Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số biến chứng của viêm thận bể thận cấp tại khoa thận tiết niệu bệnh viện Bạch Mai

Vi khuẩn niệu dương tính là một yếu tố chắc chắn cho chẩn đoán VTBT và NKTN nói chung. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này trên thực tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố liên quan như thời điểm nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu, kỹ thuật lấy mẫu bệnh phẩm, vấn đề thu thập và bảo quản mẫu bệnh phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật của từng labo, tiêu chuẩn lựa chọn BN trong nghiên cứu, đặc biệt là tiền sử sử dụng kháng sinh trước đó. Vì vậy tỷ lệ cấy nước tiểu dương tính có thể khác nhau theo từng tác giả. Trong 103 BN có biểu hiện VTBT cấp trên lâm sàng thì có 34 BN cấy nước tiểu (+) chiếm tỷ lệ là 33%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Phan Thị Bích Hồng (2001) [8] nhưng cao hơn Lê Đăng Hà (29,6%) [1]. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy 37/103 bệnh nhân có biến chứng. Đây là hậu quả của viêm thận bể thận cấp để quá muộn, không được điều trị đúng và đủ, hoặc không loại bỏ được các yếu tố thuận lợi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến chứng hay gặp nhất là suy thận cấp (45,9%), ứ nước mủ thận có 14 trường hợp chiếm 37,9% trong đó 10/13 trường hợp có sỏi tiết niệu. Những biến chứng này cũng đã được báo cáo trước đó [4], [9]. Tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài ảnh hưởng đến chức năng thận, góp phần thúc đẩy tình trạng suy thận. Một trường hợp cấy nước tiểu âm tính nhưng vẫn có nhiễm khuẩn huyết và 1 trường hợp vừa có NKTN vừa có nhiễm khuẩn huyết nhưng vi khuẩn gây NKTN và vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết khác nhau, do vậy không thể chứng minh được các bệnh nhân này bị nhiễm khuẩn huyết do NKTN. Việc chẩn đoán VTBT cấp có biến chứng nhiễm khuẩn huyết cần phải dựa vào triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, đồng thời xem xét chặt chẽ tiền sử và điều trị của tuyến trước. Tiền sử sỏi lâu năm hoặc có nhiều đợt đau mỏi hông lưng không điều trị; bệnh nhân không được khám và điều trị kịp thời hoặc điều trị không đúng và đủ là các yếu tố gây tình trạng VTBT cấp nặng có biến chứng.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số biến chứng của viêm thận bể thận cấp tại khoa thận tiết niệu bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX172 I. đẶT VẤN đỀ Nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) là trạng thái bệnh lý thường gặp trên lâm sàng, có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Bệnh phổ biến ở cả các nước đang phát triển và các nước phát triển. Ở Mỹ năm 2005, trong số bệnh nhân (BN) bị nhiễm khuẩn phải nhập viện thì NKTN đứng hàng đầu (31%) [8]. Viêm thận bể thận (VTBT) là tình trạng NKTN cao, thể hiện trên lâm sàng với nhiều hình thái khác nhau. Tình trạng nhiễm khuẩn đó có thể là cấp tính hay mạn tính, riêng lẻ hay phối hợp với các bệnh lý khác và thường kèm theo các yếu tố nguy cơ làm cho bệnh có biến chứng và hay tái phát. Mặt khác do chỉ định quá rộng rãi các thủ thuật như nội soi tiết niệu, đặt sonde bàng quang, thủ thuật sản khoa hay việc sử dụng bừa bãi các chế phẩm có corticoid cũng là những yếu tố nguy cơ thường gặp, gây tình trạng nhiễm khuẩn dai dẳng rất khó điều trị khỏi. Viêm thận bể thận cấp (VTBTC) là một cấp cứu nội khoa, có nhiều biến chứng và cần phải điều trị nội trú. Những trường hợp VTBTC không được điều trị đúng thường bị tái phát và có nguy cơ dẫn đến viêm thận bể thận mạn và sau đó là suy thận mạn tính (STMT). Đã có nhiều tác giả đề cập đến NKTN ở trẻ em và người lớn, đặc biệt là phụ nữ có thai [5], NKTN ở BN hồi sức có đặt ống thông bàng quang, NKTN ở những BN bị đái tháo đường, tăng sản lành tính tuyến tiền liệt, NKTN trong bệnh viện và cả ngoài cộng đồng...[1], [3], [4]. Những vấn đề liên quan đến NKTN vẫn luôn luôn được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm đến. VTBT chỉ là một hình thái trong số những biểu hiện rất đa dạng và phong phú của NKTN trên lâm sàng. Xuất phát từ thực tế trên, để góp phần vào công việc chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh có hiệu quả hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số biến đẶC đIỂM LÂM sàNG, CẬN LÂM sàNG Và MỘT sỐ BIẾN CHỨNG CỦA VIÊM THẬN BỂ THẬN CẤP TẠI KHOA THẬN TIẾT NIỆU BỆNH VIỆN BẠCH MAI Đặng thị Việt Hà*, Đỗ gia tuyển*, nguyễn Văn thanh*, nguyễn thị an thủy*, mai thị Hiền** *Trường Đại học Y Hà Nội, **Bệnh viện Bạch Mai TÓM TẮT Viêm thận bể thận cấp (VTBTC) là một cấp cứu nội khoa, cần phải điều trị triệt để và đề phòng các biến chứng. Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân VTBTC và tìm hiểu các biến chứng của chúng. đối tượng: 103 BN được chẩn đoán VTBTC tại Khoa Thận tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp: mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỉ lệ nữ/nam: 3/1. Nhiễm khuẩn, sốt > 380 5 hay gặp nhất nhất 45,6%, sau đó là rét run (34%). Tiểu buốt, rắt (46,6%), tiểu máu 10,7%. Vỗ hông lưng (+): 70,9%, thận to: 13,6%. Cấy nước tiểu (+) : 33% . Creatinin > 130 µmol/l chiếm 18,4%. CRP > 0,5 mg/dl: 90,3%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng BC niệu, HC niệu và protein niệu ở hai nhóm BN cấy nước tiểu (-) và (+) với p < 0,05. Suy thận cấp: 45,9%, nhiễm khuẩn huyết: 16,2%, thận ứ nước, ứ mủ 37,9%. Kết luận: Cần chẩn đoán sớm VTBTC và điều trị kịp thời, phòng tránh các biến chứng suy thận cấp, nhiễm khuẩn huyết, ứ nước ứ mủ bể thận và các biến chứng khác có thể xảy ra. Từ khóa: Viêm thận bể thận cấp, biến chứng. nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 173 chứng của viêm thận bể thận cấp tại Khoa Thận - Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai” nhằm mục tiêu: 1) Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân viêm thận bể thận cấp đến điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai. 2) Tìm hiểu một số biến chứng của viêm thận bể thận cấp ở các bệnh nhân này. II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu thực hiện trên 103 bệnh nhân được chẩn đoán viêm thận bể thận cấp (VTBTC) điều trị nội trú tại Khoa Thận tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai. - Tuổi > =16. - Một số tiêu chuẩn chẩn đoán sử dụng trong nghiên cứu: + Chẩn đoán VTBTC: Có thể sốt, rét run, đau hông lưng, đái buốt, đái rắt, đái đục. Kết quả xét nghiệm nước tiểu: có BC niệu, có thể có vi khuẩn niệu. + Khám phát hiện thận to: Chạm thận (+), có thể khám thấy dấu hiệu bập bềnh thận (+). + Khám phát hiện tuyến tiền liệt to: Thăm trực tràng xác định kích thước, mật độ thường mềm, bề mặt nhẵn, không có u cục bất thường, không đau. 2. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. - Các bệnh nhân được tiến hành hỏi bệnh, thăm khám lâm sàng toàn diện, phát hiện VTBTC, làm xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu, nước tiểu, cấy nước tiểu, cấy máu khi có sốt ≥ 38,50 C, siêu âm thận tiết niệu, Xquang hệ tiết niệu, chụp cắt lớp hệ tiết niệu nếu cần. - Xử lý số liệu: theo thuật toán thống kê trên máy vi tính bằng phần mềm SPSS 16.0. Đạo đức nghiên cứu: - Tất cả các bệnh nhân trước khi tiến hành nghiên cứu đều đã được hỏi ý kiến và nhất trí được tham gia nghiên cứu. - Các số liệu trong đề tài này là của riêng chúng tôi, không hề được sử dụng cho mục đích khác và chưa công bố trên bất kỳ một tạp chí nào. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. đặc điểm về tuổi và giới Tuổi trung bình: 44,5 ± 17,6. Số bệnh nhân ở nhóm từ 20 - 45 chiếm tỷ lệ cao nhất 52,43%. Nữ: 78 (75,7 %), nam: 25 (24,3%), nam/nữ = 1/3. 2. Các triệu chứng lâm sàng Bảng 1. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân viêm thận bể thận cấp Triệu chứng lâm sàng số bệnh nhân (n=103) Tỷ lệ (%) Hội chứng nhiễm trùng Không sốt 22 21,4 Sốt 37,5 - 38,5oC 34 33,0 Sốt > 38,5oC 47 45,6 Rét run 35 34,0 Hội chứng bàng quang Đái buốt 48 46,6 Đái rắt 48 46,6 Đái máu 11 10,7 Đái đục 15 14,6 Đau hông lưng Một bên: 73 Hai bên: 8 Một bên: 70,86 Hai bên: 7,74 Cơn đau quặn thận Một bên: 15 Hai bên: 3 Một bên: 14,56 Hai bên: 2,91 Vỗ hông lưng (+) Một bên: 67 Hai bên: 6 Một bên: 65,04 Hai bên: 5,83 Thận to Một bên: 12 Ha i bên : 2 Một bên: 11,65 Hai bên: 1,95 Thăm trực tràng có TLT to 5 4,9 nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX174 Nhận xét: Triệu chứng nhiễm khuẩn, sốt > 38,50C chiếm tỷ lệ cao nhất 45,6%, rét run chiếm tỷ lệ 34%. Trong số các triệu chứng của hội chứng bàng quang hay gặp nhất là tiểu buốt, chiếm 46,6% và như vậy không phải tất cả các bệnh nhân VTBTC đều có sốt hoặc hội chứng bàng quang rõ rệt. 3. Các xét nghiệm cận lâm sàng Bảng 2. Công thức máu và sinh hóa máu ở hai nhóm cấy nước tiểu (-) và (+) Cấy NT ( - ) Cấy NT ( + ) Tổng P N % N % N 100% Ure (mmol/l) ≤ 8 56 54,4 22 21,3 78 75,7 < 0,05 > 8 13 12,6 12 11,7 25 24,3 > 0,05 Tổng 69 67, 0 34 33,0 103 100 < 0,05 ± SD 5,89 ± 5,29 7,31 ± 5,58 6,36 ± 5,40 < 0,05 Creatinin (µmol/l) ≤ 130 59 57,3 25 24,3 84 81,6 > 0,05 > 130 10 9,7 9 8,7 19 18,4 > 0,05 Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 > 0,05 ± SD 103,03 ± 101,20 120,77 ± 72,86 108,88 ± 92,82 < 0,05 CRP (mg/dl) 0,05 ≥ 0,5 62 60,2 31 30,1 93 90,3 < 0,05 Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 < 0,05 ± SD 9,14 ± 7,46 9,17 ± 7,57 9,15 ± 7,46 > 0,05 Hồng cầu (T/l) 3,90 ± 0,57 4,02 ± 0,45 3,94 ± 0,53 > 0,05 Hemoglobin (g/l) 130,87 ± 134.13 150,18 ± 213,47 137,24 ± 163,76 > 0,05 Bạch cầu (G/l) 12,33 ± 4,90 12,98 ± 5,45 12,55 ± 5,07 > 0,05 Nhận xét: Số bệnh nhân cấy nước tiểu (+) chiếm 33%. Không có sự khác biệt về HC, Hb, BC ở hai nhóm BN. Số bệnh nhân creatinin > 130 µmol/l chiếm 18,4%. 90,3% bệnh nhân có nồng độ CRP > 0,5 mg/dl. Có sự khác biệt thống kê về nồng độ creatinin và ure máu giữa nhóm cấy nước tiểu (-) và nhóm (+) (p < 0,05). Bảng 3. Kết quả xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu Xét nghiệm Cấy NT (-) Cấy NT (+) Tổng p n % n % n % BC (tb/µl) Âm tính 11 10,7 3 2,9 14 13,6 >0,05 < 100 8 7,8 2 1,9 10 9,7 100 - 250 16 15,5 3 2,9 19 18,4 ≥ 500 34 33,0 26 25,3 60 58,3 Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 X ± SD 286,59 ± 230,05 393,38 ± 196,59 321,84 ± 224,35 < 0,05 nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 175 IV. BàN LUẬN Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 44,5 ± 17,6. Tuổi trung bình của nam giới cao hơn nữ giới (50,9 ± 17,6 so với 42,5 ± 17,2). Tỷ lệ VTBT cấp gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi 20-45 (52,4%). Các nghiên cứu khác đều cho thấy tỉ lệ NKTN gia tăng một cách đáng kể ở độ tuổi hoạt động tình dục và sinh đẻ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Hưng, viêm thận bể thận ở phụ nữ có thai hay gặp ở lứa tuổi 20 - 35 [3]. Các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn tiết niệu ở nữ giới cao hơn nam giới. Ở Việt Nam, theo Nguyễn Văn Xang và cộng sự (1995) nghiên cứu tại Khoa Thận - Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai thì tỷ lệ bệnh nhân nữ NKTN cao gấp hai lần nam giới [6]. Một nghiên cứu khác về NKTN ở bệnh nhân sỏi tiết niệu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ bị sỏi tiết niệu có nhiễm khuẩn tiết niệu cao gần gấp hai lần nam giới (62% so với 38%). Tại Mỹ, theo Mahini Stalam thì tỷ lệ NKTN giữa nam và nữ là 1/3 ở những người trẻ tuổi [7]. Kết quả nghiên cứu của Xét nghiệm Cấy NT (-) Cấy NT (+) Tổng p n % n % n % HC (tb/µl) Âm tính 19 18,5 4 3,9 23 22,4 >0,05 < 50 26 25,2 10 9,7 36 34,9 50 – 150 18 17,5 12 11,6 30 29,1 > 150 6 5,8 8 7,8 14 13,6 Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 X ± SD 48,91 ± 68,15 86,76 ± 95,16 61,41 ± 79,66 <0,05 Protein g/l Âm tính 46 44,7 15 14,6 61 59,2 >0,05 < 1,0 16 15,5 14 13,6 30 29,1 ≥ 1,0 7 6,8 5 4,8 12 11,7 Tổng 69 67,0 34 33,0 103 100 X ± SD 0,21 ± 0,42 0,47 ± 0,88 0,30 ± 0,62 <0,05 Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng BC niệu, HC niệu và protein niệu ở hai nhóm BN cấy nước tiểu (-) và (+) với p < 0,05. 4. Các biến chứng của VTBTC Bảng 4. Các biến chứng của VTBTC Cấy NT Biến chứng Cấy NT (-) Cấy NT (+) Tổng N % N % n % Suy thận cấp 9 24,3 8 21,6 17 45,9 Nhiễm khuẩn huyết 1 2,7 5 13,5 6 16,2 Thận ứ nước, ứ mủ 10 27,1 4 10,8 14 37,9 Tổng 20 54,05 17 45,95 37 100 Nhận xét: 37/103 bệnh nhân xuất hiện biến chứng, trong đó biến chứng hay gặp nhất là suy thận cấp (45,9%). nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX176 chúng tôi số bệnh nhân nữ giới gặp nhiều hơn nam giới, tỷ lệ nữ/nam là 3/1 cũng phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước đã có. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là các triệu chứng của hội chứng bàng quang. Trong đó đái buốt (46,6%), đái rắt (46,6%) là những triệu chứng hay gặp nhất, đái đục chiếm tỷ lệ 14,6% (bảng 1). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự biểu hiện các triệu chứng lâm sàng này ở hai nhóm bệnh nhân cấy nước tiểu âm tính và dương tính. Các kết quả này thấp hơn của tác giả Phan Thị Bích Hồng với đái rắt gặp nhiều nhất chiếm tỷ lệ 64%, đái đục chiếm 63,4% và đái buốt với 55,1% [8]. Triệu chứng đái máu trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 10,7%. Kết quả của chúng tôi cao hơn một số tác giả khác khi nghiên cứu NKTN tại cộng đồng [1], [2]. Sự xuất hiện của các triệu chứng phụ thuộc vào cơ địa của mỗi cá thể BN, tiêu chuẩn chọn bệnh nhân, thời điểm nghiên cứu. Tiền sử sử dụng kháng sinh cũng làm giảm các triệu chứng dẫn đến sai khác kết quả của nghiên cứu so với thực tế. Hội chứng nhiễm khuẩn thường xuyên có trong nhiễm khuẩn tiết niệu cao. Triệu chứng sốt chiếm tỷ lệ 78,6%, trong đó tỷ lệ sốt > 38,5oC là 45,6%, rét run gặp ở 34,0% BN (bảng 1). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu và y văn, khi có sốt cao > 38,5oC phải chú ý đến những biến chứng của NKTN cao có tổn thương đến nhu mô và đài bể thận. Theo Johnson C. nếu có sốt > 38,5oC kèm lạnh run và đau lưng thì 60% có viêm thận bể thận cấp [6]. Các bệnh nhân VTBTC khi thăm khám có thể phát hiện dấu hiệu thận to, vỗ hông lưng (+) và có biểu hiện có tắc nghẽn đường tiết niệu như cơn đau quặn thận, cầu bàng quang. Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu vỗ hông lưng (+) gặp 70,9%, triệu chứng thận to là 13,6%. Các trường hợp có tắc nghẽn đường dẫn niệu phần lớn nguyên nhân do sỏi tiết niệu. Kết quả của chúng tôi thấy tỷ lệ BN có cơn đau quặn thận là 17,5%. (bảng 2). Dấu hiệu chúng tôi gặp nhiều nhất cũng giống như y văn, đó là biểu hiện tình trạng viêm nhiễm, số lượng BC máu tăng >10 G/l chiếm tỷ lệ 63,1% và CRP máu tăng > 0,5mg/dl là 90,3% (bảng 2). Số lượng BC máu và nồng độ CRP thường được sử dụng để đánh giá phản ứng viêm nhưng hai chỉ số này chỉ có giá trị gợi ý mà không có ý nghĩa quyết định với việc chẩn đoán VTBT cấp. Tình trạng viêm nhiễm kéo dài kèm theo các bệnh lý khác về đường tiết niệu, ảnh hưởng đến chức năng thận, đưa đến biểu hiện của tình trạng suy thận cấp hoặc mạn. Điều này thể hiện ở tỷ lệ HC máu giảm < 4 T/l với tỷ lệ cao là 53,4%, tỷ lệ BN có lượng Hb ở mức < 120 g/l là 59,2%, ure máu tăng > 8 µmol/l chiếm 24,3%, creatinin máu tăng >130 µmol/l chiếm 18,4% (bảng 2). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự khác biệt về số lượng BC niệu có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm bệnh nhân cấy nước tiểu âm tính và dương tính (bảng 3). Trong 103 bệnh phẩm cấy nước tiểu thì có 03 trường hợp cấy nước tiểu dương tính mà kết quả BC niệu là âm tính. Đây có thể là sai số trong quá trình lấy mẫu bệnh phẩm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, phân bố mức tăng HC niệu không có sự khác biệt ở 2 nhóm BN cấy nước tiểu âm tính và dương tính. Theo Nguyễn Văn Xang nghiên cứu NKTN ở BN sỏi tiết niệu cũng cho thấy không có sự khác biệt về mức độ HC niệu. HC niệu không là dấu hiệu đặc trưng trong NKTN nói chung. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về xét nghiệm protein niệu ở hai nhóm BN cấy nước tiểu dương tính và âm tính (p > 0,05) nhưng sự khác biệt về giá trị trung bình của protein niệu lại có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) (bảng 3). Vi khuẩn niệu dương tính là một yếu tố chắc chắn cho chẩn đoán VTBT và NKTN nói chung. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này trên thực tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố liên quan như thời điểm nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu, kỹ thuật lấy mẫu bệnh phẩm, vấn đề thu thập và bảo quản mẫu bệnh phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật của từng labo, tiêu chuẩn lựa chọn BN trong nghiên cứu, đặc biệt là tiền sử sử dụng kháng sinh trước đó. Vì vậy tỷ lệ cấy nước tiểu dương tính có thể khác nhau theo từng tác giả. Trong 103 BN có biểu hiện VTBT cấp trên lâm sàng thì có 34 BN cấy nước tiểu (+) chiếm tỷ lệ là 33%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Phan nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 177 1. Lê Đăng Hà, Đặng Lan Anh, Phạm Văn Ca và cộng sự (1996). Tình trạng nhiễm khuẩn tiết niệu của bệnh nhân khám và điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai năm 1996, Chương trình giám sát quốc gia về tính kháng thuốc của vi khuẩn thường gặp, trang 163-167. 2. Phan Thị Bích Hồng (2001). Đặc điểm lâm sàng và căn nguyên vi sinh ở bệnh nhân nhiễm khuẩn tiết niệu điều trị tại Khoa Thận- Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai, Luận văn Thạc sĩ Y học chuyên ngành Nội khoa, Trường Đại học Y Hà Nội. 3. Nguyễn Vĩnh Hưng (2009). Nghiên cứu biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm viêm thận bể thận ở phụ nữ mang thai, Tạp chí Y học thực hành (675), số 9, 16-18. 4. Nguyễn Văn Xang, Đỗ Thị Liệu và cộng sự (1996). Đánh giá kết quả điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu bang Ceftazidime (Fortum), Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học Bệnh viện Bạch Mai 1995- 1996, 337- 342. 5. Chen SS, Chen KK, Lin T.L (1998). Complicated Urinary tract infection analysis of 179 patients, Chin mad J (Taipei), Infectieuses 37, 594-598. 6. Johnson C.(1991). Definitions Classification and clinical presentation of urinary tract infections, The medical clinics of North America, 242-255. 7. Mahini Stalam, Donald Kaye (2004). Antibiotic agebt in the elderly, Infectious Disease Clinic of North America, 533-549. 8. Mouy DD, Fabre R., Cavallo J-D (2007). Community – acquierd urinary tract infection in 15- 65 years old female patients in France Suscepbility of E.coli according to history, Medicine et maladies infectieuses 37, 594-598. 9. Puri P, Cascios, Lakshmandass G, Colhoun E (1998). Urinary tract infection and renal damage in sibling vecicoureteral reflux, J-Urol, 1028-1030. 10. Toye B and Ronal A.R (1992). Approach to infections of the genitourinary tract, including perinephric abcess and prostatitis, Text book of internal medicine 2, 1595-1600. Thị Bích Hồng (2001) [8] nhưng cao hơn Lê Đăng Hà (29,6%) [1]. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy 37/103 bệnh nhân có biến chứng. Đây là hậu quả của viêm thận bể thận cấp để quá muộn, không được điều trị đúng và đủ, hoặc không loại bỏ được các yếu tố thuận lợi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến chứng hay gặp nhất là suy thận cấp (45,9%), ứ nước mủ thận có 14 trường hợp chiếm 37,9% trong đó 10/13 trường hợp có sỏi tiết niệu. Những biến chứng này cũng đã được báo cáo trước đó [4], [9]. Tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài ảnh hưởng đến chức năng thận, góp phần thúc đẩy tình trạng suy thận. Một trường hợp cấy nước tiểu âm tính nhưng vẫn có nhiễm khuẩn huyết và 1 trường hợp vừa có NKTN vừa có nhiễm khuẩn huyết nhưng vi khuẩn gây NKTN và vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết khác nhau, do vậy không thể chứng minh được các bệnh nhân này bị nhiễm khuẩn huyết do NKTN. Việc chẩn đoán VTBT cấp có biến chứng nhiễm khuẩn huyết cần phải dựa vào triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, đồng thời xem xét chặt chẽ tiền sử và điều trị của tuyến trước. Tiền sử sỏi lâu năm hoặc có nhiều đợt đau mỏi hông lưng không điều trị; bệnh nhân không được khám và điều trị kịp thời hoặc điều trị không đúng và đủ là các yếu tố gây tình trạng VTBT cấp nặng có biến chứng. V. KẾT LUẬN - Viêm thận bể thận cấp gặp ở nữ giới nhiều gấp 3 lần so với nam giới. Không phải tất cả các bệnh nhân đều có dấu hiệu sốt hoặc hội chứng bàng quang rõ rệt. Vỗ hông lưng (+): 70,9%, thận to: 13,6%. Cấy nước tiểu (+): 33%. Creatinin > 130 µmol/l: 18,4%. CRP > 0,5 mg/dl: 90,3%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng BC niệu, HC niệu và protein niệu ở hai nhóm BN cấy nước tiểu (-) và (+) với p < 0,05. - Biến chứng hay gặp nhất của VTBTC là suy thận cấp: 45,9% sau đó là thận ứ nước, ứ mủ 37,9% và nhiễm khuẩn huyết: 16,2%. TàI LIỆU THAM KHẢO nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX178 ABsTRACT CLINICAL FeATURes, LABORATORY FINDINGs AND COMPLICATION OF ACUTe PYeLONePHRITIs Background: Acute pyelonephritis is a potentially organ – and/or life threatening infection that often lead to complications and renal scare. Methods: Reviews clinical characteristics, subclinical and complication of acute pyelonephritis patients were observed in Nepro-urology department of Bach Mai Hospital. Results: A total of 103 acute pyelonephritis enrollees were analysed, with female/male: 3/1. Manifestration and complications: fever > 3805 C was most common (45.6%), followed by chills (34%). Brulure mictionnel: 46.6%, hematuria 10.7%. Flappe lombaire (+): 70.9%, the kidney swelling: 13.6%. Urine culture (+): 33%. Creatinine > 130 μmol / l: 18.4%. Serum CRP > 0.5 mg / dL: 90.3%. There were differences with statistical significance in the number leucocytes urine, urinary red blood cells and proteinuria in two groups of patients with urine culture (-) and (+) (p < 0.05). Acute renal failure: 45.9%, hydronephrosis and kidney pus: 37.9%, sepsis: 16.2%. Conclusion: Acute pyelonephritis is a severe disease, it should be early diagnosed and treated promptly in order to minimize its complications . Keywords: pyelonephritis, complications.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_mot_so_bien_chung_cua_viem.pdf
Tài liệu liên quan