Đặc điểm cận lâm sàng
Trong nhiễm EV71, bạch cầu và tiểu cầu
xuất hiện rất sớm tại nơi tổn thương và tham gia
vào quá trình viêm(8). Do đó, Số lượng bạch cầu
và tiểu cầu đều có thể tăng trong nhiễm EV71.
Trong đó, tăng bạch cầu đa nhân trung tính có
liên quan đến tử vong (T‐test, p=0,021).
Đa số các trường hợp chọc dò dịch não tủy
cho kết quả tăng số lượng tế bào đơn nhân. Tuy
nhiên có 2 trường hợp tế bào dịch não tủy tăng
rất cao > 1000 TB/mm3. Trong nghiên cứu của tác
giả Tăng Chí Thượng trên bệnh nhân TCM nói
chung, có tới 50,3% trường hợp tăng bạch cầu đa
nhân kiểu viêm màng não vi trùng(14). Vì vậy,
cần lưu ý phân biệt với những trường hợp viêm
màng não do vi trùng để tránh sử dụng kháng
sinh không dúng chỉ định.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 196 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh nhi nhiễm Enterovirus 71 có triệu chứng thần kinh tại bệnh viện nhi đồng 2 năm 2011‐2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 374
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHI NHIỄM ENTEROVIRUS 71
CÓ TRIỆU CHỨNG THẦN KINH
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 NĂM 2011‐2012
Trần Quốc Quang*, Đoàn Thị Ngọc Diệp**, Trần Thị Ngọc Anh***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm các bệnh nhi (BN) nhiễm Enterovirus 71 (EV71) có triệu chứng thần kinh điều
trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 7/2011 đến tháng 12/2012.
Phương pháp: Hồi cứu, mô tả loạt ca.
Kết quả: Có 328 BN dương tính với EV71 được chọn vào nghiên cứu. Bệnh gặp ở trẻ nam nhiều hơn trẻ
nữ, với tỉ số nam:nữ là 158:1.Tuổi trung bình 27 tháng. Có 79,6% trẻ dưới 36 tháng. Tất cả trẻ đều có sốt. Có
94,5% trẻ có phát ban, 64,9% trẻ có loét miệng và 3% trẻ không có sang thương da niêm. Triệu chứng thần kinh
thường xảy ra từ ngày thứ 3 ‐5 sau khi khởi bệnh. Các triệu chứng thường gặp là giật mình (95,7%) và run chi
(61%).Các triệu chứng thần kinh khác ít gặp hơn bao gồm đi loạng choạng (13,1%), yếu chi (6,7%), rung giật
nhãn cầu (1,8%), liệt dây thần kinh sọ (0,6%), co giật (4,6%), dấu màng não (1,8%) và rối loạn tri giác (2,7%).
Biến chứng hô hấp – tuần hoàn nặng thường xảy ra vào ngày thứ 3 – 5 của bệnh, có15 trẻ (4,6%) bị sốc và 12
trẻ (3,7%) bị phù phổi.Kết quả điều trị, có 301 trẻ (91,7%) khỏi bệnh hoàn toàn, 14 trẻ (4,3%) có di chứng thần
và 13 trẻ (4%) tử vong.
Kết luận: BN nhiễm EV71 có triệu chứng thần kinh có thể có sang thương ở tay chân miệng hoặc không.
Bệnh diễn tiến cấp tính có thể gây suy hô hấp tuần hoàn nặng nhưng tỉ lệ điều trị khỏi hoàn toàn rất cao nếu
được điều trị đúng và kịp thời.
Từ khóa: enterovirus 71, triệu chứng thần kinh.
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF ENTEROVIRUS 71 INFECTION WITH NEUROLOGICAL SYMPTOMS
AT THE CHILDREN HOSPITAL NO2 2011‐2012
Tran Quoc Quang, Doan Thi Ngoc Diep, Tran Thi Ngoc Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 374‐380
Objectives: To describe the demographic features, clinical manifestations and laboratory resultsof EV71
infection cases with neurological symptoms at Children Hospital No2 from July 2011 to December 2012.
Methods: Retrospective, descriptive case series.
Results: 328 cases positive for EV71with neurological symptoms wereincluded. Percentage of male group is
higher than female one, sex ratio male : female is 1,58:1. Mean age is 27 months. There are 79.6% of children
under 36 months of age. All patientshave fever. There are 94.5% of patients with skin rashes, 64.9% with mouth
ulcers and 3% do not have skin and mucous membrane lesions. Common neurological symptoms appear from
day 3 – 5, includingmyoclonic jerk (95.7%) and extremity myoclonus (61%).Less common neurological
symptoms include unsteadiness (13.1%), limb weakness (6.7%), nystagmus (1.8%), cranial nerve paralysis (0.6
%), convulsion (4.6%), meningeal signs (1.8%) and perceptual disorders (2.7%). Severe cardiopulmonary
complications usually occur on days 3‐5, 16 patients (4.6%) with shock and 12 patients (3.7%) with pulmonary
*Bệnh viện ĐKKV Củ Chi ** Bộ môn Nhi – Đại học Y Dược TP.HCM *** Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: BS. Trần Quốc Quang ĐT: 0988001907 Email: quangbs@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 375
edema. Regarding outcomes, 301 patients (91.7%) completely recovered, 14 patients (4.3%) with neurological
sequelae and 13 patients (4%) died.
Conclusion: EV71‐infected patients with neurological symptoms may or may not be in hand, foot and
mouth lesions. Acute disease progression can cause severe cardiopulmonary complications, but the rate of
complete cure is very high if the patient is treated properly and promptly.
Key words: enterovirus 71, neurological symptoms
ĐẶT VẤN ĐỀ
Enterovirus 71 (EV 71) được biết đến là một
trong những tác nhân gây ra các đợt bùng phát
dịch bệnh TCM gần đây ở Việt Nam và trên thế
giới. Không giống coxsackievirus A16 (CVA16) và
các enterovirus khác, phần lớn chỉ gây các thể
bệnh nhẹ và bệnh có thể tự giới hạn, bệnh do
nhiễm EV71 gây ra có thể có những biến chứng
nặng và tử vong nhanh chóng, đặc biệt là biến
chứng thần kinh và suy hô hấp – tuần hoàn(2,14).
Đa số trẻ nhiễm EV71 có biểu hiện lâm sàng
bệnh TCM hay viêm loét miệng. Tuy nhiên, có
một tỉ lệ nhỏ trẻ có sốt nhưng không có biểu
hiện sang thương da hay niêm mạc, vẫn có biến
chứng thần kinh.
Từ năm 1997, đã có nhiều trận dịch EV71 lớn
xảy ra trong khu vực Châu Á –Thái Bình Dương,
đặc biệt ở Sarawak (Malaysia) vào năm 1997(2),
Đài Loan vào năm 1998, Trung Quốc vào năm
2008(13) và Việt Nam năm 2011(6). Trong những
đợt bùng phát dịch này, nhiều trường hợp có
biến chứng nặng và tử vong đã được báo cáo.
Do đó, nhiễm EV71 đã trở thành vấn đề y tế cấp
bách được sự quan tâm của nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam.
Nghiên cứu này nhằm mục đích mô tả
những yếu tố dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng
liên quan đến những trường hợp nhiễm EV71 có
triệu chứng thần kinh.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm
sàng và điều trị các trường hợp nhiễm EV71 có
triệu chứng thần kinh điều trị tại Bệnh viện Nhi
Đồng 2 từ tháng 7/2011 đến tháng 12/2012.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu, mô tả loạt ca với cỡ mẫu là 328 trẻ.
Tiêu chẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu khi có
đủ các tiêu chuẩn sau:
1 ‐ Tuổi: từ 1 tháng đến 15 tuổi.
2 ‐ Triệu chứng thần kinh: có một trong các
triệu chứng sau:
‐ Giật mình chới với ≥ 2 lần/30 phút hoặc giật
mình lúc khám.
‐ Run chi, thất điều, rung giật nhãn cầu.
‐ Rối loạn tri giác.
‐ Co giật.
‐ Co gồng mất não, co gồng mất vỏ.
3 ‐ RT‐PCR EV71 dương tính ở phết họng
và/hoặc phết trực tràng và/hoặc dịch não tủy
thực hiện tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 hoặc Viện
Pasteur TP.HCM.
Tiêu chí loại trừ
Bệnh nhân có bệnh lý thần kinh hay các
bệnh lý tim mạch, phổi mãn tính trước đó.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong khoảng thời gian 18 tháng từ tháng
7/2011 đến tháng 12/2012, có 346 trường hợp có
kết quả RT‐PCR EV71 dương tính. Tuy nhiên,
chỉ có 328 trường hợp đủ tiêu chí đưa vào
nghiên cứu.
Đặc điểm về dịch tễ học
Tuổi
Tuổi trung bình là 26,69 ± 15,03 tháng, thay
đổi từ 3 tháng đến 130 tháng. Đa số trẻ nhỏ hơn
3 tuổi (79,6%), ít gặp ở trẻ nhỏ hơn 6 tháng và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 376
trên 5 tuổi. Lứa tuổi có tỉ lệ chiếm cao nhất là 12
– 24 tháng (35,1%).
Giới tính
Trẻ nam mắc bệnh nhiều hơn trẻ nữ với tỉ
lệ nam:nữ là 1,58:1. Nhiều nghiên cứu khác
cũng có tỉ lệ trẻ nam mắc bệnh cao hơn trẻ nữ,
tuy nhiên cho đến hiện tại vẫn chưa có tài liệu
nào giải thích chính xác cho điều này. Nhóm
trẻ tử vong có tỉ lệ nam:nữ là 2,25:1. Trong
nghiên cứu này, không thấy có sự liên quan
giữa giới tính và tử vong.
Tiền căn tiếp xúc trẻ bệnh TCM
Có 38 trẻ (11,6%) được ghi nhận có tiếp xúc
với trẻ bị TCM trong gia đình hay cộng đồng
xung quanh. Đối với các dòng EV, thời gian thải
virus từ đường tiêu hóa của người nhiễm bệnh
kéo dài 3 tuần qua đường hô hấp trên và 5 – 8
tuần qua phân. Do đó, nếu một trẻ nhiễm EV71
không được cách lythì khả năng lây lan EV71
cho nhiều trẻ khác rất cao.
Tình trạng dinh dưỡng
Tính dinh dưỡng dựa vào cân nặng theo tuổi
có 88,2% trẻ trong giới hạn bình thường, 2,8% trẻ
nhẹ cân và 9% trẻ thừa cân – béo phì.
Triệu chứng khởi phát
Đa số trẻ khởi phát với triệu chứng sốt
(79,3%). Các triệu chứng da niêm là các dấu hiệu
dễ được nhận biết nhưng chỉ chiếm tỉ lệ thấp,
với nổi ban 17,3% và loét miệng 2,2%.
Lý do nhập viện
Lý do khiến thân nhân lo lắng và đưa trẻ
nhập viện nhiều nhất là sốt cao (52,1%). Các
triệu chứng thần kinh chiếm tỉ lệ thấp hơn, chủ
yếu giật mình (18,3%), run chi (15,2%) và co giật
(3,8%).Triệu chứng da niêm chiếm tỉ lệ rất thấp,
do hầu hết trẻ TCM chỉ được nhập viện từ độ 2A
trở lên.
Các đặc điểm lâm sàng
Sốt
Tất cả trẻ trong nghiên cứu đều có sốt.Sốt
khởi phát từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 4 của
bệnh, đặc biệt là ngày đầu tiên với tỉ lệ 86,6%.
Thời gian từ lúc khởi bệnh đến thời điểm trẻ
sốt cao nhất trung bình là 3,28 ± 1,06 ngày,
vớinhiệt độ cao nhất ghi nhận trong thời gian
nằm viện trung bình là 39,79 ± 0,78oC. Có
95,4% trẻ sốt trên 39oC. Các trường hợp tử
vong, tỉ lệ trẻ sốt cao từ 40 oC trở lên cao hơn
nhóm sống một cách có ý nghĩa thống kê
(84,6% so với 43,5%, χ2, p=0,004). Tổng số ngày
sốt có trung vị là 5 ngày (2 – 21 ngày).
Sang thương da niêm
Các triệu chứng xuất hiện ở da hoặc niêm
mạc chiếm tỉ lệ cao (97%). Tuy nhiên, có 10 trẻ
(3%) không có phát ban hay bóng nước nhưng
vẫn có các biểu hiện thần kinh và 1 trẻ trong số
này tử vong. Riêng về đặc điểm phát ban ở da, tỉ
lệ trẻ có phát ban trong nhóm tử vong thấp hơn
nhóm trẻ sống một cách có ý nghĩa thống
kê(69,2% so với 95,6%, χ2, p=0,03). Như vậy, cần
lưu ý đến khả năng trẻ nhiễm EV71 trong những
trường hợp có biểu hiện thần kinh, mặc dù trẻ
không có triệu chứng da niêm.
Các triệu chứng thần kinh
Giật mình
Giật mình là triệu chứng thần kinh có tỉ lệ
cao nhất (95,7%). Giật mình thường xuất hiện
sớm, thường vào ngày thứ 2 của bệnh (2,06 ± 1,1
ngày), sớm nhất là ngày 1 và trễ nhất là ngày
thứ 6 của bệnh. Giật mình xuất hiện đơn thuần
thì không có giá trị chẩn đoán viêm não thân
não trong nhiễm EV71. Tuy nhiên, giật mình lại
là dấu hiệu có độ nhạy cao để phát hiện các
trường hợp có biến chứng thần kinh nặng do có
giá trị tiên đoán âm lên tới 95%(11).
Run chi
Run chi là dấu triệu chứng thần kinh có xuất
độ cao thứ hai sau giật mình (61%). Thời điểm
xuất hiện run chi thường vào ngày thứ 3 của
bệnh (2,61 ± 0,99 ngày).
Yếu chi
Yếu chi là dấu hiệu của tổn thương sừng
trước tủy sống và rễ bụng cùng bên phía chi bị
yếu liệt. Có 22 trẻ (6,7%) có yếu chi. Không có trẻ
nào liệt hoàn toàn, sức cơ trong khoảng 2/5 – 4/5.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 377
Có 8 trẻ được chụp MRI thì có 1 trẻ có hình ảnh
viêm sừng trước tủy cổ bên phải ngang mức C4
– C6, 1 trẻ có tổn thương rải rác chất trắng trong
hai bán cầu đại não, và 3 trẻ có hình ảnh viêm
vùng thân não. Khác với bệnh bại liệt, trẻ nhiễm
EV71 bị yếu chi cho thấy khả năng phục hồi
hoàn toàn vận động(4). Trong số những trẻ bị yếu
chi thì có 8 trẻ phục hồi hoàn toàn khi xuất viện,
các trẻ khác có hồi phục một phần.
Liệt thần kinh sọ
Rất ít gặp. Có 2 trẻ bị liệt dây thần kinh sọ, 1
trẻ liệt dây số VII trung ưng và 1 trẻ liệt dây số
XII. Cả 2 trẻ đều có biểu hiện yếu chi.
Đa số trẻ bị co giật này là cơn co giật lần
đầu. Co giật xuất hiện khi trẻ sốt cao và không
kèm rối loạn tri giác sau đó. Tuy nhiên trong
nhóm trẻ tử vong, tỉ lệ có co giật cao hơn nhóm
sống (30,8% so với 3,5%, p=0,002).
Có 6 trẻ có dấu màng não như cổ gượng,
dấu Kernig dương tính. Kết quả dịch não tủy ở
những trẻ này đều có tăng số lượng tế bào.
Rối loạn tri giác
Ít gặp ở trẻ nhiễm EV71, có 11 trẻ được ghi
nhận có rối loạn tri giác, trong đó có 1 trẻ hôn
mê và 10 trẻ có tình trạng lơ mơ. Hầu hết các trẻ
còn lại có tri giác tỉnh hoặc được thở máy sớm
trước khi có rối loạn tri giác. Thời điểm trẻ bị rối
loạn tri giác sớm nhất là ngày thứ 2 và trễ nhất là
ngày thứ 5 của bệnh.
Biểu đồ 1: Tỉ lệ các triệu chứng thần kinh
Các triệu chứng hô hấp
Triệu chứng cớ năng hô hấp có xuất độ thấp,
chỉ có 15,9% trẻ có triệu chứng ho và 6,4% trẻ có
sổ mũi.
Thở nhanh
Trong các rối loạn hố hấp, thở nhanh chiếm
tỉ lệ cao nhất (30,2%). Thời gian trung bình xuất
hiện thở nhanh là 3 ngày sau khi khỏi phát bệnh.
Tỉ lệ trẻ thở nhanh ở nhóm trẻ tử vong cao hơn
nhóm trẻ sống (69,2% so với 28,6%, với p=0,02).
Các rối loạn kiểu thở bao gồm cơn ngưng thở
(14,9%), thở rút lõm (7,6%), thở bụng (4,9%), thở
rít thanh quản (2,7%), thở khò khè(1,2%) và phù
phổi cấp (3,7%).
Phù phổi
Có 12 trẻ bị phù phổi. Thời gian từ lúc khởi
bệnh đến lúc xuất hiện phù phổi trung bình là 4
ngày. Các trẻ bị phù phổi có biểu hiện thở nhanh
hoặc rối loạn kiểu thở trước đó, có ran ẩm 2 bên
tăng lên nhanh và có xuất huyết phổi. Tất cả các
trẻ bị phù phổi này đều có nhịp tim nhanh, 9 trẻ
có tăng huyết áp trước và 3 trẻ có tụt huyết áp.
Có 10 trẻ bị phù phổi được siêu âm tim thì 9 trẻ
có giảm phân suất tống máu. Tất cả trẻ phù phổi
có bóng tim không to trên hình ảnh X‐quang.
Các biểu hiện tuần hoàn
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá
mạch nhanh khi mạch trên giới hạn bình
thường theo tuổi(7). Tỉ lệ trẻ có mạch nhanh là
61%. Thời điểm xuất hiện mạch nhanh là ngày
thứ 3 của bệnh (2,92 ± 0,91 ngày).Có 19 trẻ (5,8%)
có mạch trên 200 lần/phút. Tỉ lệ trẻ có mạch ≥200
lần/phút ở nhóm tử vong cao hơn nhóm sống có
ý nghĩa thống kê. (92,3% so với 2,2%, χ2,
p<0,001).
Tăng huyết áp cũng chiếm tỉ lệ cao (55,5%).
Thời điểm tăng huyết áp là ngày thứ 3 của bệnh
(3,11 ± 1 ngày).
Có 15 trẻ bị sốc. Trong đó, có 12 trẻ (80%) có
tăng huyết áp một khoảng thời gian trước khi
diễn tiến đến huyết áp tụt hoặc kẹp. Ngày xảy ra
sốc sớm nhất là ngày thứ 3 và trễ nhất là ngày
thứ 5 của bệnh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 378
Bảng 1: Các triệu chứng hô hấp – tuần hoàn
Triệu chứng lâm sàng Số ca (%)
Thở nhanh 99 (30,2)
Cơn ngưng thở 49 (14,9)
Thở rút lõm 25 (7,6)
Thở bụng 16 (4,9)
Thở rít thanh quản 9 (2,7)
Khò khè 4 (1,2)
Phù phổi 12 (3,7)
Mạch nhanh 200 (61)
Tăng huyết áp 182 (55,5)
Sốc 15 (4,6)
Triệu chứng tiêu hóa
EV71 xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu
hóa, nhưng trẻ bị tiêu chảy không nhiều, chỉ có
3,4% trẻ bị tiêu chảy và đa số những trẻ này bị
tiêu chảy sau khi nhập viện 2 – 8 ngày.
Tỉ lệ trẻ có nôn ói trong nghiên cứu này là
58,5%. Không có sự khác biệt về tỉ lệ nôn ói giữa
nhóm trẻ sống và tử vong.
Đặc điểm cận lâm sàng
Bạch cầu
Số lượng bạch cầu lúc nhập viện có trung vị
là 13.650/mm3máu, thấp nhất là 5.440/mm3 và
cao nhất là 36.700/mm3. Số lượng trung bình của
bạch cầu đa nhân trung tính là 8.734 ±
3.812/mm3 máu. Phân tích số lượng trung bình
bạch cầu đa nhân trung tính của nhóm tử vong
cao hơn nhóm sống có ý nghĩa thống kê
(11.128/mm3 so với 8.635/mm3, T‐test, p=0,021).
Tiểu cầu
Số lượng tiểu cầu trung bình là 373.972 ±
90.310/mm3 máu. Số lượng thấp nhất là
141.000/mm3 và cao nhất là 656.000/mm3. Không
có sự khác biệt về số lượng tiểu cầu giữa nhóm
trẻ sống và tử vong.
Đường huyết
Đường huyết đo lúc nhập viện và đường
huyết tối đa ghi nhận trong thời gian nằm viện
tăng cao ở nhóm trẻ tử vong hơn nhóm trẻ sống
một cách có ý nghĩa thống kê (T‐test, p<0,05).
Khi mức độ đường huyết của các trường hợp
bệnh TCM nhẹ tăng nhanh thì những trường
hợp này sẽ phát triển thành trường hợp nghiêm
trọng trong 2 – 4 giờ sau đó(9).
Men tim
Có 59,8% trẻ được đo nồng độ Troponin I
trong máu, với tỉ lệ dương tính là18,4%. Có
56,7% trẻ được đo nồng độ CK‐MB trong máu,
với tỉ lệ dương tính là 13,4%. Cả troponin I và
CK‐MB đều tăng cao hơn ở nhóm tử vong so
với nhóm trẻ sống có ý nghĩa thống kê (T‐test,
p<0,05).
Dịch não tủy
Có 107 trẻ (32,6%) được chọc dò dịch não
tủy. Số lượng tế bào trong dịch não tủy có trung
vị là 47 BC/mm3, thấp nhất là 0 BC/mm3 và cao
nhất là 3420 Bc/mm3. Có 88 trẻ (82,2%) có số
lượng tế bào tăng ≥ 10 BC/mm3, đa số tăng tế
bào đơn nhân. Trong số này, có 2 trường hợp số
lượng bạch cầu > 1000 BC/mm3. Không có
trường hợp nào đường dịch não tủy giảm dưới
một nửa mức đường huyết cùng lúc chọc dò và
hầu hết nồng độ lactate dịch não tủy không
tăng. Tất cả đều cấy âm tính.
Chụp cộng hưởng từ (MRI)
Có 13 trẻ được chụp MRI. Chỉ có 7 trẻ có
hình ảnh bất thường. Trong số những trẻ tổn
thương não, 1 trường hợp có viêm sừng trước
tủy cổ bên phải ngang mức C4 – C6, 4 trường
hợp viêm thân não, 1 trường hợp tổn thương
vùng chẩm bên phải và 1 trường hợp tổn
thương rải rác chất trắng hai bên bán cầu.
Kết quả điều trị
Có 13 trẻ tử vong, 14 trẻ có di chứng yếu liệt
khi xuất viện và 301 trẻ khỏi bệnh hoàn toàn.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ học
Nhiễm EV71 là bệnh có diễn tiến cấp tính.
Bệnh thường xảy ra ở lứa tuổi dưới 3 tuổi, đây là
lứa tuổi nhà trẻ. Khi có 1 trẻ bị nhiễm EV71
không được cách ly thì khả năng lây cho các trẻ
khác trong cùng nhà trẻ là rất cao.
Tỉ lệ mắc bệnh ở trẻ nam cao hơn trẻ nữ, với
tỉ số nam:nữ là 1,58:1. Kết quả năng phù hợp với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 379
nhiều nghiên cứu khác(3,6). Tuy có một số giả
thuyết đặt ra nhưng cho đến hiện tại vẫn chưa
có tài liệu nào giải thích chính xác cho điều này.
Đối với các dòng EV, thời gian thải virus từ
đường tiêu hóa của người nhiễm bệnh kéo dài 3
tuần qua đường hô hấp trên và 5 – 8 tuần qua
phân(1). Do đó, bệnh có khả năng lây lan cao nếu
không có biện pháp vệ sinh đúng cách cho cả trẻ
bệnh và trẻ lành.
Đặc điểm lâm sàng
Bệnh thường khởi phát với triệu chứng sốt,
đây là biểu hiện do EV71 xâm nhập vào cơ thể
gây ra tình trạng nhiễm virus máu thứ phát. Trẻ
cũng có thể khởi phát bệnh với triệu chứng phát
ban và loét miệng, tuy nhiên chiếm tỉ lệ không
nhiều. Sốt cũng là lý do khiến thân nhân của BN
quan tâm nhiều nhất và đưa trẻ nhập viện.
Tất cả BN trong nghiên cứu đều có sốt, có
86,6% trẻ sốt ngay trong ngày đầu tiên của bệnh.
Nhiệt độ cao nhất ghi nhận trong thời gian nằm
viện trung bình là 39,79 ± 0,78oC, thường xảy ra
vào ngày thứ 3. Sốt là hậu quả của sự phóng
thích cytokine và tác động trực tiếp của EV71 lên
trung tâm điều hòa nhiệt ở thân não(10). Điều đó
giúp giải thích lý do trẻ nhiễm EV71 sốt rất cao
và tỉ lệ trẻ có nhiệt độ lên trên 40oC cao hơn
trong nhóm tử vong so với nhóm trẻ sống (χ2,
p=0,004).
Da và niêm mạc cũng là cơ quan đích của
EV71. Tuy nhiên, không phải tất cả trẻ đều có
biểu hiện phát ban hay loét miệng. Có 10 trẻ
trong nghiên cứu không có sang thương da
niêm nhưng vẫn có sốt và triệu chứng thần kinh.
Do đó, cần lưu ý khả năng nhiễm EV71 ở những
trẻ có sốt hoặc có triệu chứng thần kinh, đặc biệt
trong những mùa dịch.
Các triệu chứng thần kinh thường xuất hiện
sau ngày thứ 2 của bệnh. Trong đó, giật mình và
run chi là 2 triệu chứng gặp nhiều nhất. Run chi
có thể là biểu hiện của tổn thương ở cầu não
hoặc ở tiểu não(5,12). Giật mình xuất hiện đơn
thuần thì không có giá trị chẩn đoán viêm não
thân não trong nhiễm EV71. Tuy nhiên, giật
mình lại là dấu hiệu có độ nhạy cao để phát hiện
các trường hợp có biến chứng thần kinh nặng do
có giá trị tiên đoán âm lên tới 95%(11).
Trong số những trẻ bị yếu chi thì có 8 trẻ
phục hồi hoàn toàn khi xuất viện, điều này cho
thấy khả năng phục hồi hoàn toàn vận động của
trẻ liệt mềm do EV71.Theo tác giả Cheng – Yu
Chen, những trường hợp Yếu chi do nhiễm
EV71 có tổn thương sừng trước tủy sống và rễ
bụng cùng bên phía chi bị yếu liệt(4). Và cũng
theo tác giả này, trẻ nhiễm EV71 bị yếu chi có
tiện lượng tương đối tốt và tổn thương một bên
sừng trước tủy sống có tiên lượng tốt hơn tổn
thương cả hai bên(4).
Trẻ nhiễm EV71 có triệu chứng thần kinh ít
có rối loạn tri giác. Do EV71 thường gây tổn
thương khu trú ở vùng thân não. Trẻ chỉ rối
loạn tri giác khi tổn thương viêm lan rộng, gây
suy hô hấp – tuần hoàn dẫn đến tình trạng
thiếu oxy.
Những trẻ co giật trong nghiên cứu xảy ra
đồng thời với sốt cao. Tuy nhiên, tỉ lệ co giật
tăng cao hơn trong nhóm trẻ tử vong so với
nhóm sống (30,8% so với 3,5%, p=0,002). Do đó,
trong những mùa dịch, đối với trẻ có co giật kèm
sốt cao cần tìm kỹ những dấu hiệu khác của
nhiễm EV71 trước khi chẩn đoán sốt co giật lành
tính.
Các biến chứng hô hấp – tuần hoàn thường
xảy ra vào ngày 3 – 5. Trong nghiên cứu có 15 trẻ
bị sốc và 12 trẻ phù phổi cấp. Các trường hợp
phù phổi đều có thở nhanh hoặc có thở không
đều, có mạch nhanh nhưng không ghi nhận
gallop và không trường hợp nào có bóng tim to
trên X quang. Do đó, phù phổi trong nhiễm
EV71 không do tim.
Đặc điểm cận lâm sàng
Trong nhiễm EV71, bạch cầu và tiểu cầu
xuất hiện rất sớm tại nơi tổn thương và tham gia
vào quá trình viêm(8). Do đó, Số lượng bạch cầu
và tiểu cầu đều có thể tăng trong nhiễm EV71.
Trong đó, tăng bạch cầu đa nhân trung tính có
liên quan đến tử vong (T‐test, p=0,021).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 380
Đa số các trường hợp chọc dò dịch não tủy
cho kết quả tăng số lượng tế bào đơn nhân. Tuy
nhiên có 2 trường hợp tế bào dịch não tủy tăng
rất cao > 1000 TB/mm3. Trong nghiên cứu của tác
giả Tăng Chí Thượng trên bệnh nhân TCM nói
chung, có tới 50,3% trường hợp tăng bạch cầu đa
nhân kiểu viêm màng não vi trùng(14). Vì vậy,
cần lưu ý phân biệt với những trường hợp viêm
màng não do vi trùng để tránh sử dụng kháng
sinh không dúng chỉ định.
KẾT LUẬN
Nhiễm EV71 có triệu chứng thần kinh
thường gặp ở trẻ dưới 36 tháng. Đa số trẻ có sốt
cao. Có thể có hoặc không biểu hiện da niêm.
Các triệu chứng thần kinh thường gặp là giật
mình và run chi. Bệnh tử vong nhanh chóng do
biến chứng hô hấp – tuần hoàn, thường xảy ra
vào ngày thứ 3 – 5 của bệnh. Sốt cao trên 40oC,
co giật, thở nhanh và mạch nhanh có liên quan
đến tử vong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abzug, Mark J (2011), ʺNonpolio Enterovirusʺ, Nelson
Textbook of Pediatrics. Elsevier Saunders, 18 ed. p. 1081 –
1087.
2. Chan LG, et al (2000), ʺDeaths of children during an outbreak
of hand, foot, and mouth disease in sarawak, malaysia:
clinical and pathological characteristics of the disease. For the
Outbreak Study Groupʺ, Clin Infect Dis. 31(3), p. 678‐83.
3. Chang LY, et al (2002), ʺRisk factors of enterovirus 71
infection and associated hand, foot, and mouth
disease/herpangina in children during an epidemic in
Taiwanʺ, Pediatrics. 109(6), p. e88
4. Chen CY, et al (2001), ʺAcute flaccid paralysis in infants and
young children with enterovirus 71 infection: MR imaging
findings and clinical correlatesʺ, AJNR Am J Neuroradiol.
22(1), p. 200‐5
5. Huang CC, et al. (1999), ʺNeurologic complications in
children with enterovirus 71 infectionʺ, N Engl J Med. 341(13),
p. 936‐42
6. Khanh TH, et al (2012), ʺEnterovirus 71‐associated hand, foot,
and mouth disease, Southern Vietnam, 2011ʺ, Emerg Infect
Dis. 18(12), p. 2002‐5.
7. Kliegman, Robert M (2011), ʺHistory and physical
examinationʺ, Nelson textbook of pediatric, 19 ed. p. 1481‐
1488.
8. Laurence A, Ancliff P, Chowdary P (2006), ʺDisorders of
granulopoiesis and granulocyte functionʺ, Book title,
Blackwell Publishing Ltd
9. Li Y, et al (2012), ʺThe characteristics of blood glucose and
WBC counts in peripheral blood of cases of hand foot and
mouth disease in China: a systematic reviewʺ, PLoS One. 7(1),
p. e29003
10. Lin TY, et al (2003), ʺProinflammatory cytokine reactions in
enterovirus 71 infections of the central nervous systemʺ, Clin
Infect Dis. 36(3), p. 269‐74
11. Lu HK, et al (2004), ʺPrognostic implications of myoclonic jerk
in children with enterovirus infectionʺ, J Microbiol Immunol
Infect. 37(2), p. 82‐7
12. McMinn PC (2002), ʺAn overview of the evolution of
enterovirus 71 and its clinical and public health significanceʺ,
FEMS Microbiol Rev. 26(1), p. 91‐107
13. Pan J, et al (2012), ʺHigh risk factors for severe hand, foot
and mouth disease: a multicenter retrospective survey in
Anhui Province China, 2008‐2009ʺ, Indian J Dermatol.
57(4), p. 316‐21.
14. Tăng Chí Thượng, Nguyễn Thanh Hùng, Đỗ Văn Niệm,
Trương Hữu Khanh, Bạch Văn Cam, Nguyễn Bạch Huệ, Lê
Anh Tuấn, Lê Phan Kim Thoa (2011), ʺCác yếu tố tiên lượng
bệnh tay chân miệng do enterovirusʺ, Y Học TP. Hồ Chí
Minh. 15(3), p. 102‐109
Ngày nhận bài báo : 30/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_benh_nhi_nhiem_enterovirus_71_co_trieu_chung_than_k.pdf