This paper presents some results of three dimension (3D) modelling application
to research characteristics of field current variation in the coastal area of Red River Delta. In the
study, a 3D numerical model was set up with four vertical layers ( coordinate system). The open
sea boundary conditions of hydrodynamics model have been obtained by NESTING method from the
same l model for the larger marine region. Hydrodynamics model was calibrated and validated by
measured data of water levels in Hon Dau National Hydrographic Station and data of currents in
other sites (Ba Lat and Nam Trieu). In the studied results the temporal and spatial variation of total
currents and residual currents in the coastal area of Red River Delta are obtained, in which the
different roles of tidal oscillations-tide currents, fresh water from river mouths, wind stress-gradient
currents and density currents were recorded (the roles of wave induced currents are ignored).
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm biến động dòng chảy vùng ven bờ châu thổ sông Hồng - Kết quả nghiên cứu từ mô hình 3d, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
139
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 2; 2014: 139-148
ISSN: 1859-3097
ĐẶC ĐIỂM BIẾN ĐỘNG DÒNG CHẢY VÙNG VEN BỜ CHÂU THỔ
SÔNG HỒNG - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TỪ MÔ HÌNH 3D
Vũ Duy Vĩnh*, Trần Đức Thạnh
Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*Email: vinhvd@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 6-1-2013
TÓM TẮT: Bài viết này trình bày các kết quả áp dụng mô hình toán học 3 chiều (3D) để
nghiên cứu đặc điểm biến động dòng chảy ở vùng ven bờ châu thổ sông Hồng. Trong nghiên cứu
này, một mô hình 3 chiều đã được thiết lập với 4 lớp độ sâu (hệ tọa độ ). Số liệu đưa vào từ các
biên mở phía biển có được thông qua sử dụng phương pháp lưới lồng (NESTING) cùng một mô
hình tính rộng hơn ở phía ngoài. Mô hình đã được hiệu chỉnh kiểm chứng với số liệu đo mực nước
tại Hòn Dáu và dòng chảy tại một số điểm (Ba Lạt, Nam Triệu) trong khu vực nghiên cứu. Các kết
quả tính toán đã cho thấy các đặc điểm biến động theo không gian và thời gian của trường dòng
chảy tổng hợp và dòng dư ở khu vực ven bờ châu thổ sông Hồng, trong đó đã chỉ ra các vai trò
khác nhau của dao động mực nước - dòng triều, dòng chảy sông, trường gió - dòng gradien và dòng
chảy mật độ (không tính đến vai trò của dòng chảy do sóng).
Từ khóa: Dòng chảy, mô hình, dòng dư, thủy động lực, ven bờ châu thổ sông Hồng.
MỞ ĐẦU
Vùng ven bờ châu thổ sông Hồng (CTSH)
là nơi có điều kiện động lực phức tạp với sự
ảnh hưởng và tương tác đồng của các yếu tố
khác nhau như dòng chảy từ các sông đưa ra
khá lớn, dao động mực nước (DĐMN) mang
tính chất nhật triều điển hình, độ cao thủy triều
cực đại có thể lên tới 4,0 m [5] và điều kiện
sóng gió luôn biến đổi mạnh theo thời gian.
Chế độ thủy động lực (TĐL) ở đây có vai trò
rất quan trọng trong việc vận chuyển bùn cát,
biến động địa hình cũng như khả năng phát tán
các chất gây ô nhiễm từ vùng ven bờ ra phía
ngoài biển [14, 15, 17]. Chính vì vậy, đặc điểm
biến động dòng chảy ở khu vực này đã được
quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác
nhau như phân tích từ số liệu đo đạc khảo sát
và mô hình toán [7, 14, 16, 17]. Nghiên cứu
này được thực trên cở sở áp dụng một mô hình
3 chiều (3D) để mô phỏng các điều kiện TĐL ở
vùng ven bờ CTSH, qua đó đánh giá các đặc
điểm biến động của dòng chảy theo không gian
và thời gian ở khu vực.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng tọa
độ 19015’ - 21000’ vĩ độ Bắc và 105048’ -
106057’ kinh độ Đông, thuộc vùng biển ven bờ
Tây vịnh Bắc Bộ, phía Bắc Việt Nam, cách Hà
Nội khoảng 100 km về phía Đông. Đây là khu
vực có chế độ thủy triều mang tính chất nhật
triều đều với biên độ khá lớn. Độ dốc đáy biển
tương đối lớn ở khu vực cửa Ba Lạt nhưng nhỏ
ở vùng cửa Bạch Đằng và cửa Đáy. Khu vực
chịu ảnh hưởng mạnh của các khối nước từ hệ
thống sông Hồng-Thái Bình đưa ra, nhưng tải
lượng nước phân phối không đều trong năm,
chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa [13,
14]. Khu vực này cũng chịu sự chi phối của hệ
thống gió mùa Đông Bắc trong mùa khô và gió
mùa Tây Nam trong mùa mưa.
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh
140
Tài liệu.
Trong nghiên cứu này, các dữ liệu đã
được thu thập xử lý khá đồng bộ và hệ thống:
Số liệu độ sâu và đường bờ của vùng ven
bờ CTSH được số hóa từ các từ các bản đồ địa
hình UTM hệ tọa độ địa lý VN 2000 tỷ lệ
1:50.000 và 1:25.000 do Cục Đo đạc Bản đồ
(Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam) xuất
bản năm 2005. Độ sâu của khu vực phía ngoài
và cũng như vùng vịnh Bắc Bộ được sử dụng
từ cơ sở dữ liệu GEBCO -1/8 của Trung tâm
tư liệu Hải dương học Vương quốc Anh. Đây
là số liệu địa hình có độ phân dải 0,5 phút
được xử lý từ ảnh vệ tinh kết hợp với các số
liệu đo sâu [8].
Số liệu khí tượng gồm các số liệu gió
quan trắc trong nhiều năm ở Trạm Hải văn Hòn
Dáu và Bạch Long Vĩ đã được thu thập và xử
lý, trong đó có số liệu đo đạc với tần suất
6h/lần trong thời gian tháng 2-3 và tháng 7-8
năm 2009.
Số liệu về DĐMN ở vùng ven bờ CTSH
được thu thập để hiệu chỉnh mô hình và cung
cấp cho các điều kiện biên mở phía biển. Số
liệu mực nước để hiệu chỉnh mô hình là các kết
quả đo đạc mực nước (1h/lần) tại Hòn Dáu
trong nhiều năm. Các số liệu DĐMN tại các
biên mở phía biển cũng đã được thu thập xử lý
để thiết lập các điều kiện biên mở phía biển của
mô hình TĐL. Tại các điểm biên mở gần bờ,
các số liệu được thu thập xử lý dựa trên các kết
quả quan trắc. Các hằng số điều hòa thủy triều
ở phía ngoài xa bờ được thu thập từ cơ sở dữ
liệu các hằng số điều hòa thủy triều FES2004
của LEGOS và CLS [6].
Số liệu về nhiệt độ và độ muối nước biển
ở vùng cửa sông ven bờ CTSH và vịnh Bắc Bộ
được thu thập từ các kết quả nghiên cứu liên
quan trong khu vực. Ngoài ra, để sử dụng cho
mô hình tính cho các điều kiện biên mở phía
biển, số liệu nhiệt độ và độ muối nước biển
được thu thập từ cơ sở dữ liệu WOA09 [18].
Số liệu dòng chảy đo đạc tại một số vị trí
khảo sát trong khu vực nghiên cứu của một số
đề tài dự án vùng cửa sông ven bờ CTSH cũng
đã được thu thập xử lý để phục vụ hiệu chỉnh
kiểm chứng độ tin cậy của mô hình TĐL từ các
đề tài hợp tác theo Nghị định thư Việt Nam-Bỉ.
“Phát triển hệ thống mô hình thủy nhiệt động
lực-sinh thái biển phục vụ nghiên cứu và quản
lý tài nguyên biển vùng ven bờ Việt Nam” và đề
tài Đề tài độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu,
đánh giá tác động của các công trình hồ chứa
thượng nguồn đến diễn biến hình thái và tài
nguyên - môi trường vùng cửa sông ven biển
đồng bằng Bắc Bộ”.
Phương pháp
Phương pháp GIS để số hóa và xử lý số
liệu địa hình. Từ các bản đồ địa hình tỷ lệ
1:50.000 và 1 :25.000 do Cục Đo đạc Bản đồ
xuất bản với hệ tọa độ UTM-VN2000 ở vùng
ven bờ CTSH, đã sử dụng các phần mềm
MapInfo và Arcview để số hóa và tại thành các
file địa hình số ở khu vực nghiên cứu. Các phần
mềm GIS cũng được dùng để lồng ghép số liệu
địa hình ở vùng ven biển với số liệu địa hình
trong GEBCO -1/8 ở vùng ngoài khơi.
Phương pháp khai thác số liệu từ cơ sở dữ
liệu nhiệt muối WOA09 và cơ sở dữ liệu thủy
triều FES2004 nhằm cung cấp số liệu cần thiết
để xác định các điều kiện biên mở nhiệt - muối
cho mô hình TĐL vùng ngoài khơi (với lưới
tính thô) được lưu trữ ở dạng file Netcdf.
Phương pháp lưới lồng (NESTING) được
sử dụng trong nghiên cứu này để tạo ra các điều
kiện biên mở phía biển của mô hình. Để tạo các
file số liệu cho điều kiện biên mở phía biển của
mô hình với lưới chi tiết (cho vùng ven bờ
CTSH), một mô hình với lưới thô hơn cùng
thời gian tính toán, cùng kiểu lưới tính ở phía
ngoài vùng này đã được thiết lập. Mô hình lưới
thô có kích thước 424 × 150 điểm tính và sử
dụng hệ lưới cong trực giao. Các ô lưới có kích
thước biển đổi từ 379,3 - 1.376,5 m. Theo chiều
thẳng đứng, mô hình này được chia thành 4 lớp
độ sâu trong hệ tọa độ . Biên mở biển của mô
hình này được chia thành nhiều đoạn khác
nhau, mỗi đoạn sử dụng các hằng số điều hòa
trong FES2004 và số liệu nhiệt muối trung bình
tháng trong cơ sở dữ liệu WOA09 [18].
Phương pháp ứng dụng mô hình toán
Các điều kiện TĐL được mô hình hóa
bằng module Delft3d-Flow trong hệ thống mô
hình Delft3d của Hà Lan. Mô hình này có thể
mô phỏng tốt điều kiện TĐL-sóng, vận chuyển
bùn cát ở vùng cửa sông ven bờ [2].
Đặc điểm biến động dòng chảy vùng ven bờ
141
Mô hình TĐL cho khu vực cửa sông ven
bờ CTSH sử dụng hệ lưới cong trực giao có
phạm vi vùng tính bao gồm các vùng nước của
các cửa sông Bạch Đằng, Cấm, Lạch Tray, Văn
Úc, Thái Bình, Trà Lý, Ba Lạt, Ninh Cơ và Đáy
và phía ngoài các cửa sông này. Miền tính có
kích thước khoảng 223 km theo chiều Đông
Bắc - Tây Nam và 113 km theo chiều Tây Bắc -
Đông Nam, với diện tích mặt nước khoảng
18.357 km2 được chia thành 617 × 235 điểm
tính, kích thước các ô lưới biến đổi từ 187 m
đến 750 m. Theo chiều thẳng đứng, toàn bộ cột
nước được chia làm 4 lớp độ sâu theo hệ tọa độ
. Lưới độ sâu được thiết lập trên cơ sở lưới
tính và bản độ địa hình của khu vực. Mô hình
được thiết lập và tính đến cả các quá trình
nhiệt-muối và ảnh hưởng của sông.
Mô hình TĐL được thiết lập và chạy với
các mùa đặc trưng trong năm: mùa mưa
(tháng 7-8 năm 2009); mùa khô (tháng 2- 3
năm 2009). Bước thời gian chạy của mô hình
là 0,5 phút.
Điều kiện ban đầu của các kịch bản hiện
trạng là các kết quả tính toán sau ngày cuối
trong các file restart của tháng 2 (mùa khô) và
tháng 7 (mùa mưa). Số liệu để cung cấp cho
các biên mở phía biển là kết quả tính toán toán
từ mô hình phía ngoài sau đó sử dụng phương
pháp NESTHD để tạo các file số liệu nhiệt độ,
độ muối, mực nước tại các điểm biên. Đây là
các số liệu dạng timeserial với tần suất 1h/lần.
Đối với các biên sông, số liệu độ muối và nhiệt
độ cho điều kiện biên là các đặc trưng trung
bình tháng. Lưu lượng nước sử dụng cho các
điều kiện biên sông là các chuỗi số liệu được
tính toán từ số liệu đo với tần suất 1h/lần.
Các kết quả tính toán của mô hình như
mực nước (tại Hòn Dáu) và dòng chảy (tại Ba
Lạt và Nam Triệu) đã được hiệu chỉnh và kiểm
chứng thông qua việc so sánh với số liệu quan
trắc trong thời gian tương ứng. Đối với kết quả
tính toán DĐMN của mô hình, sau lần hiệu
chỉnh cuối kết quả so sánh cho thấy đã có sự
phù hợp cả về pha và biên độ giữa số liệu quan
trắc và tính toán. Hệ số tương quan giữa mực
nước quan trắc và tính toán trong mùa khô và
mùa mưa lần lượt là 0,96 và 0,98. Sai số bình
phương trung bình tương ứng lần lượt là 0,22
m và 0,20 m. Các giá trị quan trắc dòng chảy
được phân tích thành các thành phần kinh
hướng (U) và vĩ hướng (V) trước khi so sánh
với các kết quả tính toán từ mô hình. Sau lần
hiệu chỉnh cuối cùng, các kết quả so sánh cho
thấy giữa quan trắc và tính toán dòng chảy ở
khu vực này là phù hợp [17].
ĐẶC ĐIỂM BIẾN ĐỘNG CỦA TRƯỜNG
DÒNG CHẢY VÙNG VEN BỜ CHÂU THỔ
SÔNG HỒNG
Biến động của trường dòng chảy theo không
gian
Trường dòng chảy vùng ven bờ CTSH luôn
biến động theo không gian. Những khu vực có
vận tốc dòng chảy lớn là phía ngoài cửa Nam
Triệu, Văn Úc, Ba Lạt và cửa Đáy. Tại đây, giá
trị vận tốc dòng chảy phổ biến dao động trong
khoảng 0,4 - 0,7 m/s, trong các thời điểm
chuyển tiếp giữa pha triều lên hoặc triều xuống,
giá trị vận tốc dòng chảy có thể lên tới trên
0,8 m/s. Các khu vực có giá trị vận tốc dòng
chảy nhỏ (dưới 0,2 m) là vùng nước sát bờ và
xa các cửa sông. Vào các thời điểm nước ròng,
vẫn xuất hiện dòng chảy nhưng chỉ tập trung ở
sát khu vực cửa sông phía trong với vận tốc
phổ biến 0,3 - 0,5 m/s vào mùa khô và 0,4 -
0,7 m/s vào mùa mưa. Trường dòng chảy vào
thời điểm nước lớn có giá trị vận tốc khá nhỏ
và chủ yếu xuất hiện ở vùng phía trong cửa
sông với hướng từ biển vào sông.
Hướng dòng chảy biến động theo pha dao
động của mực nước với hai hướng chủ đạo:
trong pha triều lên do sự xâm nhập của các
khối nước biển vào phía trong nên dòng chảy
có hướng chủ đạo là từ phía ngoài biển vào
trong sông; ngược lại trong pha triều xuống,
hướng dòng chảy chủ yếu từ trong sông ra phía
ngoài biển. Ngoài ra, ở vùng ven bờ phía ngoài,
dòng chảy có hướng chủ đạo là dọc bờ (hình 1).
Vận tốc dòng chảy cũng có xu hướng tăng dần
từ phía ngoài biển vào cửa sông trong pha triều
lên và giảm dần từ sông ra phía ngoài biển
trong pha triều xuống.
Phân bố theo không gian của trường dòng
chảy cũng thể hiện ảnh hưởng do biến động
mùa của tải lượng nước sông đưa ra. Phạm vi
ảnh hưởng của các khối nước và dòng vật chất
từ sông đưa ra vùng ven bờ khá mạnh và rộng
lớn vào mùa mưa (hình 1-b). Trong mùa khô,
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh
142
do tải lượng nước đưa ra biển nhỏ lên vận tốc
dòng chảy ở vùng cửa sông và ven bờ nhỏ hơn
so với mùa mưa (hình 1-a), thể hiện rõ hơn vào
pha triều xuống.
Hình 1. Phân bố trường dòng chảy tổng hợp vùng ven bờ CTSH
(a-triều xuống-tầng mặt mùa khô; b- triều xuống - tầng mặt mùa mưa)
Do độ sâu không lớn nên, sự phân tầng của
trường dòng chảy vùng ven bờ CTSH khá nhỏ.
Tính toán và phân tích cho thấy sự phân tầng
của dòng chảy tăng dần từ vùng cửa sông ra
vùng biển phía ngoài, nơi có độ sâu lớn hơn.
Chênh lệch về giá trị vận tốc dòng chảy giữa
các tầng và sự khác biệt về hướng chủ yếu xuất
hiện vào khoảng đầu pha triều lên hoặc triều
xuống. Sự phân tầng dòng chảy cũng mạnh hơn
trong những ngày triều cường (chênh lệch
khoảng 0,2 - 0,6 m/s giữa tầng mặt và tầng đáy)
và mùa mưa (so với mùa khô).
Trong những ngày triều kém, biến động của
trường dòng chảy tổng hợp cũng tương tự như
trong những ngày triều cường nhưng giá trị vận
tốc cực đại ở khu vực phía trong các cửa sông
thường có giá trị nhỏ hơn (khoảng 30-60%).
Phân bố theo không gian của trường dòng chảy
đồng nhất hơn vào những ngày triều kém và
chênh lệch giá trị vận tốc lớn ở một số khu vực
cục bộ so với nền chung nhỏ hơn so với những
ngày triều cường. Vào pha triều lên, trường
dòng chảy hướng vào các cửa sông có giá trị rất
nhỏ (dưới 0,2 m/s) so với ngày triều cường.
Trong khi đó, vào thời điểm nước lớn của ngày
triều kém, dòng chảy hướng ra phía ngoài vẫn
có giá trị khá lớn (khoảng 0,1 - 0,3 m/s) ở phía
ngoài biển.
Thành phần dòng dư (residual current) có
vai trò rất quan trọng quyết định xu hướng vận
chuyển vật chất của mỗi thủy vực [1, 9]. Trong
vùng nghiên cứu, các thành phần dòng dư đều
có xu hướng di chuyển về phía Tây Nam trong
cả mùa mưa và mùa khô (hình 2). Vận tốc dòng
dư giảm mạnh từ mặt xuống đáy, phổ biến
trong khoảng 0,1 - 0,3 m/s (tầng mặt) và 0,05 -
0,15 m/s (tầng đáy). Khu vực có vận tốc dòng
dư lớn thường nằm trong khoảng độ sâu
khoảng 10 - 25 m với giá trị 0,3 - 0,5 m/s. Đây
cũng là khu vực tập trung sự di chuyển của các
khối nước sông sau khi đi ra khỏi cửa sông
dưới sự ảnh hưởng của hiệu ứng Coriolis ở
vùng bắc bán cầu [1, 11]. Những nghiên cứu về
động thái phát triển của các khối nước sông đã
được thực hiện bằng các mô hình toán ở vùng
có biên độ triều nhỏ [3,4] và ở vùng ảnh hưởng
thủy triều mạnh [10], đã chỉ ra rằng các khối
nước sông đưa trước hết sẽ được mở rộng về
phía biển và sau đó dịch chuyển về phía bên
phải (ở vùng bắc bán cầu). Trước khi khối nước
(a) (b)
Đặc điểm biến động dòng chảy vùng ven bờ
143
sông quay trở lại vùng ven bờ, chúng chệch
hướng tạo thành một vệt nước sông ven bờ. Ở
vùng ven bờ CTSH có hai yếu tố chính ảnh
hưởng quyết định đến cường độ và hướng di
chuyển của dòng dư là ứng suất gió và các khối
nước từ sông đưa ra. Sự di chuyển của dòng dư
về phía Tây Nam trong mùa mưa (ngược với
hướng gió Nam, Tây Nam) đã thể hiện ưu thế
quyết định của các khối nước sông đến thành
phần dòng dư ở vùng ven bờ so với ảnh hưởng
của ứng suất gió (hình 2-c, d). Trong khi đó,
mặc dù được tăng cường hơn (do trùng với
hướng gió) nhưng vận tốc dòng dư mùa khô
nhỏ hơn rõ rệt so với mùa mưa, do vai trò của
các khối nước sông suy giảm mạnh (hình 2-a,
b). Những kết quả đánh giá này khá phù hợp
với nghiên cứu liên quan đã có về dòng dư ở
khu vực này [7, 16].
Hình 2. Phân bố dòng dư vùng ven bờ CTSH trong mùa khô
(Mùa khô: a-tầng mặt, triều cường; b- tầng mặt, triều kém; Mùa mưa: c-tầng mặt, triều cường;
d- tầng mặt, triều kém)
(a) (b)
(c) (d)
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh
144
Các kết quả tính toán cũng cho thấy trong
những ngày triều kém, vận tốc dòng dư
thường có giá trị lớn hơn vào những ngày triều
cường. Vùng nước có vận tốc dòng dư lớn
cũng được mở rộng hơn vào những ngày triều
kém (hình 2).
Biến động theo thời gian
Các kết quả phân tích cho thấy biến động
của giá trị vận tốc dòng chảy tổng hợp ở các
khu vực khác nhau trong vùng nghiên cứu đều
phụ thuộc chặt chẽ vào DĐMN triều. Trong
một chu kỳ triều thường xuất hiện bốn cực trị
vận tốc dòng chảy: hai cực đại và hai cực tiểu.
Cực đại dòng vào nửa cuối của pha triều xuống
lớn hơn cực đại dòng ở nửa đầu pha triều lên.
Có thể giải thích điều này do sự tăng cường của
dòng sông đối với dòng chảy tổng hợp trong
pha triều xuống và cũng do vậy mà vận tốc
dòng chảy vào mùa mưa thường lớn hơn mùa
khô khoảng 0,1 - 0,3 m/s. Độ lớn dòng chảy và
chênh lệch giữa các tầng cũng thường có giá trị
lớn hơn ở những ngày triều cường và nhỏ hơn
vào những ngày triều kém. Tuy nhiên, sự biến
động theo thời gian của dòng chảy ở mỗi khu
vực lại có những đặc trưng riêng.
Hình 3. Biến động vận tốc dòng chảy và mực nước khu vực phía ngoài cửa Bạch Đằng
(a-tháng 3/2009; b- tháng 8/2009)
Khu vực cửa Bạch Đằng có hình thái
giống như dạng vịnh nửa kín [12]. Vào mùa
khô, tại một số thời điểm trong những ngày
triều cường, vận tốc dòng chảy phổ biến 0,2 -
0,5 m/s, có thể đạt giá trị 0,5 - 0,8 m/s và vào
những ngày triều kém, vận tốc dòng chảy
(a)
(b)
Đặc điểm biến động dòng chảy vùng ven bờ
145
không vượt quá 0,4 m/s (hình 3-a). Vào mùa
mưa, vận tốc dòng chảy có giá trị lớn hơn,
thường trong khoảng 0,55 - 0,9 m/s và dưới
0,4 m/s vào những ngày triều kém (hình 3-b). Ở
đây, sự chênh lệch giá trị vận tốc dòng chảy
giữa tầng mặt và đáy mùa khô phổ biến dưới
0,2 m/s, nhưng vào mùa mưa (đặc biệt là những
ngày triều cường), chênh lệch này lớn hơn 0,3
m/s. Khoảng thời gian vận tốc dòng chảy lớn
và nhỏ vào mùa khô khá cân bằng, nhưng trong
mùa mưa thời gian dòng chảy có vận tốc lớn
vào kỳ triều xuống khá dài, đến gần thời điểm
nước ròng. Điều này thể hiện ảnh hưởng của
các khối nước sông vào mùa mưa [15].
Khu vực phía ngoài cửa Ba Lạt là vùng
biển thoáng và dòng chảy ở đây không chỉ chịu
ảnh hưởng của các khối nước từ sông đưa ra
mà còn có vai trò của dòng dọc bờ. Do vậy,
mặc dù biến động dòng chảy theo thời gian vẫn
thể hiện xu hướng chung của toàn vùng nhưng
cũng có những đặc điểm khác so với khu vực
cửa Bạch Đằng. Vận tốc dòng chảy ở đây cả
trong mùa mưa và khô đều lớn hơn ở cửa Bạch
Đằng. Mặc dù vẫn có sự chênh lệch đáng kể về
dòng chảy giữa những ngày triều cường và
triều kém nhưng đã giảm mạnh; tốc độ dòng
chảy mạnh nhất trong những ngày triều kém
hầu hết đều lớn hơn 0,6 m/s. Cực đại dòng chảy
thường xuất hiện sau thời điểm nước lớn
khoảng 2-4 giờ, trong khi cực tiểu dòng chảy
xuất hiện sau thời điểm nước ròng khoảng 2-5
giờ. Sự chênh lệch giá trị vận tốc dòng chảy
giữa tầng mặt và đáy trong mùa mưa cũng lớn
hơn so với mùa khô và cả hai mùa đều lớn hơn
so với khu vực cửa Bạch Đằng. Vào những
ngày triều cường mùa mưa, sự phân tầng của
dòng chảy tăng lên, chênh lệch tầng mặt và đáy
có thể 0,4 - 0,6 m/s (hình 4).
Hình 4. Biến động vận tốc dòng chảy và mực nước khu vực phía ngoài cửa Ba Lạt
(a-tháng 3/2009; b- tháng 8/2009)
(a)
(b)
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh
146
Đặc điểm biến động dòng chảy ở khu vực
phía ngoài cửa Đáy theo thời gian có phần
giống với khu vực cửa Ba Lạt hơn so với khu
vực cửa Bạch Đằng, do dòng chảy ở đây không
chỉ chịu tác động của các khối nước sông đưa
ra mà còn tương tác với dòng dọc bờ từ phía
cửa Ba Lạt đưa xuống. Tuy nhiên, giá trị vận
tốc dòng chảy ở khu vực này nhỏ hơn so với
khu vực cửa Ba Lạt, trong khoảng 0,2 - 0,6 m/s
vào mùa khô và 0,2 - 0,8 m/s vào mùa mưa.
Vận tốc dòng chảy lớn nhất vẫn xuất hiện sau
thời điểm nước lớn giống cửa Ba Lạt, nhưng
xuất hiện chậm hơn (sau thời điểm nước lớn
khoảng 3-6 giờ). Đáng chú ý là trong mùa mưa
dòng chảy cực đại ở khu vực cửa Đáy thường
xuất hiện sau thời điểm nước lớn sớm hơn 2-3
giờ so với mùa khô, thể hiện sự ảnh hưởng tăng
cường của khối nước dọc bờ từ phía cửa Ba Lạt
di chuyển xuống (hình 5).
Hình 5. Biến động vận tốc dòng chảy và mực nước khu vực phía ngoài cửa Đáy
(a- tháng 3/2009; b- tháng 8/2009)
KẾT LUẬN
Phân bố và biến động theo không gian và
thời gian của trường dòng chảy tổng hợp ở
vùng ven bờ CTSH phụ thuộc chặt chẽ vào
DĐMN triều và biến động theo mùa của nguồn
sông đưa ra. Dòng chảy tổng hợp luôn biến
động theo pha DĐMN triều, tuy nhiên do đặc
điểm hình thái địa hình khác nhau nên vai trò
của DĐMN đến biến động dòng chảy có sự
khác biệt đáng kể giữa các khu vực ven bờ phía
Đông Bắc và Tây Nam cửa Ba Lạt.
(a)
(b)
Đặc điểm biến động dòng chảy vùng ven bờ
147
Sự phân tầng về giá trị vận tốc dòng chảy
tăng dần từ khu vực cửa sông (nơi có độ sâu
nhỏ) ra khu vực phía ngoài, giảm dần từ khu
vực cửa Ba Lạt lên phía khu vực cửa Bạch
Đằng ở phía Đông Bắc và xuống khu vực cửa
Đáy ở phía Tây Nam. Theo thời gian, sự phân
tầng diễn ra mạnh mẽ hơn vào mùa mưa và
những ngày triều cường.
Các khối nước từ sông Hồng-Thái Bình có
vai trò quan trọng hơn ứng suất gió đến thành
phần dòng dư ở vùng ven bờ CTSH. Dòng dư
có xu hướng di chuyển về phía Tây Nam trong
cả hai mùa (mùa mưa và khô) và phổ biến
trong khoảng 0,1 - 0,3 m/s (tầng mặt) và 0,05-
0,15 m/s (tầng đáy). Khu vực xuất hiện vận tốc
dòng dư lớn thường nằm vùng nước có độ sâu
khoảng 10 - 25 m ở phía Nam cửa Ba Lạt. Giá
trị vận tốc dòng dư lớn hơn vào mùa mưa và
những ngày triều kém.
Lời cảm ơn: Bài báo này là một phần kết quả
của đề tài hợp tác nghiên cứu giữa Viện Tài
nguyên và Môi trường biển và Viện Nghiên
cứu vì sự phát triển Pháp, đề tài
VAST.HTQT.Pháp.01/14-15. Các tác giả xin
chân thành cảm ơn sự hỗ trợ quý báu đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Azam, M. H., Elshorbagy, W.; Ichikawa, I.;
Terasawa, T.; and Taguchi, K., 2006. 3D
model application to study residual flow
Arabian Gulf. Ej. Wtrwy., Port, Coastal and
Ocean Engineering, 132, issue 5, 388-400.
2. Delft Hydraulics, 2003. Delft3D-FLOW
User Manual; Delft 3D-WAVE User
Manual.
3. Chao S., 1988. River-forced estuarine
plumes. J Phys Oceanogr 18: 72-88.
4. Kourafalou V, Oey L, Wang J, Lee T.,
1996. The fate of river discharge on the
continental shelf modeling the river plume
and the inner shelf coastal current. J
Geophys Res 101: 3,415-3,434.
5. Phạm Văn Huấn, Nguyễn Tài Hợi, 2007.
Dao động mực nước biển ven bờ Việt Nam.
Tạp chí Khí tượng thủy văn, số 556, tháng
4 - 2007. Tr. 30-37
6. Lyard F., F. Lefevre, T. Letellier, and O.
Francis, 2006. Modelling the global ocean
tides: modern insights from FES2004.
Ocean Dynamics, 56: 394-415.
7. Manh D, Yanagi T, 2000. A study on the
residual flow in the gulf of tonkin. J
Oceanogr 56: 59-68.
8. Jone M. T., Raymond N., Cramer R. N.,
2009. User Guide to the centernary edition
of the GEBCO digital atlas and its datasets.
Natural environment research council.
9. Murphy, P.L. and Valle Levinson A., 2008.
Tidal and residual circulation in the St.
Andrew Bay system, Florida. Continetal
shelf Research, 28, 2,678-2,688.
10. Ruddick K, Deleersnijder E, Luyten P, Ozer
J., 1995. Haline stratification in the
rhinemeuse freshwater plume: A three-
dimensional model sensitivity analysis.
Cont Shelf Res 15: 1,597-1,630.
11. Pedlosky J., 1987. Geophysical Fluid
Dynamics, Springer, New York.
12. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đinh
Văn Huy, Bù15i Văn Vượng, 2007. Các
thuỷ vực ven bờ biển Việt Nam. Tạp chí
Khoa học và Công nghệ biển, 7(1): 64-79.
13. Trần Đức Thạnh, Vũ Duy Vĩnh, Yoshiki
Saito, Đỗ Đình Chiến, Trần Anh Tú, 2008.
Bước đầu đánh giá ảnh hưởng của đập Hòa
Bình đến môi trường trầm tích ven bờ châu
thổ sông Hồng. Tạp chí Khoa học và Công
nghệ Biển, Tập 8, số 3. Tr. 1-16.
14. Vũ Duy Vĩnh, Nguyễn Đức Cự, Trần Đức
Thạnh, 2011. Ảnh hưởng của đập Hòa Bình
đến phân bố trầm tích lơ lửng vùng ven bờ
châu thổ sông Hồng. Kỷ yếu Hội nghị Khoa
học và Công nghệ biển lần thứ 5, tập 3. Địa
chất, Địa lý- Địa vật lý. Nxb. Khoa học tự
nhiên và Công Nghệ. Tr. 465-475.
15. Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh, 2012. Ứng
dụng mô hình toán nghiên cứu vùng đục
cực đại ở khu vực cửa sông Bạch Đằng.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, Tập
12, số 3. Tr. 1-12.
16. Vũ Duy Vĩnh, Katrijn Baetens, Patrick
Luyten, Trần Anh Tú, Nguyễn Thị Kim Anh,
2013. Ảnh hưởng của gió bề mặt đến phân
bố độ mặn và hoàn lưu vùng ven bờ châu
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh
148
thổ sông Hồng. Tạp chí Khoa học và Công
nghệ biển,Tập 13, số 1. Tr. 12-20.
17. Vũ Duy Vĩnh, Bùi Văn Vượng, 2013. Ảnh
hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
đến biến động địa hình đáy vùng ven bờ
châu thổ Sông Hồng. Kỷ yếu Hội thảo Hội
nghị khoa học địa chất biển toàn quốc lần
thứ 2. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công
Nghệ. Tr. 285-294.
18. World Ocean Atlas 2009. National
Oceanographic Data Center. 30-03-2010.
_woa09.html. Retrieved 19-5-2010.
CHARACTERISTICS OF CURRENT VARIATION IN THE COASTAL
AREA OF RED RIVER DELTA - RESULTS OF RESAERCH USING THE
3D NUMERICAL MODEL
Vu Duy Vinh, Tran Duc Thanh
Institute of Marine Environment and Resources - VAST
ABSTRACT: This paper presents some results of three dimension (3D) modelling application
to research characteristics of field current variation in the coastal area of Red River Delta. In the
study, a 3D numerical model was set up with four vertical layers ( coordinate system). The open
sea boundary conditions of hydrodynamics model have been obtained by NESTING method from the
same l model for the larger marine region. Hydrodynamics model was calibrated and validated by
measured data of water levels in Hon Dau National Hydrographic Station and data of currents in
other sites (Ba Lat and Nam Trieu). In the studied results the temporal and spatial variation of total
currents and residual currents in the coastal area of Red River Delta are obtained, in which the
different roles of tidal oscillations-tide currents, fresh water from river mouths, wind stress-gradient
currents and density currents were recorded (the roles of wave induced currents are ignored).
Keywords: currents, modelling, residual currents, hydrodynamics, coastal area of Red River
Delta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4480_15993_1_pb_0355_2079636.pdf