Đặc điểm cận lâm sàng
Đa số trường hợp có bạch cầu tăng trên
10.000/mm3(57%), chủ yếu là tăng bạch cầu đa
nhân trung tính. Đây thông thường là biểu hiện
của nhiễm trùng tại phổi.
Trong nghiên cứu, tỉ lệ đường tăng huyết ≥
200mg% là 32%. Nhóm tử vong hoặc di chứng
thần kinh có tỉ lệ tăng đường huyết cao hơn
nhóm hồi phục. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p = 0,005. Một số nghiên cứu cũng
cho thấy tăng đường huyết trên 10 mmol/L (180
mg) là một dấu hiệu tiên lượng nặng trong ngạt
nước (p < 0,05) (1). Tuy nhiên, chưa có chứng cứ
y khoa nào cho thấy việc sử dụng insulin để
kiểm soát đường huyết mang lại ích lợi cho bệnh
nhân ngạt nước.
Khi ngạt nước, tình trạng giảm thông khí
hoặc ngưng thở sẽ làm PaCO2 tăng nhanh, biểu
hiện tình trạng toan hô hấp. Nếu quá trình này
kéo dài, những sản phẩm của lactate sẽ được tạo
thành thông qua quá trình chuyển hóa yếm khí,
thể hiện tình trạng toan chuyển hóa trên khí máu
động mạch. Khi hô hấp được khôi phục, PaCO2
nhanh chóng giảm xuống trong khi những phức
hợp chuyển hóa thường tồn tại lâu hơn. Do vậy,
khí máu động mạch thường thể hiện tình trạng
toan chuyển hóa, có hoặc không có kiềm hô hấp
bù trừ (PaCO2 bình thường hoặc giảm)(8,10).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số trường
hợp có khí máu động mạch biểu hiện tình trạng
toan chuyển hóa có kiềm hô hấp bù trừ. Có 15%
trường hợp toan chuyển hóa nặng với pH < 7,2.
Tỉ lệ này cũng tương đương với kết quả trong
nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Lan (14% trẻ có
pH < 7,2) và nghiên cứu của Blasco Alonso (18%
trẻ có pH ≤ 7,1)(2,12).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ngạt nước tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ năm 2003 đến năm 2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Nhi Khoa 1
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ
NGẠT NƯỚC TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007
Nguyễn Hoàng Thanh Uyên*, Bùi Quốc Thắng**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị của bệnh nhân
ngạt nước tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ năm 2003 đến năm 2007.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca.
Kết quả: Tuổi trung bình của trẻ ngạt nước nhập viện là 5,1 ± 4,2 tuổi. Nơi xảy ra tai nạn thường gặp nhất
là sông, ao hồ (71%) và vật dụng chứa nước (18%). Ngạt do vật dụng chứa nước chủ yếu xảy ra ở trẻ ≤ 3 tuổi,
xảy ra ở trẻ nữ nhiều hơn trẻ nam. Trẻ ở tỉnh và ngoại thành chủ yếu xảy ra tai nạn ở sông, ao hồ tự nhiên. Có
8% trường hợp được hồi sức đúng cách. Tỉ lệ trẻ có suy hô hấp lúc nhập viện, có rối loạn tri giác, có hạ thân
nhiệt, có chấn thương đi kèm lần lượt là 75%, 64%, 4% và 3%. Có 32% trường hợp đường huyết tăng ≥
200mg%. Kết quả điều trị: hồi phục 62%, tử vong 24%, di chứng thần kinh 14%. Những trường hợp có thời
gian chìm trong nước lâu, rối loạn tri giác, Glasgow thấp, mất phản xạ ánh sáng, hạ thân nhiệt, tím tái, tăng
đường huyết hay pH < 7,2 thường có kết quả điều trị xấu.
Kết luận: Nơi xảy ra tai nạn thay đổi theo tuổi, giới và địa bàn cư trú. Dấu hiệu tiên lượng xấu: thời gian
chìm trong nước lâu, rối loạn tri giác, Glasgow thấp, mất phản xạ ánh sáng, hạ thân nhiệt, tím tái, tăng đường
huyết, pH < 7,2.
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF EPIDEMIOLOGY, CLINICAL AND LABORATORY FEATURES AND
TREATMENT OF DROWNING AT CHILDREN’S HOSPITAL N0 I, 2003 - 2007
Nguyen Hoang Thanh Uyen, Bui Quoc Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 1 – 7
Objective: To determine prevalences of characteristics of epidemiology, clinical and laboratory features and
treatment of drowning at Children’s Hospital N0 1, from 2003 to 2007.
Study design: Case series.
Results: The mean age of drowning children was 5.1 ± 4.2 years. Most of drownings were in open water
(71%) and in body of water (18%). Drowning in body of water occurred primarily at the age of 0-3 years, in
female more than in male. Children in the countryside drowned majority in open water. Only 8% of victims
received right resuscitations. The proportions of respiratory failure, unconsciousness, hypothermia and trauma
were 75%, 64%, 4% and 3%, respectively. 32% of victims had glycemia which was more than 200mg%. Results
of treatment: 62% recovered, 24% died and 14% had neurologic impairment. The cases with prolonged
submersion, unconsciousness, low Glasgow score, no pupil reflex, hypothermia, hyperglycemia, pH < 7.2 had bad
outcome.
Conclusion: Drowning places vary by age, gender, home. Poor prognosis: prolonged submersion,
unconsciousness, low Glasgow score, no pupil reflex, hypothermia, hyperglycemia, pH < 7.2.
ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới hằng năm ước tính có 500.000
người tử vong vì ngạt nước (mỗi phút một
* HCTĐ Nhà Bè ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Tp. HCM
Chuyên Đề Nhi Khoa 2
người). Con số thực tế còn lớn hơn nhiều vì có
nhiều trường hợp không được báo cáo(11).
Trong các nguyên nhân tử vong do tai nạn,
ngạt nước là nguyên nhân xếp thứ nhì, sau tai
nạn giao thông(5).
Không những có tỉ lệ tử vong cao, ngạt nước
còn là một trong những nguyên nhân quan
trọng gây di chứng thần kinh cho trẻ còn sống.
Tại Việt Nam, nghiên cứu gần đây nhất
của Phạm Thị Ngọc Lan tiến hành tại bệnh
viện Nhi Đồng 2 cho biết tỉ lệ tử vong của trẻ
ngạt nước là 10,1%(12).
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
xác định một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận
lâm sàng và tỉ lệ các kết quả điều trị của trẻ ngạt
nước nhập viện Nhi Đồng 1. Qua đó đóng góp
một phần kiến thức cho việc dự phòng và điều
trị ngạt nước.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Trẻ được chẩn đoán ngạt nước nhập bệnh
viện Nhi Đồng 1.
Dân số chọn mẫu
Trẻ được chẩn đoán ngạt nước và nhập bệnh
viện Nhi Đồng 1 từ 1/1/2003– 31/12/2007.
Cỡ mẫu
Lấy trọn.
Tiêu chí chọn mẫu
Trường hợp được chọn thỏa mãn hai tiêu chí
sau:
• Trẻ ≤ 15 tuổi.
• Được chẩn đoán ngạt nước với bệnh sử
úp mặt hoặc chìm trong nước.
Tiêu chí loại trừ:
Loại trừ những trường hợp có một trong các
tiêu chí:
• Trẻ được chẩn đoán bại não hoặc chậm
phát triển tâm thần vận động trước nhập viện.
• Không đủ dữ kiện theo bệnh án mẫu.
• Gia đình không đồng ý tham gia nghiên
cứu (với những trường hợp tiền cứu).
Phân tích số liệu
Nhập số liệu bằng phần mềm EpiData 3.1.
Phân tích số liệu bằng phần mềm thống kê Stata
10.0. Biến số định tính: tính tần số và tỉ lệ%. Biến
số định lượng: tính trung bình và độ lệch chuẩn.
KẾT QUẢ
Trong vòng 5 năm từ 01/01/2003 đến
31/12/2007, có tổng cộng 137 trường hợp ngạt
nước nhập viện Nhi Đồng 1. Loại 12 trường hợp
vì không đủ dữ kiện theo bệnh án mẫu hoặc
được chẩn đoán bại não hoặc chậm phát triển
tâm thần trước nhập viện, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu 125 trường hợp còn lại, gồm 121
trường hợp hồi cứu và 4 trường hợp tiền cứu.
Phân bố theo tuổi và giới
Tuổi trung bình của trẻ ngạt nước nhập viện
là 5,1 ± 4,2 tuổi. Trẻ nhỏ nhất nhập viện vì ngạt
nước là 3 tháng tuổi. Nhóm tuổi thường gặp
nhất là ≤ 3 tuổi, chiếm 49%, trẻ trên 3 tuổi đến 5
tuổi chiếm 14%, trẻ trên 5 tuổi đến 10 tuổi chiếm
21%, trẻ trên 10 tuổi chiếm 16%. Tỉ lệ trẻ nam
nhiều hơn trẻ nữ trong mọi nhóm tuổi, tỉ lệ nam:
nữ xấp xỉ 2: 1.
Địa bàn cư trú
Trẻ nhập viện từ các tỉnh chiếm 54%, từ
thành phố Hồ Chí Minh là 46%. Trong đó hai địa
phương có số lượng trẻ nhập viện vì ngạt nước
nhiều hơn hẳn các nơi khác là tỉnh Long An
chiếm 30% và huyện Bình Chánh, thành phố Hồ
Chí Minh chiếm 13%.
Thời điểm xảy ra tai nạn
Thời điểm trong ngày thường xảy ra tai nạn
là 14 đến 17 giờ, chiếm 47,2%. Không ghi nhận
trường hợp nào xảy ra từ 21 giờ đến 6 giờ. Tháng
xảy ra tai nạn thường gặp là tháng 4 đến tháng 7,
chiếm 43%.
Nơi xảy ra tai nạn
Nơi xảy ra tai nạn thường gặp nhất là
sông, ao hồ (71%). Đứng thứ nhì là các vật
Chuyên Đề Nhi Khoa 3
dụng chứa nước trong nhà (18%), mà chủ yếu
là xô, chậu, chỉ 1 trường hợp trong bồn tắm
(1%). Tỉ lệ xảy ra tại hồ bơi, biển, nơi khác lần
lượt là 7%, 2% và 2%.
Đối với trẻ nam, tỉ lệ ngạt nước xảy ra ở biển
là 4%, ở sông, ao hồ là 75%, ở hồ bơi là 5%, do
các vật dụng chứa nước trong nhà là 12% và
những nơi khác (đều là cầu cá) là 4%. Với trẻ nữ,
tỉ lệ tai nạn xảy ra ở sông, ao hồ là 60%, ở hồ bơi
là 12%, do các vật dụng chứa nước trong nhà là
28%. Nam có tỉ lệ xảy ra tai nạn ở sông, ao hồ cao
hơn nữ, ngược lại, nữ có tỉ lệ xảy ra tai nạn ở hồ
bơi và các vật dụng chứa nước cao hơn nam. Sự
khác biệt về nơi xảy ra tai nạn theo giới tính là có
ý nghĩa thống kê với (p=0,042).
Trong mọi nhóm tuổi, ngạt nước tại sông, ao
hồ đều chiếm tỉ lệ cao nhất, đặc biệt đối với
nhóm trẻ lớn hơn 5 tuổi đến 10 tuổi tỉ lệ này đến
85%. Ngạt do các vật dụng chứa nước có
khuynh hướng xảy ra ở trẻ nhỏ, đặc biệt trẻ ≤
3tuổi (32%). Đối với trẻ càng lớn, tỉ lệ ngạt nước
do hồ bơi càng tăng. Sự khác biệt về nơi xảy ra
tai nạn theo lứa tuổi là có ý nghĩa thống kê (p <
0,001).
Tai nạn ngạt nước của trẻ em nội thành xảy
ra nhiều ở sông, ao hồ (48%), hồ bơi (20%), vật
dụng chứa nước trong nhà (29%). Đối với trẻ ở
ngoại thành và ở tỉnh tai nạn xảy ra chủ yếu tại
sông, ao hồ. Sự khác biệt về nơi xảy ra tai nạn
theo địa bàn cư trú là có ý nghĩa thống kê (p =
0,011).
Tỉ lệ ngạt nước ngọt là 92%, ngạt nước mặn
8%.
Bảng 1: Tần suất (tỉ lệ%) nơi xảy ra tai nạn theo tuổi,
giới và địa bàn cư trú
Biển Sông,
ao hồ
Hồ
bơi
Vật dụng
chứa
nước
Nơi
khác
Kiểm
định
Fisher
Tuổi
≤ 3 0 40 (65) 0 20 (32) 2 (3)
(3-5) 2 (12) 11 (64) 1 (6) 2 (12) 1 (6)
(5-10) 1 (4) 22 (85) 3 (11) 0 0
>10 0 15 (75) 5 (25) 0 0
p <
0,001
Giới
Nam 3 (4) 62 (75) 4 (5) 10 (12) 3 (4)
p =
0,042
Biển Sông,
ao hồ
Hồ
bơi
Vật dụng
chứa
nước
Nơi
khác
Kiểm
định
Fisher
Nữ 0 26 (60) 5 (12) 12 (28) 0
Địa bàn cư trú
Nội thành 1 (3) 17 (48) 7 (20) 10 (29) 0
Ngoại
thành
0 18 (82) 0 4 (18) 0
Tỉnh 2 (3) 53 (78) 2 (3) 8 (12) 3 (4)
p =
0,011
Tình huống xảy ra tai nạn
Tình huống thường gặp nhất là trẻ té xuống
sông, ao hồ (63%). Tiếp theo đó là do chúi đầu
vào vật dụng chứa nước (18%) hoặc do đi tắm
biển, sông, hồ (18%). Có 1 trường hợp do bé lên
cơn động kinh và bị ngã xuống ao, 1 trường hợp
bé nhảy xuống ao cứu em và cũng bị ngạt nước.
Không ghi nhận trường hợp nào có liên quan
đến sử dụng rượu.
Thời gian ước đoán chìm trong nước
Trong 125 trường hợp nghiên cứu có 55
trường hợp không ghi nhận được thời gian
ước đoán chìm trong nước. Trong nhóm được
ghi nhận thì thời gian này trung bình là 6,6 ±
3,5 phút, các trường hợp chìm trên 5 phút
chiếm 34%.
Biện pháp cấp cứu tại hiện trường
Trong 107 trường hợp được hồi sức tại hiện
trường, có 8% trường hợp được hồi sức đúng
cách. Có đến 85% trẻ được xốc nước tại hiện
trường. Một số trẻ được hơ lửa (4%), lăn lu (1%),
ép bụng (5%).
Triệu chứng lâm sàng lúc nhập viện
Tỉ lệ trẻ có suy hô hấp lúc nhập viện là 75%.
Tỉ lệ phù phổi là 4%. Tỉ lệ bệnh nhân có sốc lúc
nhập viện là 7%. Tỉ lệ trẻ có rối loạn tri giác là
64%, trong đó 36% lơ mơ, 28% hôn mê. Tỉ lệ trẻ
có hạ thân nhiệt (thân nhiệt < 35oC) là 4%. Tỉ lệ có
chấn thương đi kèm là 3%.
Đặc điểm cận lâm sàng
Hct và tiểu cầu trong giới hạn bình thường ở
hầu hết trường hợp (92%). Bạch cầu tăng trên
10.000 trong 57% truờng hợp.
Chuyên Đề Nhi Khoa 4
Natri máu bình thường trong 61% trường
hợp. Có 4% trường hợp natri máu tăng trên
145mEq/L. Có 35% trường hợp natri máu giảm
dưới 135 mEq/ L.
Có 32% trường hợp đường huyết tăng ≥
200mg%. Không có trường hợp nào đường
huyết < 40mg%.
Khí máu động mạch thể hiện tình trạng toan
chuyển hóa có kiềm hô hấp bù trừ trong đa số
trường hợp (53%), trong đó toan chuyển hóa
nặng với pH < 7,2 chiếm 15%. Tỉ lệ AaDO2 tăng
trên 60 mmHg chiếm 67%.
91% trường hợp có bất thường trên X quang,
thường gặp nhất là hình ảnh thâm nhiễm ở hai
phổi (49%).
Kết quả điều trị
Bảng 2: So sánh một số yếu tố giữa nhóm hồi phục
với nhóm tử vong hoặc di chứng
Yếu tố Hồi phục
(N = 78)
Di chứng hay
tử vong
(N = 47)
p
Giới
Nam 50 (61%) 32 (39%)
Nữ 28 (65%) 15 (35%)
p** = 0,87
Tuổi
≤ 5 tuổi 47 (60%) 31 (40%)
> 5 tuổi 31 (66%) 16 (34%)
p** = 0,52
Loại nước
Mặn 7 (70%) 3 (30%)
Ngọt 71 (62%) 44 ( 38%)
p* = 0,746
Thời gian ước
đoán chìm trong
nước (phút)
5,5 ± 3
8,8 ± 3,5
p* < 0,001
Điểm Glasgow 10,1 ± 3,2
4,5 ± 2,1 p* < 0,001
Tri giác
Tỉnh 42 (93%) 3 (7%)
Lơ mơ 32 (71%) 13 (29%)
Mê 4 (11%) 31 (89%)
p* < 0,001
Thân nhiệt
< 35oC 0 5 (100%)
≥ 35oC 78 (65%) 42 (35%)
p* = 0,007
Co giật 9 (12%) 9 (19%) p** = 0,24
Tím tái 12 (15%) 18 (38%) p** = 0,004
Đường huyết
< 200mg% 53 (70%) 23 (30%)
≥ 200mg% 15 (42%) 21 (58%)
p** = 0,005
CRP 14 ± 23 22 ± 35 p* = 0,442
Yếu tố Hồi phục
(N = 78)
Di chứng hay
tử vong
(N = 47)
p
AaDO2 108,6 ± 127,8 380,5 ± 207,8 p* < 0,001
pH
< 7,2 3 (21%) 11 (79%)
≥ 7,2 49 (60%) 32 (40%)
p* = 0,009
p*: kiểm định Fisher, p**: kiểm định chi bình phương.
Tỉ lệ hồi phục là 62%. Tỉ lệ tử vong là 24%. Tỉ
lệ có di chứng thần kinh là 14%.
Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận có
sự khác biệt về các yếu tố: tuổi, giới, loại nước
gây ngạt, co giật và giá trị của CRP giữa nhóm
hồi phục với nhóm tử vong hoặc di chứng.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
nhóm hồi phục với nhóm tử vong hoặc di chứng
về các yếu tố: thời gian ước đoán chìm trong
nước, thân nhiệt, điểm Glasgow, tri giác, tím tái,
đường huyết, AaDO2 và pH. Nhóm tử vong
hoặc di chứng có thời gian ước đoán chìm trong
nước trung bình dài hơn, có điểm Glasgow
trung bình thấp hơn và có giá trị AaDO2 trung
bình cao hơn của nhóm hồi phục. Nhóm tử vong
hoặc di chứng có tỉ lệ rối loạn tri giác, hạ thân
nhiệt, tím tái, tăng đường huyết và toan chuyển
hóa nặng cao hơn của nhóm hồi phục.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ
Nhóm tuổi thường gặp nhất là ≤ 3 tuổi, đây
là lứa tuổi bắt đầu biết đi nhưng chưa ý thức rõ
về môi trường xung quanh nên dễ xảy ra tai nạn.
Về phái tính, tỉ lệ nam: nữ trong nghiên
cứu của chúng tôi xấp xỉ 2:1. Kết quả này cũng
phù hợp với đặc điểm tỉ lệ ngạt nước của trẻ
nam cao hơn trẻ nữ được nêu trong nhiều y
văn(3,4). Tỉ lệ này trong nghiên cứu của Phạm
Thị Ngọc Lan là 3:2(12), trong nghiên cứu của
Ruth A. Brenner xấp xỉ 3:1(4).
Thời điểm thường xảy ra tai nạn trong ngày
là từ 14 đến 17 giờ (47%), đặc biệt là khoảng 15-
16 giờ (31%). Tai nạn xảy ra tương đối đồng đều
vào các ngày trong tuần. Từ tháng 4 đến tháng 7
là khoảng thời gian chiếm tỉ lệ cao trong năm
(43%). Đây cũng là những tháng nghỉ hè của học
Chuyên Đề Nhi Khoa 5
sinh. Ở một số nước có khí hậu bốn mùa thì ngạt
nước thường tăng cao vào những tháng ấm áp.
Trong nghiên cứu của L. Quan và P. Commings
tiến hành tại Washington thì 50% trường hợp
ngạt nước xảy ra vào những tháng trời ấm là từ
tháng 5 đến tháng 8(13). Nghiên cứu của Luis K.
Lee tiến hành tại Massachusetts cho thấy 65%
trường hợp ngạt nước xảy ra vào mùa hè, từ
tháng 7 đến tháng 9(9).
Nơi xảy ra tai nạn thường gặp nhất là sông,
ao hồ, giống như kết quả nghiên cứu của Ruth
A. Brenner và nhiều tác giả khác(4,12). So với kết
quả nghiên cứu của Ruth A. Brenner tỉ lệ ngạt
nước tại hồ bơi của chúng tôi thấp hơn và tỉ lệ
ngạt do vật dụng chứa nước cao hơn. Sự khác
biệt này có thể do thói quen sử dụng hồ bơi ở
nước khác phổ biến hơn ở Việt Nam và ở Việt
Nam thì thường dự trữ nước trong xô, chậu hơn.
Nơi xảy ra tai nạn cũng thay đổi theo tuổi, giới
và địa bàn cư trú.
Tình huống xảy ra ngạt nước chủ yếu là do
tai nạn sinh hoạt: trẻ ngạt nước khi đi biển, tắm
sông (17%), chúi đầu vào xô, chậu đang chứa
nước (18%), do té xuống ao hồ (63%). Đây là
những tình huống phần nào có thể dự đoán
trước và phòng ngừa được. Gia đình có trẻ nhỏ,
đặc biệt trẻ ≤ 3 tuổi thì những vật dụng chứa
nước cần có nắp đậy an toàn, giám sát trẻ cẩn
thận để tránh xảy ra tai nạn.
34% trường hợp thời gian ước đoán chìm
trong nước trên 5 phút. Kết quả này cho thấy rất
nhiều trường hợp ngạt nước không được phát
hiện kịp thời. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tiên
lượng của trẻ.
Trong 107 trường hợp có hồi sức tại hiện
trường chỉ 8% được hồi sức đúng, có đến 85%
trẻ được xốc nước, bên cạnh đó là những xử trí
sai lầm khác như hơ lửa, lăn lu, ép bụng. Những
xử trí này không những không giúp ích gì cho
trẻ mà còn làm nặng hơn đồng thời làm mất thời
gian quí giá để hồi sức cho trẻ. Kết quả này cho
thấy hiểu biết của người dân về sơ cứu ngạt
nước chưa cao. Có một trường hợp cha là điều
dưỡng vẫn tiến hành xốc nước cho trẻ. Một số
nhân viên cứu hộ của hồ bơi cũng xốc nước cho
nạn nhân rồi mới hà hơi thổi ngạt. Điều này nói
lên rằng ngay cả nhân viên y tế hay nhân viên
cứu hộ, những người được tin tưởng là có kiến
thức, thực hành sơ cứu tốt, vẫn xử trí sai, vẫn
chưa xóa bỏ được những tập quán sai lầm đã có
từ lâu này. Qua đây cho thấy việc tuyên truyền,
huấn luyện cách sơ cứu ngạt nước là hết sức cần
thiết và có thể phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Đối
tượng hướng đến không chỉ là nhân viên cứu hộ,
những người làm việc có liên quan đến tai nạn
ngạt nước mà cả người dân không liên quan đến
công tác cứu hộ. Trong nghiên cứu của chúng tôi
có đến 91% người phát hiện ra trẻ là cha mẹ,
hàng xóm, người đi đườngnhững người
không liên quan đến việc cứu hộ.
Đặc điểm lâm sàng
Có 3 trường hợp chuyển viện từ tuyến trước
đến bệnh viện Nhi Đồng 1 trong tình trạng mạch
bằng 0, huyết áp bằng 0, điều này chứng tỏ quá
trình chuyển viện chưa thật sự an toàn. Do vậy,
việc tiếp tục huấn luyện thường xuyên cho
tuyến trước về an toàn chuyển viện là cần thiết.
Hầu hết trẻ đều có biểu hiện rối loạn về hô
hấp lúc nhập viện (75%). Nguyên nhân của tổn
thương hô hấp thường là do trẻ hít nước vào
phổi hoặc do phản xạ co thắt thanh môn gây
thiếu oxy, đưa đến hàng loạt những rối loạn trên
các cơ quan khác do thiếu oxy mô(8). Tỉ lệ bệnh
nhân có phù phổi trong nghiên cứu của chúng
tôi là 4%, tỉ lệ này cũng tương đương với kết quả
trong nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Lan
(4%)(12).
Đa số trẻ nhập viện có rối loạn tri giác: 36%
lơ mơ và 28% hôn mê. Các tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ
trong nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Lan (lần
lượt là 12% và 18%). Trẻ có rối loạn tri giác lúc
nhập viện có kết quả điều trị xấu hơn trẻ không
có rối loạn tri giác (p < 0,001).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các
trẻ có hạ thân nhiệt đều tử vong hoặc di chứng
thần kinh. Đây thông thường là một dấu hiệu
tiên lượng nặng(8). Tỉ lệ trẻ ngạt nước có thân
nhiệt ≤ 35oC trong nghiên cứu của Blasco Alonso
Chuyên Đề Nhi Khoa 6
và cộng sự lên đến 39%(2). Có thể ở các xứ lạnh
trẻ sẽ có nhiều nguy cơ bị hạ thân nhiệt hơn.
Tỉ lệ có chấn thương kèm theo trong nghiên
cứu của chúng tôi là 3%. Trong đó 1 trường hợp
gãy hai răng cửa hàm dưới kèm dập môi dưới
do sang chấn lúc đặt nội khí quản ở tuyến trước.
Có 1 trường hợp bỏng do lăn lu, điều này lại một
lần nữa cho thấy những tập quán sai lầm trong
sơ cứu ngạt nước không những không giúp nạn
nhân cải thiện mà còn gây thương tổn nhiều
hơn. Có 1 trường hợp chấn thương cột sống cổ
trong nghiên cứu (0,8%). Một trường hợp còn lại
xây xát da nhẹ. Trong nghiên cứu của Vivian
Hwang và cộng sự, tỉ lệ nạn nhân ngạt nước có
chấn thương kèm theo là 4,9%, và tất cả đều là
chấn thương cột sống cổ(7).
Đặc điểm cận lâm sàng
Đa số trường hợp có bạch cầu tăng trên
10.000/mm3(57%), chủ yếu là tăng bạch cầu đa
nhân trung tính. Đây thông thường là biểu hiện
của nhiễm trùng tại phổi.
Trong nghiên cứu, tỉ lệ đường tăng huyết ≥
200mg% là 32%. Nhóm tử vong hoặc di chứng
thần kinh có tỉ lệ tăng đường huyết cao hơn
nhóm hồi phục. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p = 0,005. Một số nghiên cứu cũng
cho thấy tăng đường huyết trên 10 mmol/L (180
mg) là một dấu hiệu tiên lượng nặng trong ngạt
nước (p < 0,05) (1). Tuy nhiên, chưa có chứng cứ
y khoa nào cho thấy việc sử dụng insulin để
kiểm soát đường huyết mang lại ích lợi cho bệnh
nhân ngạt nước.
Khi ngạt nước, tình trạng giảm thông khí
hoặc ngưng thở sẽ làm PaCO2 tăng nhanh, biểu
hiện tình trạng toan hô hấp. Nếu quá trình này
kéo dài, những sản phẩm của lactate sẽ được tạo
thành thông qua quá trình chuyển hóa yếm khí,
thể hiện tình trạng toan chuyển hóa trên khí máu
động mạch. Khi hô hấp được khôi phục, PaCO2
nhanh chóng giảm xuống trong khi những phức
hợp chuyển hóa thường tồn tại lâu hơn. Do vậy,
khí máu động mạch thường thể hiện tình trạng
toan chuyển hóa, có hoặc không có kiềm hô hấp
bù trừ (PaCO2 bình thường hoặc giảm)(8,10).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số trường
hợp có khí máu động mạch biểu hiện tình trạng
toan chuyển hóa có kiềm hô hấp bù trừ. Có 15%
trường hợp toan chuyển hóa nặng với pH < 7,2.
Tỉ lệ này cũng tương đương với kết quả trong
nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Lan (14% trẻ có
pH < 7,2) và nghiên cứu của Blasco Alonso (18%
trẻ có pH ≤ 7,1)(2,12).
Kết quả điều trị
Tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu của chúng tôi
là 24%, tương đối cao so với nhiều nghiên cứu
khác(12,14). Điều này là do bệnh viện Nhi Đồng 1
là bệnh viện tuyến cuối, đa số bệnh nhân được
chuyển từ các tỉnh (54%), chủ yếu do quá khả
năng điều trị. Tỉ lệ có di chứng thần kinh trong
nghiên cứu là 14%. Những trường hợp có kết
quả điểu trị xấu là những trường hợp có thời
gian ước đoán chìm trong nước lâu, Glasgow
thấp, rối loạn tri giác, hạ thân nhiệt, tím tái,
đường huyết ≥ 200mg% và pH < 7,2. Kết quả này
cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của
nhiều tác giả khác. Nghiên cứu của Al Mofadda
cho thấy những yếu tố tiên lượng xấu là thời
gian ngạt trên 5 phút, Glasgow dưới 4 điểm,
đường huyết trên 180 mg% và pH dưới 7(1).
Nghiên cứu của Blasco Alonso cho thấy những
yếu tố tiên lượng xấu là giới nữ, trên 4 tuổi, thời
gian chìm trên 5 phút, thân nhiệt dưới 35oC, suy
hô hấp nặng, tím tái lúc nhập cấp cứu, Glasgow
3 điểm, pH dưới 7,1(2).
KẾT LUẬN
Nơi xảy ra tai nạn thay đổi theo tuổi, giới và
địa bàn cư trú. Để góp phần phòng ngừa ngạt
nước cần giám sát trẻ cẩn thận khi có những
hoạt động gần sông, suối, ao, hồ và đậy kín vật
dụng chứa nước. Tuyên truyền kỹ năng sơ cứu
ngạt nước cho người dân. Lưu ý những triệu
chứng nặng của bệnh nhân ngạt nước để điều trị
thích hợp: thời gian chìm trong nước lâu, rối
loạn tri giác, Glasgow thấp, mất phản xạ ánh
sáng, hạ thân nhiệt, tím tái, tăng đường huyết,
toan chuyển hóa nặng với pH < 7,2.
Chuyên Đề Nhi Khoa 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Mofadda et al (2001), "Pediatric near drowning: the
experience of King Khalid University Hospital," Ann Saudi
Med, 21, pp. 300-303.
2. Alonso Blasco et al (2005), "Drowning in pediatric patients,"
Anales de Pediatria, 62, pp. 20-24.
3. Biagas Katherine (2006),"Drowning and near drowning",
Current pediatric therapy, Saunder Elsevier, Philadelphia,
pp.210-213.
4. Brenner Ruth A. et al (2001), "Where Children Drown, United
States, 1995," Pediatrics, 108, pp. 85-89.
5. Feldhaus Andrew L. Knaut Kim M., (2006), “Submersion”,
Marx: Rosen’s Emergency Medicine: Concepts and Clinical
Practice, Mosby pp.1050-1054.
6. Gunatilaca Ajith and Joan Ozanne-Smith (2006), "A survey of
inventions aimed at preventing drowning," International
journal of injury control and safety promotion, 13, pp. 119-121.
7. Hwang Vivian et al, (2003), "Prevalence of Traumatic Injuries
in Drowning and Near Drowning in Children and
Adolescents," Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine, 157,
pp. 50-53.
8. Jallas Harry J. (2004), "Drowning and near drowning", Nelson
textbook of pediatrics,Saunders, Philadelphia, pp.321-330.
9. Lee Lois K. et al, (2006), "Demographic factors and their
association with outcome in pediatic submersion injury,"
Academic Emergency Medicine, 13, pp. 308-313.
10. Mason (2005), "Near drowning", Murray & Nadel's Textbook of
Respiratory Medicine, Saunders, pp.1881-1887.
11. Numa Andrew H. and et al, (2006), "Near drowning and
drowning", Kendis's disorders of the respiratory tract in children,
Saunders Elsevier, Philadelphia, pp.661-665.
12. Phạm Thị Ngọc Lan (2007), "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
và kết quả điều trị ngạt nước ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng
2", luận văn thạc sĩ y khoa.
13. Quan L. and P. Cummings (2003), "Characteristics of
drowning by different age groups," Injury prevention, 9, pp.
163-168.
14. Zuckerman Gary B. et al (1998), "Predictors of death and
neurologic impairment in pediatric submersion injuries,"
Pediatric adolescent medicine, 152, pp. 134-140.
Chuyên Đề Nhi Khoa 8
Chuyên Đề Nhi Khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_dich_te_lam_sang_can_lam_sang_va_dieu_tri_ngat_nuoc.pdf