Vi khuẩn niệu dương tính là một yếu tố chắc
chắn cho chẩn đoán VTBT và NKTN nói chung.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn này trên thực tế chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố liên quan như thời điểm
nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu, kỹ thuật lấy
mẫu bệnh phẩm, vấn đề thu thập và bảo quản
mẫu bệnh phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật của từng
labo, tiêu chuẩn lựa chọn BN trong nghiên cứu,
đặc biệt là tiền sử sử dụng kháng sinh trước đó.
Vì vậy tỷ lệ cấy nước tiểu dương tính có thể khác
nhau theo từng tác giả. Trong 103 BN có biểu hiện
VTBT cấp trên lâm sàng thì có 34 BN cấy nước
tiểu (+) chiếm tỷ lệ là 33%. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Phan
Thị Bích Hồng (2001) [8] nhưng cao hơn Lê Đăng
Hà (29,6%) [1].
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy 37/103 bệnh
nhân có biến chứng. Đây là hậu quả của viêm
thận bể thận cấp để quá muộn, không được điều
trị đúng và đủ, hoặc không loại bỏ được các yếu
tố thuận lợi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy biến chứng hay gặp nhất là suy thận cấp
(45,9%), ứ nước mủ thận có 14 trường hợp chiếm
37,9% trong đó 10/13 trường hợp có sỏi tiết niệu.
Những biến chứng này cũng đã được báo cáo
trước đó [4], [9]. Tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài
ảnh hưởng đến chức năng thận, góp phần thúc
đẩy tình trạng suy thận. Một trường hợp cấy nước
tiểu âm tính nhưng vẫn có nhiễm khuẩn huyết và
1 trường hợp vừa có NKTN vừa có nhiễm khuẩn
huyết nhưng vi khuẩn gây NKTN và vi khuẩn gây
nhiễm khuẩn huyết khác nhau, do vậy không thể
chứng minh được các bệnh nhân này bị nhiễm
khuẩn huyết do NKTN. Việc chẩn đoán VTBT cấp
có biến chứng nhiễm khuẩn huyết cần phải dựa
vào triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, đồng
thời xem xét chặt chẽ tiền sử và điều trị của tuyến
trước. Tiền sử sỏi lâu năm hoặc có nhiều đợt đau
mỏi hông lưng không điều trị; bệnh nhân không
được khám và điều trị kịp thời hoặc điều trị không
đúng và đủ là các yếu tố gây tình trạng VTBT
cấp nặng có biến chứng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số biến chứng của viêm thận bể thận cấp tại khoa thận tiết niệu bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX172
I. đẶT VẤN đỀ
Nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) là trạng thái
bệnh lý thường gặp trên lâm sàng, có thể xảy ra ở
mọi lứa tuổi. Bệnh phổ biến ở cả các nước đang
phát triển và các nước phát triển. Ở Mỹ năm 2005,
trong số bệnh nhân (BN) bị nhiễm khuẩn phải
nhập viện thì NKTN đứng hàng đầu (31%) [8].
Viêm thận bể thận (VTBT) là tình trạng NKTN
cao, thể hiện trên lâm sàng với nhiều hình thái
khác nhau. Tình trạng nhiễm khuẩn đó có thể là
cấp tính hay mạn tính, riêng lẻ hay phối hợp với
các bệnh lý khác và thường kèm theo các yếu tố
nguy cơ làm cho bệnh có biến chứng và hay tái
phát. Mặt khác do chỉ định quá rộng rãi các thủ
thuật như nội soi tiết niệu, đặt sonde bàng quang,
thủ thuật sản khoa hay việc sử dụng bừa bãi các
chế phẩm có corticoid cũng là những yếu tố nguy
cơ thường gặp, gây tình trạng nhiễm khuẩn dai
dẳng rất khó điều trị khỏi. Viêm thận bể thận cấp
(VTBTC) là một cấp cứu nội khoa, có nhiều biến
chứng và cần phải điều trị nội trú. Những trường
hợp VTBTC không được điều trị đúng thường bị
tái phát và có nguy cơ dẫn đến viêm thận bể thận
mạn và sau đó là suy thận mạn tính (STMT).
Đã có nhiều tác giả đề cập đến NKTN ở trẻ
em và người lớn, đặc biệt là phụ nữ có thai [5],
NKTN ở BN hồi sức có đặt ống thông bàng quang,
NKTN ở những BN bị đái tháo đường, tăng sản
lành tính tuyến tiền liệt, NKTN trong bệnh viện và
cả ngoài cộng đồng...[1], [3], [4]. Những vấn đề
liên quan đến NKTN vẫn luôn luôn được rất nhiều
tác giả trong và ngoài nước quan tâm đến. VTBT
chỉ là một hình thái trong số những biểu hiện rất
đa dạng và phong phú của NKTN trên lâm sàng.
Xuất phát từ thực tế trên, để góp phần vào công
việc chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh có hiệu
quả hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số biến
đẶC đIỂM LÂM sàNG, CẬN LÂM sàNG Và MỘT sỐ BIẾN CHỨNG
CỦA VIÊM THẬN BỂ THẬN CẤP TẠI KHOA THẬN TIẾT NIỆU
BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Đặng thị Việt Hà*, Đỗ gia tuyển*, nguyễn Văn thanh*, nguyễn thị an thủy*, mai thị Hiền**
*Trường Đại học Y Hà Nội, **Bệnh viện Bạch Mai
TÓM TẮT
Viêm thận bể thận cấp (VTBTC) là một cấp cứu nội khoa, cần phải điều trị triệt để và đề phòng
các biến chứng.
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân VTBTC và tìm hiểu các biến
chứng của chúng.
đối tượng: 103 BN được chẩn đoán VTBTC tại Khoa Thận tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai.
Phương pháp: mô tả cắt ngang.
Kết quả: Tỉ lệ nữ/nam: 3/1. Nhiễm khuẩn, sốt > 380 5 hay gặp nhất nhất 45,6%, sau đó là rét run
(34%). Tiểu buốt, rắt (46,6%), tiểu máu 10,7%. Vỗ hông lưng (+): 70,9%, thận to: 13,6%. Cấy nước
tiểu (+) : 33% . Creatinin > 130 µmol/l chiếm 18,4%. CRP > 0,5 mg/dl: 90,3%. Có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về số lượng BC niệu, HC niệu và protein niệu ở hai nhóm BN cấy nước tiểu (-) và (+)
với p < 0,05. Suy thận cấp: 45,9%, nhiễm khuẩn huyết: 16,2%, thận ứ nước, ứ mủ 37,9%.
Kết luận: Cần chẩn đoán sớm VTBTC và điều trị kịp thời, phòng tránh các biến chứng suy thận
cấp, nhiễm khuẩn huyết, ứ nước ứ mủ bể thận và các biến chứng khác có thể xảy ra.
Từ khóa: Viêm thận bể thận cấp, biến chứng.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 173
chứng của viêm thận bể thận cấp tại Khoa Thận
- Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai” nhằm mục tiêu:
1) Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
bệnh nhân viêm thận bể thận cấp đến điều trị tại
Bệnh viện Bạch Mai.
2) Tìm hiểu một số biến chứng của viêm thận
bể thận cấp ở các bệnh nhân này.
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu thực hiện trên 103 bệnh nhân
được chẩn đoán viêm thận bể thận cấp (VTBTC) điều
trị nội trú tại Khoa Thận tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai.
- Tuổi > =16.
- Một số tiêu chuẩn chẩn đoán sử dụng trong
nghiên cứu:
+ Chẩn đoán VTBTC: Có thể sốt, rét run, đau
hông lưng, đái buốt, đái rắt, đái đục. Kết quả xét nghiệm
nước tiểu: có BC niệu, có thể có vi khuẩn niệu.
+ Khám phát hiện thận to: Chạm thận (+), có
thể khám thấy dấu hiệu bập bềnh thận (+).
+ Khám phát hiện tuyến tiền liệt to: Thăm trực
tràng xác định kích thước, mật độ thường mềm, bề
mặt nhẵn, không có u cục bất thường, không đau.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành theo phương
pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.
- Các bệnh nhân được tiến hành hỏi bệnh,
thăm khám lâm sàng toàn diện, phát hiện VTBTC,
làm xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu,
nước tiểu, cấy nước tiểu, cấy máu khi có sốt ≥
38,50 C, siêu âm thận tiết niệu, Xquang hệ tiết
niệu, chụp cắt lớp hệ tiết niệu nếu cần.
- Xử lý số liệu: theo thuật toán thống kê trên
máy vi tính bằng phần mềm SPSS 16.0.
Đạo đức nghiên cứu:
- Tất cả các bệnh nhân trước khi tiến hành
nghiên cứu đều đã được hỏi ý kiến và nhất trí
được tham gia nghiên cứu.
- Các số liệu trong đề tài này là của riêng
chúng tôi, không hề được sử dụng cho mục đích
khác và chưa công bố trên bất kỳ một tạp chí nào.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. đặc điểm về tuổi và giới
Tuổi trung bình: 44,5 ± 17,6. Số bệnh nhân ở
nhóm từ 20 - 45 chiếm tỷ lệ cao nhất 52,43%. Nữ:
78 (75,7 %), nam: 25 (24,3%), nam/nữ = 1/3.
2. Các triệu chứng lâm sàng
Bảng 1. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân viêm thận bể thận cấp
Triệu chứng lâm sàng số bệnh nhân (n=103) Tỷ lệ (%)
Hội chứng nhiễm trùng
Không sốt 22 21,4
Sốt 37,5 - 38,5oC 34 33,0
Sốt > 38,5oC 47 45,6
Rét run 35 34,0
Hội chứng bàng quang
Đái buốt 48 46,6
Đái rắt 48 46,6
Đái máu 11 10,7
Đái đục 15 14,6
Đau hông lưng Một bên: 73 Hai bên: 8 Một bên: 70,86 Hai bên: 7,74
Cơn đau quặn thận Một bên: 15 Hai bên: 3 Một bên: 14,56 Hai bên: 2,91
Vỗ hông lưng (+) Một bên: 67 Hai bên: 6 Một bên: 65,04 Hai bên: 5,83
Thận to Một bên: 12 Ha i bên : 2 Một bên: 11,65 Hai bên: 1,95
Thăm trực tràng có TLT to 5 4,9
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX174
Nhận xét: Triệu chứng nhiễm khuẩn, sốt > 38,50C chiếm tỷ lệ cao nhất 45,6%, rét run chiếm tỷ lệ
34%. Trong số các triệu chứng của hội chứng bàng quang hay gặp nhất là tiểu buốt, chiếm 46,6% và như
vậy không phải tất cả các bệnh nhân VTBTC đều có sốt hoặc hội chứng bàng quang rõ rệt.
3. Các xét nghiệm cận lâm sàng
Bảng 2. Công thức máu và sinh hóa máu ở hai nhóm cấy nước tiểu (-) và (+)
Cấy NT ( - ) Cấy NT ( + ) Tổng P
N % N % N 100%
Ure (mmol/l)
≤ 8 56 54,4 22 21,3 78 75,7 < 0,05
> 8 13 12,6 12 11,7 25 24,3 > 0,05
Tổng 69 67, 0 34 33,0 103 100 < 0,05
± SD 5,89 ± 5,29 7,31 ± 5,58 6,36 ± 5,40 < 0,05
Creatinin
(µmol/l)
≤ 130 59 57,3 25 24,3 84 81,6 > 0,05
> 130 10 9,7 9 8,7 19 18,4 > 0,05
Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 > 0,05
± SD 103,03 ± 101,20 120,77 ± 72,86 108,88 ± 92,82 < 0,05
CRP (mg/dl)
0,05
≥ 0,5 62 60,2 31 30,1 93 90,3 < 0,05
Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 < 0,05
± SD 9,14 ± 7,46 9,17 ± 7,57 9,15 ± 7,46 > 0,05
Hồng cầu (T/l) 3,90 ± 0,57 4,02 ± 0,45 3,94 ± 0,53 > 0,05
Hemoglobin (g/l) 130,87 ± 134.13 150,18 ± 213,47 137,24 ± 163,76 > 0,05
Bạch cầu (G/l) 12,33 ± 4,90 12,98 ± 5,45 12,55 ± 5,07 > 0,05
Nhận xét: Số bệnh nhân cấy nước tiểu (+) chiếm 33%. Không có sự khác biệt về HC, Hb, BC ở hai
nhóm BN. Số bệnh nhân creatinin > 130 µmol/l chiếm 18,4%. 90,3% bệnh nhân có nồng độ CRP > 0,5
mg/dl. Có sự khác biệt thống kê về nồng độ creatinin và ure máu giữa nhóm cấy nước tiểu (-) và nhóm
(+) (p < 0,05).
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu
Xét nghiệm
Cấy NT (-) Cấy NT (+) Tổng
p
n % n % n %
BC
(tb/µl)
Âm tính 11 10,7 3 2,9 14 13,6
>0,05
< 100 8 7,8 2 1,9 10 9,7
100 - 250 16 15,5 3 2,9 19 18,4
≥ 500 34 33,0 26 25,3 60 58,3
Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100
X ± SD 286,59 ± 230,05 393,38 ± 196,59 321,84 ± 224,35 < 0,05
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 175
IV. BàN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ
tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 44,5 ±
17,6. Tuổi trung bình của nam giới cao hơn nữ giới
(50,9 ± 17,6 so với 42,5 ± 17,2). Tỷ lệ VTBT cấp
gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi 20-45 (52,4%). Các
nghiên cứu khác đều cho thấy tỉ lệ NKTN gia tăng
một cách đáng kể ở độ tuổi hoạt động tình dục và
sinh đẻ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Hưng,
viêm thận bể thận ở phụ nữ có thai hay gặp ở lứa
tuổi 20 - 35 [3].
Các nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước đều cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn tiết
niệu ở nữ giới cao hơn nam giới. Ở Việt Nam, theo
Nguyễn Văn Xang và cộng sự (1995) nghiên cứu
tại Khoa Thận - Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai thì tỷ
lệ bệnh nhân nữ NKTN cao gấp hai lần nam giới
[6]. Một nghiên cứu khác về NKTN ở bệnh nhân
sỏi tiết niệu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ bị sỏi tiết
niệu có nhiễm khuẩn tiết niệu cao gần gấp hai lần
nam giới (62% so với 38%). Tại Mỹ, theo Mahini
Stalam thì tỷ lệ NKTN giữa nam và nữ là 1/3 ở
những người trẻ tuổi [7]. Kết quả nghiên cứu của
Xét nghiệm
Cấy NT (-) Cấy NT (+) Tổng
p
n % n % n %
HC
(tb/µl)
Âm tính 19 18,5 4 3,9 23 22,4
>0,05
< 50 26 25,2 10 9,7 36 34,9
50 – 150 18 17,5 12 11,6 30 29,1
> 150 6 5,8 8 7,8 14 13,6
Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100
X ± SD 48,91 ± 68,15 86,76 ± 95,16 61,41 ± 79,66 <0,05
Protein
g/l
Âm tính 46 44,7 15 14,6 61 59,2
>0,05
< 1,0 16 15,5 14 13,6 30 29,1
≥ 1,0 7 6,8 5 4,8 12 11,7
Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100
X ± SD 0,21 ± 0,42 0,47 ± 0,88 0,30 ± 0,62 <0,05
Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng BC niệu, HC niệu và protein niệu ở hai
nhóm BN cấy nước tiểu (-) và (+) với p < 0,05.
4. Các biến chứng của VTBTC
Bảng 4. Các biến chứng của VTBTC
Cấy NT
Biến chứng
Cấy NT (-) Cấy NT (+) Tổng
N % N % n %
Suy thận cấp 9 24,3 8 21,6 17 45,9
Nhiễm khuẩn huyết 1 2,7 5 13,5 6 16,2
Thận ứ nước, ứ mủ 10 27,1 4 10,8 14 37,9
Tổng 20 54,05 17 45,95 37 100
Nhận xét: 37/103 bệnh nhân xuất hiện biến chứng, trong đó biến chứng hay gặp nhất là suy thận
cấp (45,9%).
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX176
chúng tôi số bệnh nhân nữ giới gặp nhiều hơn
nam giới, tỷ lệ nữ/nam là 3/1 cũng phù hợp với các
nghiên cứu trong và ngoài nước đã có.
Triệu chứng lâm sàng thường gặp là các triệu
chứng của hội chứng bàng quang. Trong đó đái
buốt (46,6%), đái rắt (46,6%) là những triệu chứng
hay gặp nhất, đái đục chiếm tỷ lệ 14,6% (bảng
1). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
sự biểu hiện các triệu chứng lâm sàng này ở hai
nhóm bệnh nhân cấy nước tiểu âm tính và dương
tính. Các kết quả này thấp hơn của tác giả Phan
Thị Bích Hồng với đái rắt gặp nhiều nhất chiếm
tỷ lệ 64%, đái đục chiếm 63,4% và đái buốt với
55,1% [8].
Triệu chứng đái máu trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có 10,7%. Kết quả của chúng tôi
cao hơn một số tác giả khác khi nghiên cứu
NKTN tại cộng đồng [1], [2]. Sự xuất hiện của
các triệu chứng phụ thuộc vào cơ địa của mỗi cá
thể BN, tiêu chuẩn chọn bệnh nhân, thời điểm
nghiên cứu. Tiền sử sử dụng kháng sinh cũng
làm giảm các triệu chứng dẫn đến sai khác kết
quả của nghiên cứu so với thực tế. Hội chứng
nhiễm khuẩn thường xuyên có trong nhiễm khuẩn
tiết niệu cao. Triệu chứng sốt chiếm tỷ lệ 78,6%,
trong đó tỷ lệ sốt > 38,5oC là 45,6%, rét run gặp
ở 34,0% BN (bảng 1). Kết quả của chúng tôi cũng
phù hợp với các nghiên cứu và y văn, khi có sốt
cao > 38,5oC phải chú ý đến những biến chứng
của NKTN cao có tổn thương đến nhu mô và đài
bể thận. Theo Johnson C. nếu có sốt > 38,5oC
kèm lạnh run và đau lưng thì 60% có viêm thận
bể thận cấp [6].
Các bệnh nhân VTBTC khi thăm khám có thể
phát hiện dấu hiệu thận to, vỗ hông lưng (+) và có
biểu hiện có tắc nghẽn đường tiết niệu như cơn
đau quặn thận, cầu bàng quang. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, dấu hiệu vỗ hông lưng (+) gặp
70,9%, triệu chứng thận to là 13,6%. Các trường
hợp có tắc nghẽn đường dẫn niệu phần lớn
nguyên nhân do sỏi tiết niệu. Kết quả của chúng
tôi thấy tỷ lệ BN có cơn đau quặn thận là 17,5%.
(bảng 2). Dấu hiệu chúng tôi gặp nhiều nhất cũng
giống như y văn, đó là biểu hiện tình trạng viêm
nhiễm, số lượng BC máu tăng >10 G/l chiếm tỷ
lệ 63,1% và CRP máu tăng > 0,5mg/dl là 90,3%
(bảng 2). Số lượng BC máu và nồng độ CRP
thường được sử dụng để đánh giá phản ứng viêm
nhưng hai chỉ số này chỉ có giá trị gợi ý mà không
có ý nghĩa quyết định với việc chẩn đoán VTBT
cấp. Tình trạng viêm nhiễm kéo dài kèm theo các
bệnh lý khác về đường tiết niệu, ảnh hưởng đến
chức năng thận, đưa đến biểu hiện của tình trạng
suy thận cấp hoặc mạn. Điều này thể hiện ở tỷ lệ
HC máu giảm < 4 T/l với tỷ lệ cao là 53,4%, tỷ lệ
BN có lượng Hb ở mức < 120 g/l là 59,2%, ure
máu tăng > 8 µmol/l chiếm 24,3%, creatinin máu
tăng >130 µmol/l chiếm 18,4% (bảng 2).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có sự khác biệt về số lượng BC niệu có ý nghĩa
thống kê ở hai nhóm bệnh nhân cấy nước tiểu
âm tính và dương tính (bảng 3). Trong 103 bệnh
phẩm cấy nước tiểu thì có 03 trường hợp cấy
nước tiểu dương tính mà kết quả BC niệu là âm
tính. Đây có thể là sai số trong quá trình lấy mẫu
bệnh phẩm. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
phân bố mức tăng HC niệu không có sự khác biệt
ở 2 nhóm BN cấy nước tiểu âm tính và dương
tính. Theo Nguyễn Văn Xang nghiên cứu NKTN ở
BN sỏi tiết niệu cũng cho thấy không có sự khác
biệt về mức độ HC niệu. HC niệu không là dấu
hiệu đặc trưng trong NKTN nói chung. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi không thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về xét nghiệm protein
niệu ở hai nhóm BN cấy nước tiểu dương tính và
âm tính (p > 0,05) nhưng sự khác biệt về giá trị
trung bình của protein niệu lại có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) (bảng 3).
Vi khuẩn niệu dương tính là một yếu tố chắc
chắn cho chẩn đoán VTBT và NKTN nói chung.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn này trên thực tế chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố liên quan như thời điểm
nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu, kỹ thuật lấy
mẫu bệnh phẩm, vấn đề thu thập và bảo quản
mẫu bệnh phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật của từng
labo, tiêu chuẩn lựa chọn BN trong nghiên cứu,
đặc biệt là tiền sử sử dụng kháng sinh trước đó.
Vì vậy tỷ lệ cấy nước tiểu dương tính có thể khác
nhau theo từng tác giả. Trong 103 BN có biểu hiện
VTBT cấp trên lâm sàng thì có 34 BN cấy nước
tiểu (+) chiếm tỷ lệ là 33%. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Phan
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 177
1. Lê Đăng Hà, Đặng Lan Anh, Phạm Văn Ca
và cộng sự (1996). Tình trạng nhiễm khuẩn tiết
niệu của bệnh nhân khám và điều trị tại Bệnh viện
Bạch Mai năm 1996, Chương trình giám sát quốc
gia về tính kháng thuốc của vi khuẩn thường gặp,
trang 163-167.
2. Phan Thị Bích Hồng (2001). Đặc điểm lâm
sàng và căn nguyên vi sinh ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn tiết niệu điều trị tại Khoa Thận- Tiết niệu
Bệnh viện Bạch Mai, Luận văn Thạc sĩ Y học
chuyên ngành Nội khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Nguyễn Vĩnh Hưng (2009). Nghiên cứu biểu
hiện lâm sàng và xét nghiệm viêm thận bể thận ở
phụ nữ mang thai, Tạp chí Y học thực hành (675),
số 9, 16-18.
4. Nguyễn Văn Xang, Đỗ Thị Liệu và cộng sự
(1996). Đánh giá kết quả điều trị nhiễm khuẩn tiết
niệu bang Ceftazidime (Fortum), Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học Bệnh viện Bạch Mai 1995-
1996, 337- 342.
5. Chen SS, Chen KK, Lin T.L (1998).
Complicated Urinary tract infection analysis of
179 patients, Chin mad J (Taipei), Infectieuses 37,
594-598.
6. Johnson C.(1991). Definitions Classification
and clinical presentation of urinary tract infections,
The medical clinics of North America, 242-255.
7. Mahini Stalam, Donald Kaye (2004).
Antibiotic agebt in the elderly, Infectious Disease
Clinic of North America, 533-549.
8. Mouy DD, Fabre R., Cavallo J-D (2007).
Community – acquierd urinary tract infection in 15-
65 years old female patients in France Suscepbility
of E.coli according to history, Medicine et maladies
infectieuses 37, 594-598.
9. Puri P, Cascios, Lakshmandass G, Colhoun
E (1998). Urinary tract infection and renal damage
in sibling vecicoureteral reflux, J-Urol, 1028-1030.
10. Toye B and Ronal A.R (1992). Approach
to infections of the genitourinary tract, including
perinephric abcess and prostatitis, Text book of
internal medicine 2, 1595-1600.
Thị Bích Hồng (2001) [8] nhưng cao hơn Lê Đăng
Hà (29,6%) [1].
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy 37/103 bệnh
nhân có biến chứng. Đây là hậu quả của viêm
thận bể thận cấp để quá muộn, không được điều
trị đúng và đủ, hoặc không loại bỏ được các yếu
tố thuận lợi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy biến chứng hay gặp nhất là suy thận cấp
(45,9%), ứ nước mủ thận có 14 trường hợp chiếm
37,9% trong đó 10/13 trường hợp có sỏi tiết niệu.
Những biến chứng này cũng đã được báo cáo
trước đó [4], [9]. Tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài
ảnh hưởng đến chức năng thận, góp phần thúc
đẩy tình trạng suy thận. Một trường hợp cấy nước
tiểu âm tính nhưng vẫn có nhiễm khuẩn huyết và
1 trường hợp vừa có NKTN vừa có nhiễm khuẩn
huyết nhưng vi khuẩn gây NKTN và vi khuẩn gây
nhiễm khuẩn huyết khác nhau, do vậy không thể
chứng minh được các bệnh nhân này bị nhiễm
khuẩn huyết do NKTN. Việc chẩn đoán VTBT cấp
có biến chứng nhiễm khuẩn huyết cần phải dựa
vào triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, đồng
thời xem xét chặt chẽ tiền sử và điều trị của tuyến
trước. Tiền sử sỏi lâu năm hoặc có nhiều đợt đau
mỏi hông lưng không điều trị; bệnh nhân không
được khám và điều trị kịp thời hoặc điều trị không
đúng và đủ là các yếu tố gây tình trạng VTBT
cấp nặng có biến chứng.
V. KẾT LUẬN
- Viêm thận bể thận cấp gặp ở nữ giới nhiều
gấp 3 lần so với nam giới. Không phải tất cả các
bệnh nhân đều có dấu hiệu sốt hoặc hội chứng
bàng quang rõ rệt. Vỗ hông lưng (+): 70,9%, thận
to: 13,6%. Cấy nước tiểu (+): 33%. Creatinin >
130 µmol/l: 18,4%. CRP > 0,5 mg/dl: 90,3%. Có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng BC
niệu, HC niệu và protein niệu ở hai nhóm BN cấy
nước tiểu (-) và (+) với p < 0,05.
- Biến chứng hay gặp nhất của VTBTC là
suy thận cấp: 45,9% sau đó là thận ứ nước, ứ mủ
37,9% và nhiễm khuẩn huyết: 16,2%.
TàI LIỆU THAM KHẢO
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX178
ABsTRACT
CLINICAL FeATURes, LABORATORY FINDINGs AND COMPLICATION OF ACUTe PYeLONePHRITIs
Background: Acute pyelonephritis is a potentially organ – and/or life threatening infection that
often lead to complications and renal scare.
Methods: Reviews clinical characteristics, subclinical and complication of acute pyelonephritis
patients were observed in Nepro-urology department of Bach Mai Hospital.
Results: A total of 103 acute pyelonephritis enrollees were analysed, with female/male: 3/1.
Manifestration and complications: fever > 3805 C was most common (45.6%), followed by chills
(34%). Brulure mictionnel: 46.6%, hematuria 10.7%. Flappe lombaire (+): 70.9%, the kidney swelling:
13.6%. Urine culture (+): 33%. Creatinine > 130 μmol / l: 18.4%. Serum CRP > 0.5 mg / dL: 90.3%.
There were differences with statistical significance in the number leucocytes urine, urinary red blood
cells and proteinuria in two groups of patients with urine culture (-) and (+) (p < 0.05). Acute renal
failure: 45.9%, hydronephrosis and kidney pus: 37.9%, sepsis: 16.2%.
Conclusion: Acute pyelonephritis is a severe disease, it should be early diagnosed and treated
promptly in order to minimize its complications .
Keywords: pyelonephritis, complications.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_mot_so_bien_chung_cua_viem.pdf