không tăng sinh được nên sẽ khó sờ thấy
hạch ngoại biên. Tuy nhiên đây không phải là
dấu hiệu chính để chẩn đoán loại trừ XLA vì có
trường hợp XLA vẫn sờ được hạch, do hiện
tượng tăng sinh bù trừ của các quần thể tế bào T
đang cư trú ở hạch. Chúng tôi chỉ ghi nhận 1 ca
có biểu hiện suy dinh dưỡng, trong khi theo y
văn dấu hiệu suy dinh dưỡng được xếp vào dấu
hiệu cảnh báo thứ 5 trong bảng 10 dấu hiệu cảnh
báo để phát hiện bệnh lý suy giảm miễn dịch
tiên phát(15). Đây là bệnh nhân 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng nặng với cân nặng chỉ đạt 11kg, so với
chuẩn cân nặng theo tuổi là 18,3 kg, bệnh nhân
chỉ đạt 60%, với tiền căn bệnh nhiễm trùng liên
tiếp từ 3 tuổi, bé có tiền sử sản khoa bình
thường cân nặng khi sanh là 3,2kg và không dị
tật bẩm sinh, nên có thể hiểu suy dinh dưỡng là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 313
hậu qủa của tiến trình bệnh kéo dài tái phát
nhiều lần hơn là do thiếu cung cấp dinh dưỡng.
Phân tích xét nghiệm huyết học cho thấy
dòng bạch cầu có thay đổi nhiều về số lượng và
chất lượng. Như vậy đặc điểm huyết học ở bệnh
nhân XLA là tình trạng nhiễm trùng nặng, nhiều
cơ quan và số lượng bạch cầu thay đổi không
điển hình, 2 ca có số lượng bạch cầu lympho
giảm theo tuổi, đồng thời dòng hồng cầu và tiểu
cầu không thay đổi nhiều (bảng 5). Theo y văn
khảo sát lượng tế bào bạch cầu ngoại biên là một
trong những bước đầu tiên để gợi ý chẩn đoán
bệnh lý suy giảm miễn dịch tiên phát(13) và bệnh
lý huyết học ác tính tại tủy, với điều kiện so
sánh theo từng ngưỡng tháng tuổi(5). Tuy nhiên
trên thực tế khi bệnh nhân XLA nhập viện với
nhiều bệnh cảnh nhiễm trùng nặng thì do phản
ứng miễn dịch tương tác gây tăng sinh của các
dòng bạch cầu khác như bạch cầu đa nhân trung
tính, bạch cầu đơn nhân, hay bạch cầu
lymphocyte T, do đó nếu chỉ khảo sát huyết đồ
1 lần sẽ không đủ để sàng lọc chẩn đoán, cần
tiến hành khảo sát dấu ấn miễn dịch, định lượng
tế bào B, T và NK (natural killer cells) để xác
định chẩn đoán.
Phân tích về điều trị bệnh nhân XLA, cho
thấy đa số bệnh nhân thường có thời gian nằm
viện kéo dài, sử dụng rất nhiều kháng sinh có
phổ mạnh (bảng 6). Theo y văn đây là hình ảnh
đặc trưng của của bệnh lý XLA và một số bệnh
lý suy giảm miễn dịch tiên phát, thường bệnh
nhân khởi phát viêm hô hấp hay tiêu chảy
nhưng khi nhập viện thì diễn tiến ngày càng
nặng và kéo dài. Trên thực tế hầu hết các trẻ này
chỉ được tiếp cận chẩn đoán suy giảm miễn dịch
tiên phát sau khi đã được các bác sĩ lâm sàng
thực hiện đầu đủ các xét nghiệm sàng lọc chẩn
đoán nhiễm trùng và đã sử dụng kháng sinh
phối hợp với các bước chuyển đổi kháng sinh
nhiều lần và bệnh nhân vẫn không hồi phục,
hoặc có hồi phục nhưng lại tái phát rất nhanh và
lại có biểu hiện nhiễm trùng cơ quan khác.
Chúng tôi ghi nhận hiệu quả của IVIG trên cả 4
ca bệnh, với đáp ứng lui bệnh và xuất viện xảy
ra ở cả 4 ca. Hiện nay, y văn thế giới nhất trí
điều trị miễn dịch thay thế là biện pháp phòng
bệnh hữu hiệu cho bệnh nhân suy giảm miễn
dịch tiên phát gồm cả bệnh XLA(18), bổ sung
kháng thể sẽ tăng cường lượng kháng thể lưu
hành để sẵn sàng bắt giữ ngay khi tác nhân
nhiễm trùng mới xâm nhập. Khi bị trường hợp
nhiễm trùng huyết nặng thì cần tăng liều tối đa
IVIG dựa trên cơ sở kháng thể truyền vào sẽ
tăng bắt giữ vi khuẩn lưu thông trong máu và
và trung hòa độc tố gây bệnh ngay tức thì(14). Tại
Korea, tỉ lệ mắc bệnh, và chất lượng sống của
người bệnh có tăng sau chương trình phòng
bệnh định kỳ bằng IVIG(3); tại Tehran, chương
trình phòng bệnh bằng IVIG đã thực hiện cho
bệnh suy giảm miễn dịch tiên phát với báo cáo
khả quan về kết quả cải thiện chất lượng sống
cho bệnh nhân sau 13 năm thực hiện và với ghi
nhận không có phản ứng phụ đáng tiếc do
thuốc gây ra(8).
KẾT LUẬN
Bệnh XLA với tiêu chuẩn chẩn đoán xác
định dựa vào dấu hiệu suy giảm tế bào miễn
dịch B, giảm kháng thể miễn dịch, có đột biến
gen Btk đã được xác định chẩn đoán tại Việt
Nam. Các bệnh nhân XLA này đều có các đặc
điểm về giới tính và dấu hiệu nhiễm trùng nặng
thường xuyên tái phát ở lứa tuổi nhỏ, cho nên
bước đầu phát hiện bệnh XLA hay bệnh lý suy
giảm miễn dịch tiên phát sẽ tùy thuộc vào bác sĩ
NHI khoa ở tuyến cơ sở. Bác sĩ tuyến cơ sở cần
sàng lọc các bệnh nhân nam, nhỏ tuổi có tiền sử
nhập viện nhiều lần vì các bệnh lý nhiễm trùng
hô hấp, nhiễm trùng tiêu hóa, nhiễm trùng da,
hay khi bệnh nhân nằm viện kéo dài và không
đáp ứng với kháng sinh phổ rộng phối hợp.
Phát hiện sớm từ tuyến cơ sở sẽ tăng cường
chẩn đoán sớm bệnh nhân XLA giúp cho bệnh
nhân được điều trị và phòng bệnh an toàn và
hữu hiệu. Đối với các bác sĩ nhi khoa tại bệnh
viện trung tâm, chẩn đoán bệnh chính xác sẽ cho
biết tần suất bệnh thực sự của XLA cũng như
các bệnh lý Suy giảm miễn dịch tiên phát khác,
từ đó mở hướng nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh
vực bệnh lý miễn dịch di truyền, và các công
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 314
trình nghiên cứu tương lai đó sẽ giúp ngành y tế
cập nhật thông tin và mở rộng biện pháp điều
trị và quản lý các bệnh lý di truyền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abbas AK et al (2010), Congenital and Acquired
immunodeficiencies. In: Abbas KA, Lichman AH, Pilai S.Cellular
and molecular immunology.6th edition, 463-488, Saunders
Elsevier, Philadelphia.
2. Burton OC (1952), Agammaglobulinemia, Pediatrics, 9(6): 722-
728.
3. Chun JK, et al (2008), Analysis of clinical presentations of Burton
disease: a review of 20 years of accumulated data from pediatric
patients at Severance Hospital, Yonsei Med.J, 49(1): 28-36.
4. Feder E H et al (1998), Mutation screening of the BTK Gene in
56 Families with X-linked Agammaglobulinemia (XLA): 47
Unique Mutations without correlation to Clinical Course,
Pediatrics, 101(2): 276-284.
5. Fransi (Geha R, 2008 #28) co AB (2011), Primary humural
Immune Deficiency: An overview, Uptodate.
6. Geha R et al (2000), X-linked Agammaglobulinemia. In: Geha R
& Rosen FFleish T. Case studies in Immunology: A clinical
companion, 5th edition, 57-63. Garland Science. New York.
7. Hans DO et al (2004), Antibody deficiency. In: Stiehm
ER.Immunologic Diseases in Infant &Children, 5th edition, 356-
426, Elsevier Saunders, Philadelphia.
8. Khavidaki DS et al (2009), Adverse reactions of prophylactic
intravenous immunoglobulin; a 13-year experience with 3004
infusions in Iranian patients with primary immunodeficiency
diseases, J invests Allergol Clin immunol, 19(2): 139-45.
9. Kwan SP et al (1986), Mapping of the X-linked
Agammaglobulinemia locus by use of restrictive fragment –
length polymorphism, J Clin Invest, 77: 649-52.
10. Lee PP et al (2010), Clinical characteristics and genotype-
phenotype correlation in 62 patients with X-linked
agammaglobulinemia, J.Clin Immunol, 30(1): 121-3.
11. Raif S et al (2007), Primary immunodeficiency diseases: An
update from the International Union of Immunological Societies
Primary Immunodeficiency Diseases Classification Committee,
The Journal of Allergy and Clinical Immunology, 120(4): 776-
794.
12. Ramalho VD et al (2010), Mutation of Burton’s tyrosine kinase
gene in Brazilian patients with X-linked agammaglobulinemia,
Braz J Med Biol Res, 43(9): 910-3.
13. Ricardo US et al (2000), Antibody deficiency syndrome. In:
Fleish TA and Ballow M Primary Immune Deficiencies:
presentation, Diagnosis, and management, 1225-1254,
Saunderscompany, Philadelphia.
14. Stiehm ER et al (2004), Immunodeficiency Disorders: General
Considerations. In: Stiehm ER.Immunologic Diseases in Infant
&Children. 5th edition, 289-355, Elsevier Saunders, Philadelphia.
15. Subbarayan A et al (2011), Clinical Features that identify children
with Primary Immunodeficiency diseases, Pediatrics, 127: 810-
816.
16. Tsukada S et al (1993), Deficient expression of a Bcell
cytoplasmic tyrosine kinase in human X-linked
agammaglobulinemia, Cell, 72(2): 279-90.
17. Wang Y et al (2009), Mutation of the BTK gen and clinical
feature of X-linked agammaglobulinemia in mainland China,
J.Clin Immunol, 29(3): 352-6.
18. Winkelstein JA et al (2011), Agammaglobulinemia, Uptodate, 1-
13.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_benh_nhan_thieu_gammaglobulin_mau_co_lien_quan_nhie.pdf