Về sự liên quan giữa u cơ tuyến và sỏi túi
mật, Jutras ghi nhận 254/326 (78%) bệnh nhân u
cơ tuyến có sỏi túi mật đi kèm, theo Meguid là
72% và theo Aguirre là 36%(1,8,11). Trong nghiên
cứu của chúng tôi có 61,19% u cơ tuyến kèm sỏi
túi mật, trong đó có 2 trường hợp (2,99%) có sỏi
ống mật chủ. Một vài tác giả như Yang và Cetta
cho rằng có sự liên quan giữa u cơ tuyến và sự
hình thành sỏi, trong khi Berk và cộng sự cho
rằng không có sự liên quan giữa hai bệnh lý
này(3,5,21). Tuy nhiên, đa số các tác giả đều đồng ý
rằng dịch mật đặc trong các xoang RokitanskyAschoff là điều kiện thuận lợi để sỏi hình thành
trong các xoang này.
Jutras cho rằng u cơ tuyến túi mật không liên
quan đến tình trạng viêm túi mật mạn tính(8).
Tuy nhiên, vài tác giả cho rằng u cơ tuyến là do
viêm túi mật mạn tính gây ra(15). Trong nghiên
cứu của chúng tôi 9/67 (13,43%) bệnh nhân có
kết quả mô bệnh học là u cơ tuyến kém viêm túi
mật mạn tính và những bệnh nhân này cũng có
sỏi túi mật đi kèm. Trong khi 58/67 (86,57%)
bệnh nhân còn lại (cả có sỏi và không có sỏi túi
mật đi kèm) có kết quả mô bệnh học chỉ là u cơ
tuyến túi mật đơn thuần. Chúng tôi cho rằng u
cơ tuyến không liên quan đến tình trạng viêm
túi mật mạn tính. Điều này cũng phù hợp với đa
số các tác giả khác.
Về sự liên quan giữa u cơ tuyến và ung thư
túi mật, trước đây, chỉ có vài báo cáo ghi nhận có
sự xuất hiện của ung thư túi mật trên bệnh nhân
có u cơ tuyến dạng phân đoạn(10). Gần đây,
nghiên cứu của Ootani và cộng sự trên 3197
trường hợp cắt túi mật cho thấy rằng tỷ lệ ung
thư túi mật trên bệnh nhân u cơ tuyến dạng
phân đoạn (6,4%) cao hơn bệnh nhân không có u
cơ tuyến dạng phân đoạn (3,1%), đặc biệt ở bệnh
nhân trên 60 tuổi (13,9%)(13). Nghiên cứu của
Nabatame trê 4560 trường hợp cắt túi mật cũng
cho kết quả tương tự(12). Ootani và Nabatame
giải thích rằng tỷ lệ ung thư túi mật cao trong
nghiên cứu của ông là do được thực hiện tại
những Bệnh viện điều trị ung thư lớn nhất ở
Nhật.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, siêu âm và mô bệnh học của u cơ tuyến túi mật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 1
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, SIÊU ÂM VÀ MÔ BỆNH HỌC
CỦA U CƠ TUYẾN TÚI MẬT
Nguyễn Tấn Cường*, Nguyễn Trung Tín*, Nguyễn Phát Đạt*
TÓM TẮT
Mở đầu: U cơ tuyến túi mật là bệnh lý tăng sinh lành tính tương đối ít gặp, biểu hiện lâm sàng không
đặc hiệu, phát hiện dựa vào siêu âm bụng và chẩn đoán xác định bệnh dựa vào kết quả mô bệnh học. Vài báo
cáo ghi nhận có sự liên quan giữa u cơ tuyến dạng phân đoạn và ung thư túi mật. Quan điểm về điều trị
vẫn chưa được thống nhất.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, vai trò của siêu âm và đặc điểm về mô bệnh học của u
cơ tuyến túi mật.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu cắt ngang. Bệnh nhân được chọn là những trường hợp có kết quả mô
bệnh học là u cơ tuyến túi mật, được so sánh với 30 trường hợp không phải là u cơ tuyến túi mật, được phẫu
thuật tại bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM từ 1/2002 đến 6/2008.
Kết quả: Có 67 u trường hợp cơ tuyến trong 8066 trường hợp cắt túi mật chiếm tỷ lệ 0,83% bao gồm
44 nữ và 23 nam. Tuổi trung bình là 50. Biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu. Triệu chứng thường gặp là đau
bụng vùng thượng vị và hạ sườn phải, ăn chậm tiêu, sốt chỉ gặp khi có sỏi ống mật chủ đi kèm, không có
trường hợp nào vàng da, nôn và buồn nôn. Các xét nghiệm huyết học và sinh hóa máu thường trong giới
hạn bình thường. Siêu âm có độ nhạy 50,75%, độ đặc hiệu 76,67%, độ chính xác 58,76%, giá tri tiên đoán
dương tính 82,93% và giá trị tiên đoán âm tính 41,07%. Tất cả đều được phẫu thuật cắt túi mật. Về mô
bệnh học, có 9/67 trường hợp (13,43%) u cơ tuyến kèm viêm túi mật mạn tính. Trong tất cả các trường hợp
có chẩn đoán trước mổ là u cơ tuyến túi mật thì không có trường hợp nào có kết quả mô bệnh học là ung thư
túi mật.
Kết luận: U cơ tuyến túi mật là bệnh lý không thường gặp, biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu. Siêu âm
có độ nhạy và độ chính xác thấp, độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán. Sự liên quan giữa u cơ tuyến và ung thư
túi mật cần được nghiên cứu thêm. Phẫu thuật cắt túi mật được khuyên là phương pháp chọn lựa để điều
trị.
Từ khóa: Bệnh túi mật tăng sinh, bệnh lắng đọng cholesterol túi mật, u cơ tuyến (UCT) túi mật, ung
thư túi mật, viêm túi mật mạn tính, siêu âm (SA), chụp cắt lớp điện toán (CT scan), chụp cộng hưởng từ
hạt nhân (MRI), xoang Rokitansky-Aschoff (xoang RA), mô bệnh học (MBH).
ABSTRACT
CLINICAL, ULTRASOUND, AND HISTOLOGICAL CHARACTERISTICS OF
ADENOMYOMATOSIS OF THE GALLBLADDER
Nguyen Tan Cuong, Nguyen Trung Tin, Nguyen Phat Dat
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 69 - 74
Background: Gallbladder adenomyomatosis is the benign and raletively rare proliferation. The clinical
characteristics are untypical. This was discovered by ultrasound and the diagnosis was confirmed by the
results of histophathology. There have been some publications of the relationship between the segmented
adenomyomatosis and gallbladder carcinoma. It has a controversy of treatment for adenomyomatosis.
* Bộ môn Ngoại – Đại học Y Dược TPHCM
Chuyên Đề Ngoại Khoa 2
Objective: Describing the clinical, ultrasound ang histological characteristics of gallblder.
Methods: The study design used in this research was cross-sectional design. In the research we
analysed the data of the patients having the lap cholecystectomy with histological adenomyomatosis, and 30
patients having the lap cholecystectomy without the result of histology of adenomyomatosis. The laparoscopic
sugeries were done from January 2001 to June 2008.
Results: There were 67 or 0.83% cases of adenomyomatosis, including 44 female and 23 male, among
8.066 lap cholecystectomies. The mean of age was 50. The clinical characteristics were not typical. The
common seen symtomps were abdominal pain in the hypergastric and right subcostal region, flatulence.
Fever was seen in case of combination with common bile duct stone. There wasn’t jaundice, vomiting and
nausea in anycase. The laboratory test results of hematology and the biochemics were normal. The value of
ultrasound was shown in the sensitivity of 50.75%, specificity of 76.67%, accuracy of 58,76%, positively
predictive value of 82.93% and negatively predictive value of 41.07%. All cases were treated by laparoscopic
cholecystectomy. In histology, there were 9/67 cases (13.43%) of combination of adenomyomatosis and
chronic cholecystitis. Among cases having the preoperative diagnosis of adenomyomatosis there was no
histological demontration of gallbladder carcinoma.
Conclusion: Adenomyomatosis is uncommonly seen and has untypically clinical characteristics. The
ultrasound has low sensitivity and high specificity in diagnosis. The study of the relationship between the
adenomyomatosis and carimoma of the gallbladder should be done. The laparoscopic surgery should be the
selection of treatment.
Key words: hyperplastic cholecystoses, cholesterolosis, adenomyomatosis, carcinoma of the gallbldder,
chronic cholecystitis, ultrasound, computed tomography, magnetic resonance image, Rokitansky-Aschoff
sinuses, histopathology.
MỞ ĐẦU
U cơ tuyến (UCT) là bệnh lý lành tính tương
đối ít gặp, tỷ lệ thay đổi từ 0,8 đến 8,7% trong tất
cả các trường hợp cắt túi mật, nữ gặp nhiều hơn
nam, tuổi trung bình 53. Bệnh liên quan đến sỏi
túi mật trong 25-75% trường hợp.
U cơ tuyến túi mật được Jutras mô tả lần đầu
tiên vào năm 1960(8). Bệnh được đặc trưng bởi sự
tăng sinh của lớp biểu mô, sự phì đại của lớp cơ
và hình thành các túi lõm sâu vào lớp cơ dày của
thành túi mật được gọi là các xoang Rokitansky-
Aschoff. Đây là biểu hiện đặc trưng của bệnh lý
này. Bệnh có 3 dạng: khu trú, phân đoạn và toàn
thể. Trong đó, dạng khu trú thường gặp nhất.
Bệnh có biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu.
Bệnh nhân thướng có triệu chứng đau thượng vị
hoặc hạ sườn phải, ăn chậm tiêu, đặc biệt sau
bữa ăn chất béo, nôn và buồn nôn.
Ngày nay, siêu âm (SA) là phương tiện chủ
yếu để phát hiện bệnh. Tuy nhiên, độ chính xác
của siêu âm khá thấp, khoảng 60-66%(22). Tiêu
chuẩn chẩn đoán u cơ tuyến trên siêu âm bao
gồm dày vách túi mật khu trú hoặc lan tỏa, có sự
hiện diện của các xoang Rokitansky-Aschoff
(xoang RA) và có hoặc không có kèm theo
những giả ảnh có “dạng chữ V” hoặc “bóng đuôi
sao chổi”. Chẩn đoán xác định bệnh phải dựa
vào kết quả mô bệnh học (MBH)(7,14,19,20).
Gần đây, có vài ghi nhận có sự liên quan
giữa u cơ tuyến dạng phân đoạn và ung thư túi
mật(12,13). Quan điểm về điều trị vẫn chưa được
thống nhất(4,8,17). Mục tiêu của nghiên cứu này
nhằm khảo sát đặc điểm lâm sàng, vai trò của
siêu âm và đặc điểm mô bệnh học của u cơ
tuyến túi mật.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu cắt ngang, được thực hiện
tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí
Minh từ 01/2002 đến 06/2008.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật có kết quả
mô bệnh học là u cơ tuyến túi mật trong thời
Chuyên Đề Ngoại Khoa 3
gian nghiên cứu, được so sánh với 30 trường
hợp kết quả mô bệnh học không phải là u cơ
tuyến túi mật.
Phương pháp tiến hành
Số liệu thứ cấp được lấy theo mẫu bệnh án.
Nhập và sử lý số liệu bằng phần mềm Stata
10.0.
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, có 67/8066
trường hợp cắt túi mật có kết quả mô bệnh học
là u cơ tuyến túi mật, chiếm tỷ lệ 0,83%. Trong
đó, 44/67 (65,67%) là nữ, 23/67 (34,33%), với tỷ lệ
nữ/nam là 2/1. Tuổi trung bình là 50, thấp nhất
27 và cao nhất 80, tập trung ở lứa tuổi 40 đến 60.
Đa số bệnh nhân nhập viện vì đau bụng
thượng vị hoặc hạ sườn phải (73,13%), 22,39%
phát hiện tình cờ qua siêu âm và 4,48% phát hiện
khi đi kèm với bệnh lý khác. Thời gian đau trung
bình là 10 tháng, ít nhất là 3 ngày và lâu nhất là
10 năm.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đau bụng
(73,13%), ăn chậm tiêu (50,75%). Sốt có 2 trường
hợp (2,99%) do có sỏi ống mật chủ đi kèm.
Không có trường hợp nào vàng da, buồn nôn và
nôn. Thăm khám lâm sàng không có trường hợp
nào sờ thấy túi mật to.
Bảng 1:
Triệu chứng Số BN Tỷ lệ(%)
Không triệu chứng 15 22,39
Đau bụng 49 73,13
Ăn chậm tiêu 34 50,57
Sốt 2 2,99
Vàng da 0 0
Buồn nôn, nôn 0 0
67 trường hợp u cơ tuyến túi mật có kết quả
siêu âm như sau:
Bảng 2:
Triệu chứng Số BN Tỷ lệ(%)
Vách dày 34 50,75
Xoang RA 29 43,28
Giả ảnh dạng “chữ V” 14 20,90
Sỏi túi mật 39 58,21
Sỏi OMC 2 2,99
Đối chiếu với 30 trường hợp không phải u
cơ tuyến túi mật chúng tôi có bảng tính kết
quả như sau:
Bảng 3:
MBH UCT Không UCT Tổng cộng
SA
UCT 34 7 41
Không UCT 33 23 56
Tổng cộng 67 30 97
Như vậy, siêu âm có độ nhạy 50,75%, độ đặc
hiệu 76,67%, độ chính xác 58,76%, giá tri tiên
đoán dương tính 82,93% và giá trị tiên đoán âm
tính 41,07%.
Trong 34 trường hợp có chẩn đoán trước mổ
là u cơ tuyến, dang khu trú thường gặp nhất,
41,18%, dạng phân đoạn 38,23% và dạng toàn
thể 20,59%. Có 61,19% u cơ tuyến kèm sỏi túi
mật, trong đó có 2 trường hợp (2,99%) có sỏi ống
mật chủ.
Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật
cắt túi mật nội soi. Kết quả mô bệnh học trong 67
trường hợp có 9 trường hợp (13,43%) u cơ tuyến
kèm viêm túi mật mạn tính. Tất cả các trường
hợp có chẩn đoán trước mổ là u cơ tuyến thì kết
quả mô bệnh học không có trường hợp nào là
ung thư túi mật.
BÀN LUẬN
U cơ tuyến túi mật là một bệnh lý tăng sinh
lành tính. Thuật ngữ u cơ tuyến được Jutras mô
tả lần đầu tiên vào năm 1960 thuộc nhóm bệnh
túi mật tăng sinh (bao gồm u cơ tuyến và bệnh
lắng đọng cholesterol túi mật)(8). Bệnh được đặc
trưng bởi sự tăng sinh của lớp biểu mô, sự phì
đại của lớp cơ và hình thành các túi lõm sâu vào
lớp cơ dày của thành túi mật được gọi là các
xoang Rokitansky-Aschoff. Đây là biểu hiện đặc
trưng của bệnh lý này. Bệnh có 3 dạng: khu trú,
phân đoạn và toàn thể. Trong đó, dạng khu trú
thường gặp nhất.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 4
Hình 1: Hình ảnh vi thể u cơ tuyến túi mật.
Nguồn: Meguid M, 1984(11)
Nguyên nhân của u cơ tuyến túi mật cho đến
nay vẫn chưa được biết rõ. Chỉ có vài trường
hợp ghi nhận ở trẻ em chứng tỏ đây không phải
là bệnh lý bẩm sinh(2,23). Có nhiều giả thuyết giải
thích cơ chế sinh bệnh. Tuy nhiên, có 2 giả
thuyết chính. Giả thuyết thứ nhất cho rằng, có sự
tăng co thắt cơ trơn bất thường do rối loạn chức
năng thần kinh túi mật gây tăng áp lực trong
lòng túi mật, giống như bệnh túi thừa của đại
tràng(8,17). Giả thuyết thứ hai cho rằng, có sư dài
bất thường của kênh chung mật tụy và chổ nối
giữa ống tụy và ống mật chủ nằm bên ngoài
thành tá tràng làm cho dịch tụy trào ngược vào
lòng túi mật gây tăng áp lực trong lòng túi
mật(9,16). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng
tôi không có khảo sát về vấn đề này.
Về tỷ lệ u cơ tuyến túi mật, theo nhiều
nghiên cứu, thay đổi từ 0,8 đến 8,7%, của chúng
tôi là 0.83%(13). Về tuổi, nghiên cứu của chúng tôi
cũng giống các tác giả khác là tuổi trung bình
khoảng 50, tập trung từ 60 đến 80, thấp nhất là
27 và cao nhất là 80, nữ gặp nhiều nam.
Theo nhiều tác giả, u cơ tuyến túi mật
thường không có biểu hiện lâm sàng hoặc có
biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu. Do bệnh
thường đi kèm với sỏi túi mật nên khó phân biệt
được những triệu chứng này do u cơ tuyến hay
sỏi túi mật gây ra. Bệnh chủ yếu được phát hiện
tình cờ qua siêu âm. Tuy nhiên, theo nghiên cứu
của chúng tôi, bệnh nhân nhập viện chủ yếu do
đau bụng thượng vị hoặc hạ sườn phải (73,13%),
phát hiện qua siêu âm chỉ trong 22,39% và phát
hiện khi đi kèm với bệnh lý khác là 4,48%.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng giống các tác
giả khác, trong những trường hợp có biểu hiện
lâm sàng, triệu chứng thường gặp nhất là đau
bụng thượng vị hoặc hạ sườn phải (73,13%),
nhất là sau bữa ăn chất béo, ăn chậm tiêu
(50,75%), sốt có 2 trường hợp (2,99%) do có sỏi
ống mật chủ đi kèm. Không có trường hợp nào
vàng da, buồn nôn và nôn. Thăm khám lâm sàng
không có trường hợp nào sờ thấy túi mật to.
Về vai trò của siêu âm trong chẩn đoán u
cơ tuyến túi mật, theo y văn, trước đây, u cơ
tuyến túi mật được phát hiện chủ yếu bằng
chụp X-quang túi mật bằng đường uống. Gần
đây, với sự ra đời của siêu âm đã thay thế dần
và chứng tỏ hữu hiệu hơn trong việc chẩn
đoán bệnh lý này.
Tiêu chuẩn chẩn đoán u cơ tuyến trên siêu âm
bao gồm dày vách túi mật khu trú hoặc lan tỏa, có
sự hiện diện của các xoang Rokitansky-Aschoff
và có hoặc không có kèm theo những giả ảnh có
“dạng chữ V” hoặc “bóng đuôi sao chổi”
Hình 2: U cơ tuyến dạng phân đoạn với hình ảnh
các xoang RA có các giả ảnh có bóng đuôi sao chổi.
Nguồn Stunell H., 2002(18)
Các nghiên cứu cho thấy siêu âm có độ chính
xác, độ nhạy và độ đặc hiệu tương đối thấp.
Theo Yoshimitsu, siêu âm có độ nhạy 43%, độ
đặc hiệu 87% và độ chính xác 66%(22). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, siêu âm có độ nhạy
50,75%, độ đặc hiệu 76,67% và độ chính xác
58,76% trong chẩn đoán u cơ tuyến túi mật.
Dày khu trú hoặc lan tỏa thành túi mật là
dấu hiệu cần thiết phải có trong chẩn đoán. Tuy
nhiên, đây là hình ảnh không đặc trưng và cần
phân biệt với những bệnh lý khác của túi mật
như viêm túi mật mạn tính (dày lan tỏa), hay
ung thư túi mật (dày khu trú),. Trong những
Chuyên Đề Ngoại Khoa 5
trường hợp khó khăn trong chẩn đoán phân biệt
với ung thư túi mật, chụp cắt lớp điện toán hay
chụp cộng hưởng từ hạt nhân nên được thực
hiện(6,18). Trong nghiên cứu của chúng tôi, hình
ảnh dày thành túi mật có độ nhạy 50,75% và độ
đặc hiệu 76,67%. Hình ảnh các xoang
Rokitansky-Aschoff là biểu hiện đặc trưng của u
cơ tuyến túi mật có độ nhạy thấp 43,28% và độ
đặc hiệu rất cao 100%. Sự hiện diện của các giả
ảnh có “dạng chữ V” hoặc “bóng đuôi sao chổi”
cũng góp phần chẩn đoán bệnh. Hình ành này
cũng có độ nhạy thấp 29,90%, tuy nhiên độ đặc
hiệu cũng khá cao 93,33%.
Trong 34 trường hợp có chẩn đoán trước mổ
là u cơ tuyến, dang khu trú thường gặp nhất,
41,18%, dạng phân đoạn 38,23% và dạng toàn
thể 20,59%. Điều này cũng phù hợp với các
nghiên cứu khác.
Về sự liên quan giữa u cơ tuyến và sỏi túi
mật, Jutras ghi nhận 254/326 (78%) bệnh nhân u
cơ tuyến có sỏi túi mật đi kèm, theo Meguid là
72% và theo Aguirre là 36%(1,8,11). Trong nghiên
cứu của chúng tôi có 61,19% u cơ tuyến kèm sỏi
túi mật, trong đó có 2 trường hợp (2,99%) có sỏi
ống mật chủ. Một vài tác giả như Yang và Cetta
cho rằng có sự liên quan giữa u cơ tuyến và sự
hình thành sỏi, trong khi Berk và cộng sự cho
rằng không có sự liên quan giữa hai bệnh lý
này(3,5,21). Tuy nhiên, đa số các tác giả đều đồng ý
rằng dịch mật đặc trong các xoang Rokitansky-
Aschoff là điều kiện thuận lợi để sỏi hình thành
trong các xoang này.
Jutras cho rằng u cơ tuyến túi mật không liên
quan đến tình trạng viêm túi mật mạn tính(8).
Tuy nhiên, vài tác giả cho rằng u cơ tuyến là do
viêm túi mật mạn tính gây ra(15). Trong nghiên
cứu của chúng tôi 9/67 (13,43%) bệnh nhân có
kết quả mô bệnh học là u cơ tuyến kém viêm túi
mật mạn tính và những bệnh nhân này cũng có
sỏi túi mật đi kèm. Trong khi 58/67 (86,57%)
bệnh nhân còn lại (cả có sỏi và không có sỏi túi
mật đi kèm) có kết quả mô bệnh học chỉ là u cơ
tuyến túi mật đơn thuần. Chúng tôi cho rằng u
cơ tuyến không liên quan đến tình trạng viêm
túi mật mạn tính. Điều này cũng phù hợp với đa
số các tác giả khác.
Về sự liên quan giữa u cơ tuyến và ung thư
túi mật, trước đây, chỉ có vài báo cáo ghi nhận có
sự xuất hiện của ung thư túi mật trên bệnh nhân
có u cơ tuyến dạng phân đoạn(10). Gần đây,
nghiên cứu của Ootani và cộng sự trên 3197
trường hợp cắt túi mật cho thấy rằng tỷ lệ ung
thư túi mật trên bệnh nhân u cơ tuyến dạng
phân đoạn (6,4%) cao hơn bệnh nhân không có u
cơ tuyến dạng phân đoạn (3,1%), đặc biệt ở bệnh
nhân trên 60 tuổi (13,9%)(13). Nghiên cứu của
Nabatame trê 4560 trường hợp cắt túi mật cũng
cho kết quả tương tự(12). Ootani và Nabatame
giải thích rằng tỷ lệ ung thư túi mật cao trong
nghiên cứu của ông là do được thực hiện tại
những Bệnh viện điều trị ung thư lớn nhất ở
Nhật.
Như vậy, nguy cơ cao phát triển thành ung
thư túi mật ở bệnh nhân u cơ tuyến dạng phân
đoạn đã được ghi nhận, đặc biệt ở bệnh nhân lớn
tuổi. Tuy nhiên, chúng tôi không ghi nhận
trường hợp nào ung thư túi mật phát triển trên u
cơ tuyến túi mật. Có lẽ do mẫu nghiên cứu của
chúng tôi còn khá nhỏ. Do đó, vấn đề về liên
quan giữa u cơ tuyến và ung thư túi mật cần
được nghiên cứu thêm.
Về điều trị, hầu hết tác giả đều đồng ý cắt túi
mật nên được chọn lựa để điều trị u cơ tuyến túi
mật, kể cả trong trường hợp có hoặc không có
triệu chứng, có hoặc không có sỏi túi mật đi kèm
do diễn tiến không rõ ràng của bệnh lý này và
đôi khi gặp khó khăn trong việc chẩn đoán phân
biệt với ung thư túi mật. Tất cả các trường hợp
trong nghiên cứu của chúng tôi đều được phẫu
thuật cắt túi mật nội soi an toàn và hiệu quả.
KẾT LUẬN
U cơ tuyến túi mật là bệnh lý tăng sinh
lành tính tương đối ít gặp. Bệnh có biểu hiện
lâm sàng không đặc hiệu và thường đi kèm
với sỏi túi mật. Siêu âm có độ chính xác, độ
nhạy và độ đặc hiệu tương đối thấp trong chẩn
đoán bệnh. Chẩn đoán xác định bệnh dựa vào
Chuyên Đề Ngoại Khoa 6
kết quả mô bệnh học. Sự liên quan giữa u cơ
tuyến và ung thư túi mật còn chua rõ ràng. Cắt
túi mật được xem là phương pháp chọn lựa để
điều trị u cơ tuyến túi mật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aguirre J. R. (1969). Hyperplastic cholescystoses: a new
contribution to the unitarian theory. American Journal of
Roentgenology, 107, 1-13.
2. Alberti D. (1998). Adenomyomatosis of the gallbladder in
childhood. Journal of Pediatric Surgery, 33(9), 1411-1412.
3. Berk R. N. (1983). The hyperplastic cholecystose:
cholesterolosis and adenomyomatosis. Radiology, 146,
593-601.
4. Bevan G. (1970). Acalculous adenomyomatosis of the
gallbladder. Gut, 11, 1029-1034.
5. Cetta F. (1995). Black pigment gallstones with cholesterol
gallstones in the same gallbladder: 13 cases in a surgical
series of 1226 patients with gallbladder stones. Dig Dis
Sciences, 40, 534-538.
6. Ching B. H. (2007). CT differentiation of adenomyomatosis
and gallbladder cancer. American Jounal of
Roentgenology, 189, 62-66.
7. Fowler R. C., R. W. A. (1998). Ultrasound Diagnosis of
Adenomyomatosis of the Gallbladder: Ultrasonic and
Pathological Correlation. Clinical Radiolog, 39, 402-406.
8. Jutras J. A. (1960). Hyperplastic cholecystoses. American
Journal of Roentgenology, 83, 795-827.
9. Kainuma O. (1998). A case of gallbladder
adenomyomatosis with pancreaticobiliary maljunction
and an anomaly of the cystic duct joined the common
channel. The American Journal of Gastroenterology, 93(7),
1156-1158.
10. Kawarada Y. (1986). Early carcinoma of the gallbladder,
noninvasive carcinoma originating in the Rokitansky -
Aschoff sinus: a case report. The American Journal of
Gastroenterology, 81(1), 61-66.
11. Meguid M. (1984). Adenomyomatosis of the gallbaldder.
The American Journal of Surgery, 147, 260-262.
12. Nabatame N. (2004). High risk of the gallbladder
carcinoma in elderly patients with segmental
adenomyomatosis of the gallbladder. Journal Exp. Clin.
Cancer Res., 23(4), 593-598.
13. Ootani t. (1992). Relationship between gallbladder
carcinoma and the segmental type of adenomyomatosis of
the gallbladder. Cancer, 69, 2647-2652.
14. Raghavendra B. N. (1983). Sonography of
Adenomyomatosis of the Gallbladder: Radiologic -
Pathologic Correlation. Radiology, 146, 747-752.
15. Rosai J. & Ackerman L. V. (1974). Gallbladder and
extrahepatic bile ducts. In: Surgical Pathology. Saint Louis:
Mosby company, 1, 534-537.
16. Satoshi T. (1998). Association between anomalous
pancreaticobiliary ductal union and adenomyomatosis of
the gallbladder. Journal of Gastroenterology and
Hepathology, 13(2), 175-180.
17. Sermon A. (2003). Symptomatic adenomyomatosis of the
gallbladder - report of a case. Acta Chir Belg, 103, 225-229.
18. Stunell H. (2008). Imaging of adenomyomatosis of the
gallbladder. Journal of Medical Imaging and Radiation
Oncology, 52, 109-117.
19. Võ Tấn Đức & Nguyễn Quang Thái Dương (người dịch).
(2002). Siêu âm chẩn đoán. Nhà xuất bản Y học.
20. Võ Tấn Đức, Nguyễn Văn Thông., Nguyễn Văn Hải,.
(2001). U cơ tuyến túi mật: chẩn đoán và điều trị. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, 4, 27-30.
21. Yang W. G. & Wang S. S. (1996). Adenomyomatosis of the
gallbladder. Chung Hua I Hsueh Tsa Chih (Taipei), 58, 12-
17.
22. Yoshimitsu. (2001). Radiologic diagnosis of
adenomyomatosis of the gallbladder: comparative study
among MRI, helical CT, and transabdominal US. Journal
of Computer Assisted Tomography, 25(6), 843-850.
23. Zani A. (2005). Adenomyomatosis of the gallbladdder in
childhood: report of a case and review of the literature.
Society for Pediatric Pathology, 8, 577-580.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 7
Chuyên Đề Ngoại Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_lam_sang_sieu_am_va_mo_benh_hoc_cua_u_co_tuyen_tui.pdf