Theo phác đồ bệnh viện Nhi Trung ương,
bệnh nhân HCTHTP kháng thuốc steroid được
điều trị đầu tiên với thuốc cyclosporin (Neoral)
định lượng nồng độ định kỳ để đảm bảo nồng
độ thuốc trong máu xung quanh ngưỡng 100
ng/ml, liều cellcept là 1200 mg/1.73m2 da.
Trong 54 bệnh nhân kháng thuốc có 74%
(40/54) được điều trị bằng steroid
(prednisolone) + cyclosprin (neoral); 9% (5/54)
steroid + mycofenolat mofetin (cellcept);
15,75% (9/54) điều trị phối hợp cả 3 thuốc
(prednisolon + Neoral + Cellcept). Theo dõi
protein niệu trong 6 tháng thấy: 55,6% bệnh
nhân đạt được protein niệu âm tính, 44,4%
không đạt được protein niệu âm tính. Kết quả
trong bảng 2 cho thấy bệnh nhân đáp ứng hoàn
toàn 46,3% (25/54), đáp ứng một phần 29,62
%(16/54), không đáp ứng 24,07% (13/54).
Trong bảng 3 đánh giá kết quả điều trị theo mô
bệnh học cho thấy gần 1/3 bệnh nhân thể xơ
hóa cục bộ từng phần không đáp ứng với điều
trị, trong khi đó 100% bệnh nhân tổn thương tối
thiểu đạt được thuyên giảm hoàn toàn, bệnh
nhân xơ lan tỏa không đáp ứng điều trị. Kết quả
điều trị chung trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn của Trần Hữu Minh Quân 89,6% đáp
ứng ( hoàn toàn 68,7%, một phần 20,9%), Roy
đáp ứng 65,63%, Zagury 65%. Điều này có thể
do trong nghiên cứu của Trần Hữu Minh Quân
thể mô bệnh học hầu hết là tổn thương tối thiểu
có tỷ lệ cao hơn nên kết quả điều trị có tỷ lệ đáp
ứng cao hơn. Trong các nghiên cứu trên thế giới
đều chỉ ra thể xơ hóa cầu thận có tỷ lệ đáp ứng
điều trị với thuốc thấp hơn, tiên lượng nặng nề
hơn, nhanh tiến triển thành bệnh suy thận và
bệnh thận giai đoạn cuối. Kết trong nghiên cứu
của chúng tôi ghi nhận thấy có 24,07% (13/54)
bệnh nhân không đáp ứng với điều trị đều là
suy thận mạn hoặc bệnh thận gia đoạn cuối.
Nghiên cứu của Roy cũng cho thấy tỷ lệ suy
thận là 12,5% [6]. Zagury theo dõi 87 bệnh
nhân sau 25 năm tỷ lệ bệnh thận giai đoạn cuối
là 58,6% [5], theo Niaudet 50% bệnh nhân mắc
HCTHTP kháng thuốc steroid có thể tiến triển
thành bệnh thận giai đoạn cuối sau 10 năm [1].
Đây là sự ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và sức
khỏe của bênh nhân mắc HCTHTP kháng thuốc
steroid. Có 61,1% (33/54) gặp các dụng không
mong muốn của thuốc, trong đó biểu hiện của
Cushing 69,7% xạm da và 30,3% rậm lông
6 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 837 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị hội chứng thận hư kháng thuốc steroid tại khoa Thận - Lọc máu, Bệnh viện Nhi Trung Ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 41-46
41
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị hội chứng
thận hư kháng thuốc steroid tại khoa Thận - Lọc máu,
Bệnh viện Nhi Trung Ương
Phạm Văn Đếm1, Nguyễn Thu Hương2, Nguyễn Thị Quỳnh Hương3, Thái Thiên
Nam2, Đinh Đoàn Long1, Vũ Vân Nga1, Trần Huy Thịnh3, Vũ Thị Thơm1,*
1Khoa Y Dược - Đại học Quốc Gia Hà Nội, Nhà Y1, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Khoa Thận-Lọc máu, Bệnh viện Nhi Trung Ương, 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
3Trường Đại học Y Hà Nội, 1 Tôn Thất Tùng, Q. Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của hội chứng thận hư
tiên phát kháng thuốc steroid. Đối tượng nghiên cứu: 54 trẻ mắc HCTHTP kháng thuốc steroid nhập viện điều trị
tại Khoa Thận-Lọc máu, bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 3 năm 2015. Phương pháp
nghiên cứu: Mô tả tiến cứu. Kết quả: 31 bệnh nhân (57,4%) kháng thuốc sớm, 42,6% kháng thuốc muộn. Triệu
chứng lâm sàng phổ biến nhất khi đến viện là phù 100%, đái máu 14,8%, cao huyết áp 7,4%. Sinh thiết thận 24
bệnh nhân cho thấy: 70,8% tổn thương thể xơ hóa cục bộ từng phần, 25% tổn thương tối thiểu, 4,2% xơ hóa lan
tỏa. Kết quả điều trị 46,3% thuyên giảm hoàn toàn. Kết luận: HCTHTP kháng thuốc steroid có biểu hiện các
triệu chứng lâm sàng nặng nề, điều trị khó khăn với trên 50% thuyên giảm một phần và không thuyên giảm.
Nhận ngày 26 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 07 tháng 11 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 3 năm 2016
Từ khóa: Hội chứng thận hư kháng thuốc steroid, mô bệnh học.
1. Đặt vấn đề *
Hội chứng thận hư tiên phát (HCTHTP) là
bệnh cầu thận phổ biến nhất trong các bệnh về
thận ở trẻ em. Theo P.Niaudet, 20% bệnh nhân
HCTHTP bị kháng với thuốc steroid và các
thuốc ức chế miễn dịch khác; điều này có thể
dẫn tới việc tiến triển thành suy thận hoặc bệnh
thận giai đoạn cuối gây ảnh hưởng rất lớn đến
sức khỏe và cuộc sống của trẻ cũng như gia
đình bệnh nhi [1]. Điều trị HCTHTP kháng
thuốc hiện vẫn gặp nhiều khó khăn, thời gian
điều trị kéo dài, tốn kém [3]. Các nghiên cứu về
_______
*
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-1677968818
Email: thomtbk5@gmail.com
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả
điều trị về HCTHTP kháng steroid tại bệnh viện
Nhi Trung ương còn ít [4]. Vì vậy, nghiên cứu
này nhằm: mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và kết quả điều trị của bệnh nhân mắc
HCTHTP kháng steriod
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Gồm 54 bệnh nhân được chẩn đoán xác
định mắc HCTHTP kháng thuốc steroid tại
khoa Thận - Lọc máu, bệnh viện Nhi Trung
ương, nhập viện từ 01/01/2015 đến 30/03/2015.
P.V. Đếm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 41-46
42
- Chẩn đoán HCTHTP theo tiêu chuẩn của
KDIGO (Kidney Disease Improving Global
Outcomes) năm 2012 [2]: Protein niệu ≥
50mg/kg/24 giờ hoặc Protein niệu/Creatinin
niệu ≥ 200mg/mmol, Albumin máu ≤ 25g/lít,
Protid máu ≤ 56g/lít.
- Chẩn đoán HCTHTP kháng steroid theo
một trong ba tiêu chuẩn sau:
+ Không thuyên giảm sau 6 tuần điều trị
bằng prednisolon liều tấn công 2mg/kg/ngày
mỗi ngày liên tục.
+ Không thuyên giảm sau 4 tuần điều trị bằng
prednisolon liều tấn công 2mg/kg/ngày mỗi ngày
liên tục và 4 tuần điều trị bằng prednisolon liều
2mg/kg/ngày mỗi ngày cách ngày.
+ Không thuyên giảm sau 4 tuần điều trị
bằng prednisolon liều tấn công 2mg/kg/ngày
mỗi ngày liên tục và 3 liều truyền
Methylprednisolon bolus 1000 mg/1,73 m2 cơ
thể/48.
- Phác đồ điều trị HCTHTP kháng thuốc:
Prednisone liều 1 mg/kg/cách nhật, kết hợp
thuốc ức chế miễn dịch khác:
+ Cyclosporin là thuốc được ưu tiên nhất,
liều 5 mg/kg/ngày. Luôn giữ nồng độ thuốc từ
70-140ng/dl.
+ Sau 3 tháng không thuyên giảm, chuyển
thuốc ức chế miễn dịch khác cellcept.
+ Nếu 3 tháng điều trị bằng cellcept vẫn
không thuyên giảm thì dùng phối hợp cellcept
và cyclosporin.
- Kháng thuốc sớm: Kháng steroid ngay
trong liệu trình điều trị đầu tiên.
- Kháng thuốc muộn: Có đáp ứng steroid
trong đợt đầu tiên hoặc nhiều đợt sau đó, nhưng
kháng thuốc steroid trong các đợt tái phát.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không
đồng ý tham gia nghiên cứu hoặc bỏ điều trị.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp
mô tả. Kết quả điều trị được đánh giá sau 06
tháng điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch
cho bệnh nhân kháng thuốc steroid. Mỗi bệnh
nhân được làm một bệnh án nghiên cứu theo
mẫu thống nhất.
Cỡ mẫu nghiên cứu: chọn mẫu thuận tiện,
lấy tất cả bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn
chẩn đoán.
Đạo đức nghiên cứu: Sinh thiết thận được
thực hiện khi có sự đồng ý của người đại diện
của trẻ. Nghiên cứu đã được thông qua hội
đồng đạo đức lần 1 tại Hội đồng chấm đề cương
Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Hà Nội và
Bệnh viện Nhi Trung ương.
a) Các chỉ số nghiên cứu lâm sàng.
- Các đặc điểm chung: Tuổi, giới, tiền sử
thận hư, bệnh kèm theo.
- Các triệu chứng lâm sàng:
+ Phù khi vào viện (nặng, vừa, nhẹ); Đo
huyết áp; Đánh giá đái máu
+ Đánh giá một số biến chứng của HCTH
và tác dụng phụ của thuốc điều trị.
b) Các chỉ số nghiên cứu cận lâm sàng.
* Đánh giá với đáp ứng điều trị steroid và
các thuốc ức chế miễn dịch:
- Đánh giá chức năng thận dựa vào mức lọc
cầu thận tính (MLCT) theo công thức Swcharzt
cải tiến:
Mức lọc cầu thận =
Cre máu(µmol/l)
- Các xét nghiệm sinh hóa, nước tiểu, sinh
thiết thận.
Theo KDIGO [2], dựa vào lâm sàng và
protein niệu 24 giờ hoặc chỉ số protein
niệu/creatinin niệu, protein máu, albumin máu
lúc nhập viện và sau 6 tháng để đánh giá kết
quả điều trị.
+ Thuyên giảm hoàn toàn: Bệnh nhân hết
phù, protein niệu âm tính hoặc protein
niệu/creatinin niệu < 20mg/mmol hoặc <1+ qua
tổng phân tích; albumin máu ≥ 25g/lít; protid
máu ≥ 56g/lít.
+ Thuyên giảm một phần: protein
niệu/creatin niệu >20 mg/mmol và giảm được
50% protein niệu so với ban đầu.
h(cm)*k
P.V. Đếm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 41-46 43
+ Không thuyên giảm: protein
niệu/creatinin niệu ≥ 200mg/mmol; albumin
máu < 25g/lít; protid máu < 56g/lít.
+ Suy thận mạn: MLCT < 90ml/phút kéo dài
trên 3 tháng; Bệnh thận giai đoạn cuối: Suy thận
mạn nặng phải lọc máu ngoài thận (MLCT
<15ml/phút. Sinh thiết thận được thực hiện 1 lần.
Nếu kết quả chưa rõ ràng hoặc điều trị thuốc ức
chế miễn dịch không thuyên giảm sinh thiết lần 2.
3. Kết quả
3.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
Tuổi mắc bệnh trung bình là 5,16 ± 3,51
năm, thấp nhất là 6 tháng, lớn nhất 14 tuổi. Trẻ
trai gặp nhiều hơn với 33/54 (61,1%), tỷ lệ trẻ
trai/trẻ gái: 1,57/1.
Bảng 1: Triệu chứng lâm sàng của HCTHTP kháng thuốc khi nhập viện
Bệnh nhân
Triệu chứng
Số bệnh nhân
(n=54)
Tỷ lệ
%
Nặng 40 74,08
Vừa 10 18,51
Phù
Nhẹ 4 7,4
Suy thận mạn 13 24,07
Đái máu 8 14,81
Triệu chứng
kết hợp
Tăng huyết áp 4 7,4
Tái phát 40 72,2
Khởi phát 14 27,8
Nhận xét: Phù là triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất của bệnh nhân HCTHTP (100%). Đa số bệnh
nhân đến viện trong đợt tái phát (72,2%).
Biểu đồ 1. Kết quả sinh thiết thận.
Nhận xét: Kết quả sinh thiết thận cho thấy trong tổng số 24 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân có xơ hóa
cục bộ từng phần là 70,8%; bệnh nhân tổn thương tối thiểu: 25% và bệnh nhân xơ hóa lan tỏa 4,2%.
3.2. Kết quả điều trị
Bảng 2: Kết quả điều trị chung sau 6 tháng
Kết quả điều trị (n=54) Thuốc điều trị Thuyên giảm hoàn toàn Thuyên giảm một phần Không thuyên giảm Tổng
Pred* + Neoral 20 (50,0%) 13 (32,5 %) 7 (17,5 %) 40
Pred* + Cellcept 2 (40,0 %) 1 (20,0 %) 2 (40,0%) 5
Pred* + Neoral + Cellcept 3 (33,3 %) 2 (22,2 %) 4 (44,5 %) 9
Tổng 25 16 13 54
Pred*: prednisolon
P.V. Đếm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 41-46
44
Nhận xét: 50% bệnh nhân vẫn đáp ứng hòan toàn với Neoral.
Theo dõi kết quả xét nghiệm cận lâm sàng nước tiểu sau điều trị 6 tháng cho thấy 44,4% (24/54)
bệnh nhân không đạt được protein niệu âm tính; Có 61,1% (33/54) gặp tác dụng không mong muốn,
trong đó biểu hiện của Cushing 69,7% xạm da và 30,3% rậm lông.
Bảng 3: Kết quả điều trị theo mô bệnh học
Kết quả điều trị ( n=24 ) Kết quả
Mô bệnh học Thuyên giảm hoàn toàn Thuyên giảm một phần Không thuyên giảm
Tổng
Xơ hóa cục bộ từng phần 8 (47,1%) 4 (23,4%) 5 (29,5%) 17
Tổn thương tối thiểu 6 (100%) 0 0 6
Xơ hóa lan tỏa 0 0 1 (100%) 1
Tổng 14 4 6 24
j
Nhận xét: Theo kết quả mô bệnh học, đa số
các bệnh nhân mắc hội chứng thận hư tiên phát
có kết quả xơ hóa cục bộ từng phần, một số ít
có tổn thương tối thiểu và rất ít bệnh nhân có
giải phẫu mô bệnh học thể xơ hóa lan tỏa. 100%
bệnh nhân tổn thương tối thiểu đáp ứng tốt với
điều trị, trong khi đó, bệnh nhân thể xơ hóa cục bộ
từng phần có khoảng 29,5% không thuyên giảm
và bệnh nhân thể xơ hóa lan tỏa hầu như không
thuyên giảm sau 6 tháng điều trị.
4. Bàn luận
4.1. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng
Tuổi mắc bệnh trung bình là 5,16 ± 3,51
năm, lớn nhất 14 tuổi bệnh nhân nhỏ tuổi nhất
là 6 tháng, lớn nhất 14 tuổi. Kết quả của chúng
tôi cũng giống nghiên cứu của Trần Hữu Minh
Quân [3], Đoàn Thị Thắm [4], Zagury [5]. So
với nghiên cứu của Roy trên 32 bệnh nhân mắc
HCTH TP kháng thuốc steroid tại Banglades
tuổi trung bình gặp cao hơn 9,2 [6].
Giới: đa số gặp trẻ trai, tỷ lệ trẻ trai/gái là
1,57/1, tỷ lệ này cũng gần với kết quả nghiên
cứu của Roy 1,4/1 [6] thấp hơn Trần Hữu Minh
Quân 2/1 [4].
Triệu chứng lâm sàng trong bảng 1 cho thấy
triệu chứng gặp nhất của bệnh nhân HCTHTP
kháng thuốc vẫn là phù (100%) ngoài ra bệnh
nhân nhập viện còn gặp đái máu 14,81% (8/54),
cao huyết áp 7,4% (4/54). Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi có sự khác biệt với nghiên cứu
của Trần Hữu Minh Quân như phù chỉ gặp
68,7%, không gặp đái máu [3], Đoàn Thị Thắm
phù gặp 95,3% [4]. Triệu chứng cao huyết áp
của chúng tôi thấp hơn của tác giả Đoàn Thị
Thắm (81,2%), Roy 40,63% [6], Zagury 15%
[5]. Có thể do bệnh viện Nhi Trung ương là
tuyến cao nhất nhận bệnh nhân kháng thuốc
chuyển từ tuyến dưới chuyển lên nên trước đó
bệnh nhân đã được dùng thuốc ức chế men
chuyển (thuốc điều trị huyết áp có tác dụng làm
giảm protein niệu) nên chúng tôi không ghi
nhận được trị số huyết áp ngay từ đầu. Tỷ lệ
suy thận mạn trong nghiên của của chúng tôi
gặp khá cao 24,07%, cao hơn của Roy 12,5%,
Trần Hữu Minh Quân (không gặp suy thận).
Như vậy các triệu chứng lâm sàng của bệnh
nhân mắc HCTHTP kháng thuốc rất thay đổi
đặc biệt triệu chứng phù và cao huyết áp. Biến
chứng nhiễm trùng 31,7% , đa số gặp viêm phế
quản phổi 27,77% , viêm phúc mạc 3,7% , viêm
mô tế bào 3,7%, tỷ lệ này cao hơn của Trần
Hữu Minh Quân (14,9%).
Chúng tôi tiến hành sinh thiết 24 bệnh nhân
kháng thuốc, ở biểu đồ 1 kết quả cho thấy
70,84% (17/24) gặp thể xơ hóa cục bộ từng
phần (focal and segmental glomerulosclerois:
FSGS), 25% (6/24) bệnh nhân gặp thể tổn
thương tối thiểu (minimal change disease:
MCD), 4,16% (1/24) gặp thể xơ hóa lan tỏa.
Kết quả này cũng rất khác so với nghiên cứu
của nghiên cứu của Trần Hữu Minh Quân
FSGS 24,8%, MCD 64,2%, 7,4% là thể khác
[3], Roy FSGS 12,5%, MCD 18,75% [6],
nhưng gần giống kết quả của Zagury FSGS
64%, MCD 30% [5]. Theo Niaudet [1], trên mô
P.V. Đếm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 41-46 45
bệnh học bệnh nhân mắc HCTHTP thể nhạy
cảm steroid thì 90% tổn thương thể MCD, 7% -
10% thể FSGS còn lại các thể khác, nhưng
bệnh nhân kháng thuốc steroid thì trên 70% gặp
FSGS dưới 10% MCD. Như vậy kết quả nghiên
cứu của chúng tôi khá giống như y văn đã mô
tả. Hơn nữa trong nghiên cứu của tác giả Quân
là kết quả sinh thiết lần đầu nên có thể đó chưa
phải là thể tổn thương cuối cùng vì chúng tôi
sinh thiết lần 2 cho một số bệnh nhân thấy có 3
bệnh nhân kết quả sinh thiết lần 1 có tổn thương
dạng MCD nhưng lần 2 chuyển dạng thành
FSGS, điều này khá tương đồng với nghiên cứu
của Zagury gặp 5/6 bệnh nhân có chuyển dạng
tổn thương trên giải phẫu bệnh từ MCD sang
FSGS sau 2 lần sinh thiết. Có nhiều giả thuyết
được đưa ra trong trường hợp này nhưng đa số
đều ủng hộ giả thuyết là ở những bệnh nhân
kháng thuốc thì tổn thương thận sẽ tiến triển
nặng dần theo thời gian, điều đó lý giải 50%
bệnh nhân mắc HCTHTP kháng thuốc steroid
sẽ triến triển thành bệnh thận giai đoạn cuối sau
10 năm.
4.2. Kết quả điều trị
Theo phác đồ bệnh viện Nhi Trung ương,
bệnh nhân HCTHTP kháng thuốc steroid được
điều trị đầu tiên với thuốc cyclosporin (Neoral)
định lượng nồng độ định kỳ để đảm bảo nồng
độ thuốc trong máu xung quanh ngưỡng 100
ng/ml, liều cellcept là 1200 mg/1.73m2 da.
Trong 54 bệnh nhân kháng thuốc có 74%
(40/54) được điều trị bằng steroid
(prednisolone) + cyclosprin (neoral); 9% (5/54)
steroid + mycofenolat mofetin (cellcept);
15,75% (9/54) điều trị phối hợp cả 3 thuốc
(prednisolon + Neoral + Cellcept). Theo dõi
protein niệu trong 6 tháng thấy: 55,6% bệnh
nhân đạt được protein niệu âm tính, 44,4%
không đạt được protein niệu âm tính. Kết quả
trong bảng 2 cho thấy bệnh nhân đáp ứng hoàn
toàn 46,3% (25/54), đáp ứng một phần 29,62
%(16/54), không đáp ứng 24,07% (13/54).
Trong bảng 3 đánh giá kết quả điều trị theo mô
bệnh học cho thấy gần 1/3 bệnh nhân thể xơ
hóa cục bộ từng phần không đáp ứng với điều
trị, trong khi đó 100% bệnh nhân tổn thương tối
thiểu đạt được thuyên giảm hoàn toàn, bệnh
nhân xơ lan tỏa không đáp ứng điều trị. Kết quả
điều trị chung trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn của Trần Hữu Minh Quân 89,6% đáp
ứng ( hoàn toàn 68,7%, một phần 20,9%), Roy
đáp ứng 65,63%, Zagury 65%. Điều này có thể
do trong nghiên cứu của Trần Hữu Minh Quân
thể mô bệnh học hầu hết là tổn thương tối thiểu
có tỷ lệ cao hơn nên kết quả điều trị có tỷ lệ đáp
ứng cao hơn. Trong các nghiên cứu trên thế giới
đều chỉ ra thể xơ hóa cầu thận có tỷ lệ đáp ứng
điều trị với thuốc thấp hơn, tiên lượng nặng nề
hơn, nhanh tiến triển thành bệnh suy thận và
bệnh thận giai đoạn cuối. Kết trong nghiên cứu
của chúng tôi ghi nhận thấy có 24,07% (13/54)
bệnh nhân không đáp ứng với điều trị đều là
suy thận mạn hoặc bệnh thận gia đoạn cuối.
Nghiên cứu của Roy cũng cho thấy tỷ lệ suy
thận là 12,5% [6]. Zagury theo dõi 87 bệnh
nhân sau 25 năm tỷ lệ bệnh thận giai đoạn cuối
là 58,6% [5], theo Niaudet 50% bệnh nhân mắc
HCTHTP kháng thuốc steroid có thể tiến triển
thành bệnh thận giai đoạn cuối sau 10 năm [1].
Đây là sự ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và sức
khỏe của bênh nhân mắc HCTHTP kháng thuốc
steroid. Có 61,1% (33/54) gặp các dụng không
mong muốn của thuốc, trong đó biểu hiện của
Cushing 69,7% xạm da và 30,3% rậm lông.
5. Kết luận
Qua nghiên cứu 54 bệnh nhân mắc
HCTHTP kháng thuốc steroid được theo dõi
dọc trong 6 tháng chúng tôi nhận thấy:
1. Đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của
bệnh nhân kháng thuốc steroid nặng nề: phù
mức độ nặng 74,07%, suy thận mạn 24,07%,
đái máu 18,54%, cao huyết áp 8,14%, mô bệnh
học 70,84% thể xơ hóa cục bộ từng phần.
2. Điều trị HCTHTP kháng thuốc steroid
khó khăn 24,07% bệnh nhân tiến tiển thành suy
thận mạn, 61,1% gặp các tác dụng không mong
muốn, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe bệnh nhân.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn đề tài
khoa học công nghệ cấp ĐHQGHN năm 2016,
P.V. Đếm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 41-46
46
mã số QG.16.23 đã hỗ trợ một phần kinh phí để
thực hiện nghiên cứu này.
Tài liệu tham khảo
[1] P. Niaudet, Steroid-resistant idiopathic
nephrotic syndrome in children,
www.uptodate.com, (2014) 1.
[2] R. M. Lombel, E. M. Hodson, D. S. Gipson,
Treatment of steroid-resistant nephrotic
syndrome in children: new guidelaines from
KDIGO, Pediatr Nephrol, (2012) 2304 (8), 1.
[3] Trần Hữu Minh Quân, Huỳnh Thoại Loan,
Nguyễn Ðức Quang, Đặc điểm hội chứng thận
hư kháng steroid tại bệnh viện Nhi Đồng I.
Hội nghị Nhi Khoa năm 2014 tại bệnh viện
Nhi đồng I", (2014) 2.
[4] Đoàn Thị Thắm, Nhận xét kết quả điều trị
hội chứng thận hư tiên phát kháng
corticosteroid tại khoa Thận - Tiết niệu
bệnh viện Nhi trung ương, Luận văn Thạc
sĩ Y học, Trường Đại Học Y Hà Nội, (2011).
[5] A. Zagury, A.L. de Oliveira, J.A. Montalvão,
R.H. NovaesI; V.Martins de SáI; C.A.P.
Moraes, M. Sousa Tavares, Steroid-resistant
idiopathic nephrotic syndrome in children:
long-term follow-up and risk factors for end-
stage renal disease, J. Bras. Nefrol, (2013) 35
(3) 191.
[6] R. R. Roy, S.M.S. Haque, A. A. Mamun, G.
Muinuddin, M. H. Rahman, Steroid resistant
nephrotic syndrome in children: Clinical
presentation, renal histology, complications,
treatment and outcome in Bangabandhu Sheikh
Mujib Medical University, Dhaka, Bangladesh.
IOSR Journal Of Pharmacy, (2014) 4 (11), 1.
Clinical, Preclinical Characteristics and Efficacy of Treatment
of Children Suffering from Steroid Resistant Primary Nephrotic
Syndrome at the Vietnam National Pediatrics Hospital
Pham Van Dem1, Nguyen Thu Huong2, Nguyen Thi Quynh Huong3,
Thai Thien Nam2, Dinh Doan Long1, Vu Van Nga1, Tran Huy Thinh3, Vu Thi Thom1
1VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam
2Faculty of Kidney diseases, National Hospital of Pediatrics,
18/879 La Thanh Str., Dong Da Dist., Hanoi, Vietnam
3Hanoi Medical University, 1 Ton That Tung Str., Dong Da Dist., Hanoi, Vietnam
Abstract: Primary nephrotic syndrome (SSNS) is the most common nephropathy found in
children and accounts for 10-20% of patients diganosed with steroid resistance. This study was aimed
at describing clinical and preclinical characteristics and evaluating treatment outcomes of children
diagnosed with steroid resistant primary nephrotic syndrome. 54 children showing typical steroid
resistant primary nephrotic syndrome and hospitalized at the Department of Nephrology-Dialysis (the
Vietnam National Paediatrics Hospital) from January 2015 to March 2015 were subjected for the
study. The data revealed that out of steroid resistant patients, 57.4% exhibited early resistance, while
42.6% others represented late resistance. The most common clinical symptoms were found to be
edema (100%), the followed by hematuria (14.8%) and hypertension (7.4%). Renal biopsy showed
70.8% of locally partial fibrosis, a mínimum of 25% of lesions and diffuse fibrosis of 4.2%. Treatment
efficacy was 46.3% of complete remission. The study indicated that steroid resistant nephrotic
syndrome in children is really one of very severely clinical syndromes. It is extremely difficult to be
treated with more than 50% of patients categorized to be only eased up in part or not eased up at all.
Keywords: Nephrotic syndrome, steroid resistance, histopathology.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1300_1_2538_1_10_20160711_731.pdf