Trong nghiên cứu 95 bệnh nhân rò hậu môn của
chúng tôi đối chiếu cộng hưởng từ và phẫu thuật. Kết
quả trường hợp rò đơn giản không có tổn thương lan
rộng cộng hưởng từ có 67, phẫu thuật 70 tỷ lệ chẩn
đoán đúng của cộng hưởng từ là 95,7%, 21/24 trường
hợp tổn thương có nhánh bên với tỷ lệ 87%. Có 04
trường hợp tổn thương lan rộng dạng móng ngựa với
tỷ lệ 100%. Có 3 trường hợp cộng hưởng từ chẩn đoán
không có nhánh bên nhưng trong phẫu thuật lại thấy
được có thể nhánh bên ngắn nằm trong vùng thâm
nhiễm nên cộng hưởng từ có kết quả không chính xác.
Kết quả của chúng tôi so với tác giả Lê Thị Diễm, Võ
Tấn Đức [7]. Kết quả phân loại phù hợp với phẫu thuật
trong 35/39 trường hợp (90%). Kết quả cộng hưởng
từ có 23 trường hợp (59%) rò đơn giản, không có tổn
thương lan rộng, 12 trường hợp tổn thương lan rộng
nằm bên dưới cơ nâng và 04 trường hợp tổn thương
lan rộng lan lên trên cơ nâng. Có 09 trường hợp tổn
thương lan rộng dạng móng ngựa.
Theo nghiên cứu của Kulvinder Singh trên 50 bệnh
nhân có 16 đường rò có nhánh bên trên phẫu thuật
(32%), cộng hưởng từ phát hiện được 15 trường hợp.
Chủ yếu các nhánh bên được thấy rõ trên chuỗi xung
T2W và T1W sau tiêm thuốc với độ nhạy tương ứng
93,75% và 81,25, độ đặc hiệu là 94,12% và 94,12%, độ
chính xác là 94% và 90%. Sự khác biệt giữa hai chuỗi
xung này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,297) [9].
Như vậy nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
như với các tác giả khác.
Cộng hưởng từ được xem như là phương tiện
hàng đầu trong chẩn đoán rò hậu môn, nhờ hình ảnh
có độ phân giải cao và trường khảo sát rộng, cung cấp
chi tiết cấu trúc giải phẫu lẫn các thông tin đầy đủ về
đường rò hậu môn, giúp phẫu thuật triệt để hơn đặc
biệt với trường hợp rò hậu môn phức tạp.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh và vai trò cộng hưởng từ trong chẩn đoán rò hậu môn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 19
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ
VAI TRÒ CỘNG HƯỞNG TỪ TRONG
CHẨN ĐOÁN RÒ HẬU MÔN
Imaging characteristic and role of MRI in diagnostic
perianal fistula
Vương Ngọc Anh*, Bùi Văn Lệnh**
The aims of this study: To determine imaging chacteristic
and the concordance in evaluation of perianal fistula between
MRI image and operative result.
Materials and methods: Descriptive study was performed
from January 2014 to September 2015 at Ha Noi Medical
University Hospital. 95 patients with clinically suspected fistula-in-
ano underwent preoperative MRI and operated at HMU hospital.
MRI scanning was performed on GE 1.5Tesla system with pelvis
phased-array coil.
Results: There were 95 patients including 81 males and 14
female. Value of MRI sequences in detection of perianal fituas
is high. The ability of T2W, STIR and T1W fat sat +Gado in
detection of fistulas are 94.7%, 95.7% and 98.9% respectively. In
the classification of primary tracts, the concordance rate between
MRI image and operative result was 84.2%, most of which were
transphinteric fistulas. The concordance rate in identification of
the internal opening and the extensive lesions were 96.6% and
94% respectively.
Conlusions: MRI is a good imaging modality in preoperative
evaluation of perianal fistulas with high accuracy (classification
of primary tracts, detection of internal opening and assessment
extensions).
Keywords: Anal fistula, MRI, classification of fistulas.
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Đa khoa Phúc Yên
**Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201620
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rò hậu môn là tình trạng hình thành đường thông
bất thường giữa niêm mạc ống hậu môn với các khoang
và da vùng quanh hậu môn. Theo tác giả trên thế giới
tỷ lệ mắc trong cộng đồng khoảng 10/100.000 người,
thường gặp ở lứa tuổi trung niên, tỷ lệ nam/nữ ~ 2/1 [1].
Rò hậu môn nếu không được xử lý tốt sẽ dẫn tới rò hậu
môn mạn tính. Vì vậy phát hiện sớm và điều trị kịp thời
sẽ đem lại kết quả tốt cho bệnh nhân. Các phương pháp
chẩn đoán hình ảnh như chụp đường rò cản quang, chụp
cắt lớp vi tính, siêu âm nội soi có hạn chế là không cho
thấy được mối liên quan của đường rò với phức hợp cơ
thắt hậu môn cũng như mức độ lan rộng của tổn thương.
Cộng hưởng từ với khả năng cho hình ảnh theo
nhiều chiều, độ tương phản tổ chức rõ nét, được xem
là kỹ thuật có giá trị cao trong việc phân loại đường rò
chính cũng như xác định vị trí lỗ trong và các tổn thương
lan rộng với độ chính xác cao, nhất là những tổn thương
nằm trên cơ nâng hậu môn, từ đó giúp phẫu thuật viên
lên kế hoạch điều trị cũng như tiên lượng được khả năng
ảnh hưởng đến chức năng cơ thắt sau can thiệp. Hiện
nay trong nước chưa có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực
này, chính vì vậy đề tài được thực hiện với 2 mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ
của rò hậu môn.
2. Đánh giá vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn
đoán rò hậu môn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả 95 bệnh nhân
có chẩn đoán lâm sàng là rò hậu môn, được chụp cộng
hưởng từ trên máy GE 1.5Tesla trước phẫu thuật, được
phẫu thuật tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 01/2014
đến 09/2015. Các đặc điểm mô tả trên cộng hưởng từ
được đối chiếu với kết quả tương ứng trên phẫu thuật.
Thăm khám cộng hưởng từ được thực hiện bằng
các chuỗi xung T2W, STIR, T1W fatsat có tiêm thuốc
đối quang từ, trên các mặt Axial và Coronal khu trú
vùng ống hậu môn.
Các chỉ số thu thập trên cộng hưởng từ gồm: vị trí,
số lượng, tín hiệu và đặc điểm của đường rò trên các
chuỗi xung, đánh giá lỗ trong và lỗ ngoài, sự lan rộng
của tổn thương.
Số liệu được thu thập và làm sạch, sau đó được nhập
bằng phần mềm phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đặc điểm chung rò hậu môn
Trong 95 bệnh nhân trong nghiên cứu có 81 bệnh
nhân nam, 14 bệnh nữ với tỷ lệ nam: nữ là 5:1. Bệnh
thường gặp ở lứa tuổi trung niên từ 30-60 tuổi với tỷ
lệ 72%. Về lứa tuổi hay gặp, kết quả của chúng tôi
tương tự với kết quả của Herand Abcarian nhưng có sự
khác biệt về tỷ lệ giữa nam và nữ (kết quả của Herand
Abcarian có tỷ lệ Nam/Nữ - 2/1 [6]).
Về tiền sử bệnh, trong số các bệnh nhân nghiên cứu
50% các bệnh nhân có tiền sử bình thường, 20% có tiền
sử rò hậu môn và 30% có tiền sử áp xe quanh hậu môn.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự các tác giả Lê thị
Diễm và Võ Tấn Đức: trong 37 trường hợp rò tái phát ở 25
trường hợp (64%), 07 trường hợp (18%) có tiền sử áp-xe
quanh hậu môn trước đó, 07 trường hợp không có hoặc
không rõ tiền sử áp-xe quanh hậu môn/ mổ rò hậu môn
trước đó[7]. Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có
tiền sử không rõ cao hơn so với tác giả trên.
3.2. Đặc điểm hình ảnh đường rò trên cộng hưởng
từ
3.2.1. Đặc điểm vị trí lỗ trong
Bảng 3.1. Đánh giá lỗ trong
Lỗ trong Tần số Tỷ lệ %
Đi vào niêm mạc ống HM 87 91,6
Không xác định được 8 8,4
Tổng 95 100
Nhận xét: 87 bệnh nhân có đường rò xuất phát từ
ống hậu môn chiếm 91,6%. Có 2 bệnh nhân có 2 lỗ trong.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cộng hưởng từ
phát hiện được 87 trường hợp có lỗ trong đi vào niêm
mạc ống hậu môn chiếm tỷ lệ 91,6%, có 2 trường hợp
có 2 lỗ trong, 1 trường hợp có 3 lỗ trong, 6 trường hợp
không xác định được lỗ trong. Việc đánh giá lỗ trong chủ
yếu dựa vào hướng cắt axial dựa vào các lớp cắt liên
tục theo đường đi của đường rò phối hợp với hướng
cắt coronal. Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
như một số tác giả khác trong và ngoài nước tỷ lệ phát
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hiện lỗ trong của đường rò trên CHT là khá cao tác giả
Lê Thị Diễm, Võ Tấn Đức 87% [7], tác giả Buchanan là
97% [8], tác giả Beets-Tan 90% [2].
Các trường hợp không phát hiện được vị trí lỗ
trong hầu hết do bệnh nhân sử dụng kháng sinh kéo
dài, quá trình rò tái đi tái lại nhiều lần.
3.2.2. Đặc điểm về sự liên quan giữa lỗ trong và lỗ
ngoài của đường rò theo quy luật Goodsall
Trong số 95 bệnh nhân có 81 bệnh nhân đường rò
có lỗ ngoài và lỗ trong với kết quả: trên đường ngang có
29/36 tuân theo quy luật, dưới đường ngang có 37/43,
lỗ ngoài cách rìa HM>3cm 2/2 tổng số 68 bệnh nhân có
đường rò tuân theo quy luật Goodsall chiếm tỷ lệ 84%.
3.2.3. Đặc điểm tín hiệu đường rò trên các chuỗi xung
3.2.3.1. Tín hiệu đường rò quan sát trên chuỗi xung T2W
Bảng 3.2. Tín hiệu của đường rò trên chuỗi xung
T2W (n=95)
Tín hiệu đường rò
trên chuỗi xung T2W
Số
bệnh nhân
Tỷ lệ
%
Tăng tín hiệu 86 90,5
Giảm tín hiệu 4 4,2
Đồng tín hiệu 5 5,3
Tổng số 95 100
Nhận xét: Trên chuỗi xung T2WI hầu hết đường rò
tăng tín hiệu 86/95 tương đương 90,5%.
3.2.3.2. Tín hiệu đường rò quan sát trên chuỗi xung STIR
Bảng 3.3. Tín hiệu của đường rò trên chuỗi xung
STIR (n=95)
Tín hiệu đường rò
trên chuỗi xung STIR
Số
bệnh nhân
Tỷ lệ
%
Tăng tín hiệu 87 91,6
Giảm tín hiệu 4 4,2
Đồng tín hiệu 4 4,2
Tổng số 95 100
Nhận xét: Hầu hết đường rò tăng tín hiệu trên
chuỗi xung STIR gặp trong 91,6%.
3.2.3.3. Tín hiệu đường rò quan sát trên chuỗi xung
T1WI fat sat+ Gado
Bảng 3.4. Mức độ ngấm thuốc của đường rò trên
chuỗi xung T1WI fat sat+ Gado (n=95)
Mức độ ngấm thuốc
của đường rò trên
T1WI fat sat + Gado
Số
bệnh nhân
Tỷ lệ
%
Ngấm nhiều 89 93,7
Ngấm ít 5 5,2
Không ngấm 1 1,1
Tổng số 95 100
Nhận xét: Hầu hết đường rò ngấm thuốc chiếm
tỷ lệ 93,7%. Có 5 bệnh nhân ngấm chậm ở thì muộn
chiếm 5,2%.
Vậy hầu hết đường rò (>93%) phát hiện trên các
chuỗi xung được thăm khám đều tăng tín hiệu.
Theo nghiên cứu của Hori et al. [3] bệnh nhân 20
rò hậu môn,18 (90%) tăng tín hiệu trên T2-weighted và
19 (95%) tăng trên T1WI fat sat+ Gado.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về các chuỗi
xung cũng tương tự các tác giả ngoài nước.
3.2.4. Đặc điểm phân loại theo Parks (có bổ sung
loại dưới cơ thắt)
Bảng 3.5. Phân loại đường rò theo Parks (n = 95)
Loại đường rò Tần số Tỷ lệ
Dưới cơ thắt 12 12,7
Gian cơ thắt 25 26,4
Xuyên cơ thắt 48 50,5
Trên cơ thắt 5 5,2
Ngoài cơ thắt 5 5,2
Tổng 95 100
Nhận xét: Trong tổng số 95 bệnh nhân nghiên cứu
có số bệnh nhân có đường rò xuyên cơ thắt chiếm tỷ lệ
cao nhất là 50,5%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi số bệnh nhân có
đường rò xuyên cơ thắt chiếm tỷ lệ cao 50,5%, đường
rò gian cơ thắt chiếm tỷ lệ 26,4%, đường rò dưới cơ
thắt, trên cơ thắt và ngoài cơ thắt chiếm tỷ lệ thấp hơn.
Không có trường hợp rò trên cơ nâng hậu môn. Tác
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201622
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
giả Lê Thị Diễm, Võ Tấn Đức chủ yếu là loại rò xuyên
cơ thắt chiếm 84%. 03 trường hợp rò trên cơ thắt, 01
trường hợp rò gian cơ thắt, 01 trường hợp rò dưới da-
niêm mạc[7]. Tác giả Parks AG đưa ra hệ thống phân
loại đường rò theo tương quan của tổn thương với nhóm
cơ thắt hậu môn. Rò liên cơ thắt chiếm khoảng 70%, rò
xuyên cơ thắt chiếm khoảng 23%, rò trên cơ thắt chiếm
khoảng 5%, rò ngoài cơ thắt ít gặp chiếm khoảng 2%.
Tỷ lệ đường rò trên xuyên cơ thắt của chúng tôi so
với tác giả nước ngoài chiếm tỷ lệ cao hơn nhưng thấp
hơn so với tác giả trong nước.
Minh họa phân loại đường rò theo Park
Một số hình ảnh đường rò trên phim chụp cộng
hưởng từ
Rò gian cơ thắt trên hướng cắt axiall Rò dưới cơ thắt trên hướng cắt coronal
Rò xuyên cơ thắt cao trên hướng cắt coronal Rò trên cơ thắt trên hướng cắt coronal
3.2.5. Mức độ lan tràn của đường rò
Bảng 3.5. Mức độ lan tràn của đường rò (n = 95)
Loại đường rò Tần số Tỷ lệ %
Đường rò đơn giản 70 73,7
Đường có nhánh bên 21 22,1
Rò móng ngựa 4 4,2
Tổng 95 100%
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét: Trong tổng số 95 bệnh nhân nghiên cứu
có đường rò đơn giản 70 chiếm tỉ lệ 73,7%. Trong 21
bệnh nhân có 19 bệnh nhân 1 nhánh bên có 2 bệnh
nhân có 2 nhánh bên. 4 bệnh nhân có rò móng ngựa.
Khả năng phát hiện sự lan tràn của đường rò trên
cộng hưởng từ là rất tốt do trường thăm khám rộng
toàn bộ vùng tầng sinh môn với nhiều mặt phẳng và
nhiều chuỗi xung khác nhau. So với các phương pháp
khác cộng hưởng từ có ưu thế hơn hẳn. Trong nghiên
cứu của Gordon N. Buchanan trên siêu âm nội soi chỉ
phát hiện được 56% đường rò móng ngựa còn trên
cộng hưởng từ phát hiện được 94% các trường hợp [8].
Trên nghiên của chúng tôi phát hiện được 70 trường
hợp rò đơn giản, 21 trường hợp rò có nhánh bên trong
đó 19 có 1 nhánh bên 2 bệnh nhân có 2 nhánh bên, 4
trường hợp rò móng ngựa không có trường hợp rò chữ
Y và trên cơ thắt.
3.3. Vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán rò hậu môn
3.3.1. Vị trí lỗ trong trên cộng hưởng tử so với phẫu thuật
Bảng 3.6. Đối chiếu về vị trị của lỗ trong (n = 95)
Kết quả phẫu thuật
Kết quả CHT
Đi vào niêm mạc ống HM Không xác định được Tổng
n % n % N %
Đi vào niêm mạc ống HM 86 90,5 0 0 86 90,5
Không xác định được 3 3,2 6 6,3 9 9,5
Tổng 89 93,7 6 6,3 95 100
Nhận xét: Cộng hưởng từ đối chiếu phẫu thuật vị trí lỗ trong. Có đường thông vào ống hậu môn với độ chính
xác 86/89 tương đương 96,6%. Trong đó có 2 bệnh nhân có 2 lỗ trong và 1 bệnh nhân có 3 lỗ trong.
Cộng hưởng từ xác định có lỗ trong trong 86/95 trường hợp tỷ lệ chính xác của cộng hưởng tử 90,5%, 09 trường
hợp không tìm thấy lỗ trong. Trong 03 trường hợp không phù hợp những những bệnh nhân trên đều có tiền sử dùng
kháng sinh kéo dài. Có 06 trường hợp không tìm thấy lỗ trong cả trên cộng hưởng từ và trong lúc phẫu thuật.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đạt độ nhạy 97%, độ đặc hiệu 100%, độ chính xác 97%.
Theo nghiên cứu của Kulvinder Singh, khả năng phát hiện lỗ trong của cộng hưởng từ có độ nhạy 95,8%, độ
đặc hiệu 80% và độ chính xác là 94,3% [9].
Vậy khả năng phát hiện lỗ trong của cộng hưởng từ trong nghiên cứu của chúng tới là tương tự các tác giả
trong và ngoài nước.
3.3.2. Phân loại đường rò trên cộng hưởng từ so với phẫu thuật
Bảng 3.7. Đối chiếu về phân loại đường rò theo sự tương quan với cơ thắt (theo Parks) (n = 95)
Phẫu thuật CHT
Dưới Gian Xuyên Trên Ngoài Tổng
n n n n N n
Dưới cơ thắt 10 0 1 0 0 11
Gian cơ thắt 0 15 10 0 0 25
Xuyên cơ thắt 0 0 49 0 0 49
Trên cơ thắt 0 1 1 3 0 5
Ngoài cơ thắt 1 0 0 1 3 5
Tổng 11 16 61 4 3 95
Nhận xét: Độ chính xác của cộng hưởng từ: (10 + 15 + 49 + 3 + 3) / 95 = 0.842 (84,2%).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/201624
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả phân loại phù hợp với phẫu thuật trong
80/95 trường hợp (84,2%), trong đó:
Rò xuyên cơ thắt có tỉ lệ phù hợp là 49/61 trường
hợp (81,8%). Rò dưới cơ thắt 10/11 trường hợp, 15/16
trường hợp rò gian cơ thắt trong đó 15 trường hợp
trùng với phẫu thuật 1 trường hợp được xác định là
rò xuyên cơ thắt thấp và 3/5 trường hợp rò trên cơ thắt
đều thuộc phân loại rò xuyên cơ thắt cao trong phẫu
thuật 3/5 trường hợp ngoài cơ thắt đúng với phẫu thuật.
Theo G.Rosa nghiên cứu 844 bệnh phẫu thuật rò
hậu môn tỷ lệ các loại đường rò tương quan với cơ thắt
như sau: đường rò dưới cơ thắt 14,9%, đường rò gian
cơ thắt 23,8%, đường rò xuyên cơ thắt 52,6%, đường
rò trên cơ thắt là 2,6%, đường rò ngoài cơ thắt 4% [4].
Tỷ lệ phù hợp của chúng tôi cũng tương đương tác
giả ngoài nước.
3.3.3. Đánh giá tổn thương lan tràn trên cộng hưởng
từ so sánh với phẫu thuật (nhánh bên, áp xe)
Bảng 3.8. Đối chiếu về mức độ lan tràn của
tổn thương nhánh bên (n = 95)
Loại đường rò Cộng hưởng từ Phẫu thuật
Rò đơn thuần 70 67
Rò có nhánh bên 21 24
Rò móng ngựa 4 4
Nhận xét: mức độ cộng hưởng từ chẩn đoán phù
hợp phẫu thuật 89/95 tương đương 94%.
Trong nghiên cứu 95 bệnh nhân rò hậu môn của
chúng tôi đối chiếu cộng hưởng từ và phẫu thuật. Kết
quả trường hợp rò đơn giản không có tổn thương lan
rộng cộng hưởng từ có 67, phẫu thuật 70 tỷ lệ chẩn
đoán đúng của cộng hưởng từ là 95,7%, 21/24 trường
hợp tổn thương có nhánh bên với tỷ lệ 87%. Có 04
trường hợp tổn thương lan rộng dạng móng ngựa với
tỷ lệ 100%. Có 3 trường hợp cộng hưởng từ chẩn đoán
không có nhánh bên nhưng trong phẫu thuật lại thấy
được có thể nhánh bên ngắn nằm trong vùng thâm
nhiễm nên cộng hưởng từ có kết quả không chính xác.
Kết quả của chúng tôi so với tác giả Lê Thị Diễm, Võ
Tấn Đức [7]. Kết quả phân loại phù hợp với phẫu thuật
trong 35/39 trường hợp (90%). Kết quả cộng hưởng
từ có 23 trường hợp (59%) rò đơn giản, không có tổn
thương lan rộng, 12 trường hợp tổn thương lan rộng
nằm bên dưới cơ nâng và 04 trường hợp tổn thương
lan rộng lan lên trên cơ nâng. Có 09 trường hợp tổn
thương lan rộng dạng móng ngựa.
Theo nghiên cứu của Kulvinder Singh trên 50 bệnh
nhân có 16 đường rò có nhánh bên trên phẫu thuật
(32%), cộng hưởng từ phát hiện được 15 trường hợp.
Chủ yếu các nhánh bên được thấy rõ trên chuỗi xung
T2W và T1W sau tiêm thuốc với độ nhạy tương ứng
93,75% và 81,25, độ đặc hiệu là 94,12% và 94,12%, độ
chính xác là 94% và 90%. Sự khác biệt giữa hai chuỗi
xung này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,297) [9].
Như vậy nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
như với các tác giả khác.
Cộng hưởng từ được xem như là phương tiện
hàng đầu trong chẩn đoán rò hậu môn, nhờ hình ảnh
có độ phân giải cao và trường khảo sát rộng, cung cấp
chi tiết cấu trúc giải phẫu lẫn các thông tin đầy đủ về
đường rò hậu môn, giúp phẫu thuật triệt để hơn đặc
biệt với trường hợp rò hậu môn phức tạp.
3.4. Đánh giá kết quả sau 1 tháng (thời gian thông
thường để một vết mổ RHM liền sẹo)
3.4.1. Kết quả chung
Bảng 3.10. Kết quả của việc điều trị sau một tháng
(n=75)
Kết quả điều trị
sau 1 tháng
n %
Khỏi 66 88
Không khỏi 2 2,7
Tái phát 7 9,3
Tổng 75 100,0
Nhận xét: Với những bệnh nhân được phẫu thuật
trên cơ sở có kết quả cộng hưởng từ có tỷ lệ khỏi cao
đạt 88%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ khỏi đạt 88%.
Tỷ lệ không khỏi và tái phát là 12%. Với P= 0,05.
So sánh với một số tác giả khác. Đỗ Đình Công
(2007) tỷ lệ điều trị thất bại là 8,3%[5]. Theo tác giả
Parks nếu mổ đúng kỹ thuật, chăm sóc hậu phẫu tốt thì
tỷ lệ khỏi bệnh có thể đạt tới 90% [10].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 23 - 3/2016 25
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.4.2. Đánh giá hiệu quả cơ thăt sau 3 tháng
Đánh giá sự ảnh hưởng của điều trị với chức năng
cơ thắt sau 3 tháng điều trị. 45/75 trường hợp chức
năng cơ thắt trở lại bình thường (độ 0). chiếm 60%,
21/75 có rối loạn cơ thắt mức độ nhẹ (độ1) chiếm 28%.
IV. KẾT LUẬN
Cộng hưởng từ là phương pháp có giá trị cao trong
đánh giá rò hậu môn trước phẫu thuật. Tỉ lệ phù hợp so
với phẫu thuật trong phân loại đường rò là 84,2%. Tỉ lệ
phù hợp trong xác định vị trí lỗ trong là 96,6%. Cộng
hưởng từ có khả năng xác định đúng sự lan rộng của
tổn thương trong 94% trường hợp. Chụp cộng hưởng
từ trước phẫu thuật giúp các phẫu thuật viên lựa chọn
phương pháp phẫu thuật triệt để tránh tái phát (khỏi
66/75 tương đương 88%). Phục hồi tốt nhất cho chức
năng cơ thắt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nalan Yıldırım, Gökhan Gökalp, Ersin Öztürk,
et al “Ideal combination of MRI sequences for perianal
fistula classification and the evaluation of additional
findings for readers with varying levels of experience”,
Diagn Interv Radiol 2012; 18:11–19.
2. Regina G. H. Beets-Tan et al: “Preoperative
MR Imaging of Anal Fistulas: Does It Really Help the
Surgeon”. Radiology 2001; 218:75–84
3. Karmiris K, Bielen D, Vanbeckevoort D, Hori et
al (2011). Long-term monitoring of infliximab therapy for
perianal fistulizing Crohn’s disease by using magnetic reso-
nance imaging. Clin Gastroenterol Hepatol; 9 (2): 130-136.
4. G. Rosa P. Lolli D. Piccinelli F. Mazzola S.
Bonomo (2006). Fistula-in- ano: anatomoclinical
aspects, surgical therapy and results in 844 patients
(Published online: 20 September 2006)
5. Đỗ Đình Công (2007). Kết quả sớm điều trị phẫu
thuật bệnh rò hậu môn.
6. Herand Abcarian, “Anorectal Infection: Abscess–
Fistula”, Clinic in colon and rectal surgery/volume 24,
number 1 2011
7. Lê Thị Diễm, Võ Tấn Đức, Nguyễn Văn Hậu,
Phạm Ngọc Hoa, “Bước đầu khảo sát giá trị hình ảnh
cộng hưởng từ của rò hậu môn”, Y Học TP. Hồ Chí
Minh, Tập 14, Phụ bản của Số 1 2010
8. Buchanan G, Halligan S, Williams A, et al. Effect
of MRI on clinical outcome of recurrent fistula-in-ano.
Lancet 2003
9. Kulvinder Singh, Navdeep Singh, CL Thukral,
Kunwar pal Singh, Varun Bhalla. Magnetic Resonance
Imaging (MRI) Evaluation of Perianal Fistulae with
Surgical Correlation. June 2014
10. Parks AG, Gordon PH, Hardcastle JD. A
classifica tion of fistula-in-ano. Br J Surg 1976;63(1):1–12.
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: 1)Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của rò hậu môn; 2)Vai trò của cộng hưởng
từ trong chẩn đoán rò hậu môn.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Nghiên cứu thực hiện trên 95 bệnh nhân được chẩn
đoán rò hậu môn, được phẫu thuật tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 01/2014 đến tháng 9/2015. Các bệnh
nhân được chụp cộng hưởng từ trên máy chụp 1.5 Tesla và đối chiếu kết quả với phẫu thuật.
Kết quả: Trong 95 bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ có 81 nam và 14 nữ. Các chuỗi xung CHT có khả năng phát
hiện chính xác đường rò với tỷ lệ cao. Chuỗi xung T2W phát hiện được 94,7% số đường rò, chuỗi xung STIR là 95,7%
và chuỗi xung T1W fat sat +Gado là 98,9%. Chẩn đoán cộng hưởng từ phù hợp với phẫu thuật trong phân loại đường rò
chính với tỷ lệ là 84,2%, trong xác định vị trí lỗ trong là 96,6%, trong xác định sự lan rộng của tổn thương là 94%.
Kết luận: Cộng hưởng từ là phương pháp có giá trị cao được sử dụng trong đánh giá rò hậu môn trước phẫu
thuật (phân loại đường rò chính, xác định vị trí lỗ trong và các tổn thương lan rộng) với độ chính xác cao.
Từ khóa: Rò hậu môn, cộng hưởng từ, phân loại đường rò.
Người liên hệ: Bùi Văn Lệnh Email: buivanlenh@gmail.com
Ngày nhận bài: 5.1.2016
Ngày chấp nhân đăng: 28.2.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_hinh_anh_va_vai_tro_cong_huong_tu_trong_chan_doan_r.pdf