Microsporidia hiện nay chưa có thuốc
điều trị đặc hiệu, có thể do dạng gây bệnh
của chúng là dạng bào tử nên có sức đề
kháng cao. Tuy nhiên, các tác giả đều
nhấn mạnh bệnh có tính chất tự giới hạn
mà không cần điều trị ở người có miễn
dịch bình thường [1], vì thế bệnh có thể
bị bỏ qua hoặc chẩn đoán nhầm với tác
nhân khác trong vụ dịch. Nhiều nghiên
cứu cho thấy có nhiều loại thuốc có thể
có tác dụng với hình thái viêm kết giác
mạc nông do tác nhân này như kháng
sinh nhóm quinolone [6], thuốc diệt ký
sinh trùng [3], thuốc chống nấm [7]. Trong
điều kiện nước ta hiện chưa có các chế
phẩm tra mắt của dược chất diệt ký sinh
trùng như fumagillin, polyhexamethylene
biguanide (PHMD) hay chlorhexidine nên
chúng tôi phối hợp hai nhóm thuốc là
kháng sinh nhóm quinolone và thuốc chống
nấm trong nghiên cứu này. Ở BN suy
giảm miễn dịch, bổ sung thuốc uống chống
ký sinh trùng như albendazole 0,4 g/ngày
hoặc thuốc chống nấm itraconazole
0,2 g/ngày có thể hữu ích trong điều trị
nhiễm microsporidia, nhưng ở BN có miễn
dịch bình thường thì không cần thiết [3].
Nạo biểu mô giác mạc, ngoài tác dụng
lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm cũng là
biện pháp giúp loại bỏ bớt tác nhân gây
bệnh trên bề mặt nhãn cầu. Joveeta J và
CS báo cáo 2 BN khỏi bệnh chỉ bằng
phương pháp bóc biểu mô [3]. Mặc dù vậy,
biểu mô giác mạc bị bóc đi có thể làm
tăng nguy cơ thâm nhập của tác nhân
vào lớp sâu hơn, gây nhiễm trùng thứ
phát, cần thực hiện phối hợp với điều trị
nội khoa [3]. Fan và CS đánh giá hồi cứu
14 mắt viêm kết giác mạc nông do
microsporidia được điều trị bằng nạo
biểu mô, với số lần nạo biểu mô trung bình
3,3 lần; kết hợp tra norfloxacin 0,3% để
phòng nhiễm trùng, thời gian điều trị trung
bình 6,6 ngày [8].
Nghiên cứu của chúng tôi, sau 3 tháng
theo dõi chưa gặp trường hợp nào tái
phát, tương tự như trong tổng kết của
Sujata D và CS sau theo dõi 3,5 năm ở
Ấn Độ [4]. Tuy nhiên, bệnh được ghi nhận
có thể tái phát do tác nhân phổ biến trong
tự nhiên [6].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị viêm kết giác mạc nông do Microsporidia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
129
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
VIÊM KẾT GIÁC MẠC NÔNG DO MICROSPORIDIA
Phạm Ngọc ông* Nguyễn Nga Dư ng* ặng Minh Tuệ*; Lê Xuân Cung*
TÓM TẮT
Mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị viêm kết giác mạc nông do microsporidia.
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu hồi cứu bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị viêm kết
giác mạc nông do microsporidia tại Bệnh viện Mắt Trung ương. Các chỉ số ghi nhận gồm triệu
chứng cơ năng, dấu hiệu thực thể, kết quả xét nghiệm và điều trị. Kết quả: từ tháng 11 - 2016
đến 8 - 2017, trong số 19 bệnh nhân viêm kết giác mạc nông do microsporidia được chẩn đoán
xác định bằng nhuộm Gram chất nạo biểu mô giác mạc, có 10 bệnh nhân nữ (52,6%), tuổi trung
bình 41 và 3/19 bệnh nhân (15,8%) bị bệnh cả hai mắt. Thời gian khởi phát bệnh trung bình
7,6 ngày. Triệu chứng cơ năng thường gặp nhất là đỏ mắt (100%), kích thích mắt như cộm,
chói, chảy nước mắt (68,4%). Tất cả bệnh nhân có tổn thương biểu mô giác mạc dạng chấm
với đặc điểm gồ cao, thô, bắt màu fluorescein và tập trung ở trung tâm giác mạc; 6/22 mắt (27,3%)
có thâm nhiễm dưới biểu mô; 45,5% mắt có tủa sau giác mạc. Điều trị nội khoa chủ yếu tại chỗ
bằng phối hợp nhiều loại thuốc gồm thuốc chống nấm, kháng sinh nhóm fluoroquinolon và dinh
dưỡng giác mạc. 100% bệnh nhân được điều trị khỏi sau thời gian điều trị trung bình 26,4 ngày.
Kết luận: viêm kết giác mạc nông do microsporidia có diễn biến cấp tính, gây tổn thương biểu
mô giác mạc dạng chấm. Điều trị nội khoa cần phối hợp nhiều nhóm thuốc.
* Từ khóa: Viêm kết giác mạc nông; Microsporidia; Viêm biểu mô giác mạc.
Clinical Characteristics and Treatment Outcomes of Microsporidial
Superficial Keratoconjunctivitis
Summary
Objectives: To describe the clinical characteristics and treatment outcomes of microsporidial
superficial keratoconjunctivitis. Subjects and methods: A prospective follow-up approach to
patients who have been diagnosed and treated for microsporidial superficial keratoconjunctivitis
at Vietnam National Institute of Ophthalmology on clinical symptoms, signs and outcomes
treatment of microsporidial superficial keratoconjunctivitis. Results: From November 2016 to
August 2017, 19 patients with microsporidial superficial keratoconjunctivitis that were identified
by Gram staining of corneal epithelial scrub, there were 10 females (52.6%), the mean age was 41
and 3/19 (15.8%) had disease in both eyes. The average time of onset was 7.6 days. The most
common symptom was redness (100%), irritating as foreign body sensation, photophobia and
tearing was less often (68.4%). All patients had coarse, punctate corneal epithelial lesions concentrated
* Bệnh viện Mắt Trung ương
Người phản hồi (Corresponding): Phạm Ngọc ông (dongpn69@gmail.com)
Ngày nhận bài: 15/03/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/05/2018
Ngày bài báo được đăng: 29/05/2018
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
130
in the center of cornea, 6/22 eyes (27.3%) had sub-epithelial infiltration; keratic precipitates
were seen in 45.5% of eyes. Medical treatment was mainly based on a combination of topical
drugs including antifungal, fluoroquinolone antibiotics and corneal healing. 100% of epithelial
lesions were resolved after an average of 26.4 days of treatment. Conclusion: Microsporidial
superficial keratoconjunctivitis has an acute course, mainly of epithelial corneal lesions. Medical
therapy should combine multiple group of topical drugs.
* Keywords: Keratoconjunctivitis; Microsporidia; Corneal epithelial inflammation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, nhiễm trùng tại
mắt do microsporidia ngày càng được nhiều
bác sỹ nhãn khoa chú ý. Microsporidia là
họ ký sinh trùng đơn bào dạng bào tử,
ký sinh nội bào bắt buộc và là một tác
nhân nhiễm trùng cơ hội, có khả năng
gây bệnh ở nhiều cơ quan trong cơ thể
người. Tại mắt, hai biểu hiện chính của
bệnh gây ra do ký sinh trùng này là viêm
giác mạc nông và viêm nhu mô giác mạc.
Tuy là tác nhân nhiễm trùng cơ hội,
nhưng bệnh tại mắt do microsporidia ngày
càng gặp nhiều ở người có miễn dịch
bình thường. Nhiễm tác nhân này có liên
quan đến môi trường như gió, bụi, bùn đất
và nước bẩn, do chúng tồn tại phổ biến
trong tự nhiên [2]. Ở nước ta, trường hợp
đầu tiên được xác định nhiễm microsporidia
tại mắt là hình thái viêm nhu mô giác mạc
[1], trong khi đó viêm kết giác mạc nông
do tác nhân này chưa được báo cáo.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm:
Mô tả đặc điểm lâm sàng và kết quả điều
trị của hình thái nhiễm trùng này tại mắt
của microsporidia trên bệnh nhân (BN)
Việt Nam.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
19 BN viêm kết giác mạc nông do
microsporidia được chẩn đoán xác định
bằng nhuộm Gram chất nạo biểu mô giác
mạc, tỷ lệ nữ/nam = 52,6%, tuổi trung
bình 41, điều trị tại Bệnh viện Mắt Trung
ương, thời gian từ tháng 11 - 2016 đến
8 - 2017.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu hồi cứu.
Tiêu chuẩn chọn BN: tất cả BN bị viêm
kết giác mạc, có bào tử microsporidia
trong chất nạo biểu mô giác mạc, được
phát hiện bằng xét nghiệm nhuộm Gram
chất nạo biểu mô giác mạc.
Các thông tin ghi nhận gồm: đặc điểm
BN (tuổi, giới, nơi sinh sống), diễn biến
bệnh (thời điểm mắc bệnh; các yếu tố liên
quan đến xuất hiện bệnh như chấn
thương, dị vật kết giác mạc...; chẩn đoán
và điều trị trước khi đến Bệnh viện Mắt
Trung ương), tiền sử, triệu chứng cơ
năng, thực thể, thuốc, biện pháp điều trị
và kết quả điều trị, tái phát bệnh sau khi
điều trị.
Kết quả điều trị được đánh giá theo
các tiêu chí sau:
+ Khỏi bệnh: kết mạc hết cương tụ,
không còn tổn thương biểu mô giác mạc,
thâm nhiễm tiêu hết, tiền phòng sạch.
+ Không khỏi: không hết các triệu chứng
cơ năng và thực thể, tổn thương phát triển
sâu vào nhu mô giác mạc.
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
131
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm BN.
Trong thời gian nghiên cứu, có 22 mắt
của 19 BN bị viêm kết giác mạc nông do
microsporidia, tỷ lệ nam/nữ = 9/10, mắt
phải/mắt trái = 12/10. 3 BN bị bệnh cả
hai mắt với khoảng cách thời gian khởi
phát giữa hai mắt trung bình 8 ngày
(5 - 20 ngày), 94,7% BN sống ở nông thôn.
Tất cả BN đều có kết quả xét nghiệm HIV
âm tính.
2. Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán.
Thời gian từ khi có biểu hiện bị bệnh
đến khi đến khám dao động từ 2 - 20 ngày
(trung bình 7,6 ngày). Hầu hết mắt có thị
lực ở mức 20/100 đến 20/50, chỉ 4 mắt
(18,2%) có thị lực > 20/30.
* Tiền sử bệnh và triệu chứng khi đến
khám:
- Tiền sử chấn thương: bụi thông thường:
5 mắt (22,7%), côn trùng: 3 mắt (13,6%),
phân gia súc: 1 mắt (4,6%), lá cây: 1 mắt
(4,6%), dùng kính tiếp xúc: 0 mắt.
- Tiền sử điều trị: kháng sinh: 14 mắt
(63,6%), corticoid: 10 mắt (45,5%), dùng
kính tiếp xúc: 0 mắt.
- Triệu chứng cơ năng: nhìn mờ: 18 mắt
(83,2%), cộm chói: 8 mắt (36,8%), xuất tiết:
7 mắt (31,6%).
- Triệu chứng thực thể: cương tụ kết
mạc: 22 mắt (100%), tổn thương giác
mạc dạng chấm: 22 mắt (100%), nhú kết
mạc nhãn cầu: 19 mắt (86,4%), thẩm lậu
dưới biểu mô: 6 mắt (27,3%), tủa mặt sau
giác mạc: 6 mắt (27,3%).
Hình 1: Bào tử microsporidia trên tiêu
bản nhuộm Gram chất nạo biểu mô
giác mạc.
Hình 2: Tổn thương biểu mô giác mạc do
microsporidia (mũi tên) trên giác mạc đã nạo
một phần biểu mô lấy bệnh phẩm xét nghiệm.
Xét nghiệm vi sinh để xác định nguyên nhân gây tổn thương kết giác mạc do
microsporidia trong nghiên cứu là nhuộm Gram. Vị trí nạo biểu mô giác mạc lấy bệnh
phẩm là vùng mật độ tổn thương dạng chấm cao nhất. Trên tiêu bản nhuộm, quan sát
thấy hình ảnh đặc trưng của microsporidia (hình 1).
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
132
Hình 3: Tổn thương kết mạc do microsporidia.
3. Kết quả điều trị.
Tất cả BN được điều trị bằng kháng
sinh nhóm quinolone nhỏ mắt (cravit 0,5%,
mỡ oflovid 0,3%) x 4 lần/ngày, thuốc chống
nấm (amphotret 0,15%) x 10 lần/ngày kết
hợp nước mắt nhân tạo trong suốt thời
gian điều trị. Những BN có phản ứng
viêm ở tiền phòng được bổ sung thuốc
tra corticosteroiod (fluometholone 0,1%)
x 3 lần/ngày (sau khi tổn thương biểu mô
hóa hoàn toàn) và thuốc giãn đồng tử
(atropin 0,5% x 2 lần/ngày).
Thời gian điều trị trung bình 26,4 ngày;
cuối thời điểm theo dõi, 10 mắt (45,5%)
có thị lực trên mức 20/30. Các mắt có
thâm nhiễm dưới biểu mô, giác mạc tạo
thành sẹo nông, không mắt nào tiến triển
thành loét giác mạc, viêm nhu mô giác
mạc hay viêm nội nhãn. Trong thời gian
theo dõi, chúng tôi chưa phát hiện trường
hợp nào tái phát.
BÀN LUẬN
Nhiễm trùng mắt do microsporidia
ngày càng được nhiều bác sỹ nhãn khoa
quan tâm, vì vậy, hiểu biết về bệnh và tác
nhân gây bệnh đã nâng cao. Từ tháng 1 -
2002 đến 12 - 2004, tỷ lệ viêm kết giác
mạc do microsporidia trong tổng số các
trường hợp viêm kết giác mạc tại Viện
Mắt L.V.Prasad, Ấn Độ là 0,4% [3]. Sujata
D và CS ghi nhận 278 trường hợp viêm
kết giác mạc nông, chiếm 19,7% trường
hợp viêm kết giác mạc nhiễm trùng tại
Trung tâm này trong thời gian 3,5 năm (từ
tháng 3 - 2007 đến 10 - 2010), cho thấy
đây là một tác nhân không quá hiếm gặp
[4]. Trước đây, nhiễm trùng giác mạc do
microsporidia có hai hình thái lâm sàng,
phụ thuộc vào tình trạng miễn dịch của cá
thể bị bệnh là viêm kết mạc, giác mạc
nông ở người suy giảm miễn dịch và viêm
nhu mô giác mạc ở người có miễn dịch
bình thường. Tuy nhiên, hiện nay viêm
kết giác mạc nông do tác nhân này gặp
ngày càng nhiều ở người không suy giảm
miễn dịch [5]. Tại Việt Nam, tất cả những
trường hợp viêm kết giác giác mạc nông
do microsporidia được ghi nhận trên người
có miễn dịch bình thường, chưa phát hiện
có tình trạng suy giảm miễn dịch.
Do microsporidia phổ biến trong tự nhiên
nên khả năng nhiễm tác nhân này từ môi
trường như bùn, đất, nước bẩn rất cao,
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
133
đặc biệt ở các nước nhiệt đới, với tần
suất mắc bệnh thường tăng lên trong
mùa mưa [4]. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi ghi nhận 47,6% mắt xuất hiện
bệnh sau chấn thương do bụi, phân gia
súc, côn trùng, lá cây; đa số BN (94,7%)
sống ở nông thôn, dễ tiếp xúc với các yếu
tố trên. Nếu BN có tiền sử bị nhiễm bẩn
mắt do các chất bẩn từ môi trường, khi bị
viêm kết giác mạc, cần chú ý tới khả năng
nhiễm microsporidia. Dùng corticoid nhỏ
mắt cũng là một yếu tố nguy cơ của bệnh
[5], chúng tôi gặp 45,5% mắt đã dùng
corticoid sau khi có triệu chứng viêm
kết mạc. Trong quá trình điều trị, 6 mắt
(27,3%) có tủa mặt sau giác mạc và
tyndal tiền phòng, đã dùng fluometholone
0,1% 2 lần/ngày, sau khi dùng kháng sinh
nhỏ mắt 3 ngày. Việc dùng thuốc chống
viêm phối hợp với kháng sinh giúp triệu
chứng cơ năng giảm rõ rệt và không làm
tình trạng viêm nặng hơn.
Tổn thương điển hình nhất của viêm
kết giác mạc do microsporidia là các
chấm gồ cao, thô và bắt màu fluorescein
của biểu mô giác mạc, gặp ở 100% mắt.
Tổn thương này còn có thể gặp trong
viêm giác mạc do virut (Adenovirus, Herpes
Simplex virus, Herpes zoster virus),
vi khuẩn hoặc viêm giác mạc Thygeson.
Tổn thương biểu mô giác mạc do
microsporidia thường thô, không đều, khá
lớn và nổi gồ hơn so với các tổn thương
do nguyên nhân khác [5]. Nghiên cứu của
Sujata D và CS: trong số BN được chẩn
đoán viêm kết giác mạc do microsporidia
trên lâm sàng, 89,1% mắt có kết quả
dương tính với ký sinh trùng khi nhuộm
Gram chất nạo biểu mô giác mạc, các
trường hợp còn lại không phát hiện được
tác nhân gây bệnh. Theo tác giả là do âm
tính giả, có thể lấy bệnh phẩm không
đúng vị trí [4], 4 trường hợp có xét nghiệm
PCR dương tính với cả microsporidia và
Adenovirus cho thấy có thể có sự phối
hợp giữa các nguyên nhân gây bệnh [4].
Tuy nhiên, khi gặp tổn thương giác mạc
có đặc điểm này, cần chú ý làm xét nghiệm
để xác định nguyên nhân nhiễm trùng có
phải do microsporidia hay không.
Thâm nhiễm dưới biểu mô giác mạc và
phản ứng tiền phòng như tủa sau giác
mạc có thể quan sát thấy trong viêm kết
giác mạc nông do microsporidia. Tuy nhiên,
nghiên cứu này và y văn chưa ghi nhận
trường hợp nào viêm kết giác mạc nông
do microsporidia tiến triển thành viêm
nhu mô giác mạc hoặc viêm nội nhãn.
Theo Raymond S Loh, đây có thể là phản
ứng miễn dịch thứ phát của nội mô giác
mạc đối với tác nhân gây bệnh [6].
Phương pháp vi sinh thường dùng nhất
để chẩn đoán microsporidia là nhuộm
màu như nhuộm ba màu cải tiến, nhuộm
kháng axít, nhuộm Gram, nhuộm huỳnh
quang bằng kali hydroxit và calcofluor
trắng để phát hiện bào tử microsporidia,
đều có độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Ngoài
ra, có thể sử dụng các phương pháp hiện
đại hơn như phản ứng khuếch đại chuỗi
gen (PCR), kính hiển vi điện tử hoặc kính
hiển vi đồng tiêu. Do đặc điểm ký sinh nội
bào bắt buộc nên microsporidia cần được
nuôi cấy trong môi trường đặc hiệu, vì vậy
phương pháp này thường chỉ dùng trong
nghiên cứu [5]. Phương pháp nhuộm
Gram thuận tiện, có giá trị trong chẩn
đoán bào tử microsporidia, nhưng cũng
như các phương pháp nhuộm màu khác,
giá trị chẩn đoán của nó phụ thuộc vào
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
134
lượng sinh vật trong bệnh phẩm nên
trong quá trình làm xét nghiệm, chúng tôi
cố gắng thu thập bệnh phẩm từ vùng có
tổn thương nhiều nhất.
Microsporidia hiện nay chưa có thuốc
điều trị đặc hiệu, có thể do dạng gây bệnh
của chúng là dạng bào tử nên có sức đề
kháng cao. Tuy nhiên, các tác giả đều
nhấn mạnh bệnh có tính chất tự giới hạn
mà không cần điều trị ở người có miễn
dịch bình thường [1], vì thế bệnh có thể
bị bỏ qua hoặc chẩn đoán nhầm với tác
nhân khác trong vụ dịch. Nhiều nghiên
cứu cho thấy có nhiều loại thuốc có thể
có tác dụng với hình thái viêm kết giác
mạc nông do tác nhân này như kháng
sinh nhóm quinolone [6], thuốc diệt ký
sinh trùng [3], thuốc chống nấm [7]. Trong
điều kiện nước ta hiện chưa có các chế
phẩm tra mắt của dược chất diệt ký sinh
trùng như fumagillin, polyhexamethylene
biguanide (PHMD) hay chlorhexidine nên
chúng tôi phối hợp hai nhóm thuốc là
kháng sinh nhóm quinolone và thuốc chống
nấm trong nghiên cứu này. Ở BN suy
giảm miễn dịch, bổ sung thuốc uống chống
ký sinh trùng như albendazole 0,4 g/ngày
hoặc thuốc chống nấm itraconazole
0,2 g/ngày có thể hữu ích trong điều trị
nhiễm microsporidia, nhưng ở BN có miễn
dịch bình thường thì không cần thiết [3].
Nạo biểu mô giác mạc, ngoài tác dụng
lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm cũng là
biện pháp giúp loại bỏ bớt tác nhân gây
bệnh trên bề mặt nhãn cầu. Joveeta J và
CS báo cáo 2 BN khỏi bệnh chỉ bằng
phương pháp bóc biểu mô [3]. Mặc dù vậy,
biểu mô giác mạc bị bóc đi có thể làm
tăng nguy cơ thâm nhập của tác nhân
vào lớp sâu hơn, gây nhiễm trùng thứ
phát, cần thực hiện phối hợp với điều trị
nội khoa [3]. Fan và CS đánh giá hồi cứu
14 mắt viêm kết giác mạc nông do
microsporidia được điều trị bằng nạo
biểu mô, với số lần nạo biểu mô trung bình
3,3 lần; kết hợp tra norfloxacin 0,3% để
phòng nhiễm trùng, thời gian điều trị trung
bình 6,6 ngày [8].
Nghiên cứu của chúng tôi, sau 3 tháng
theo dõi chưa gặp trường hợp nào tái
phát, tương tự như trong tổng kết của
Sujata D và CS sau theo dõi 3,5 năm ở
Ấn Độ [4]. Tuy nhiên, bệnh được ghi nhận
có thể tái phát do tác nhân phổ biến trong
tự nhiên [6].
KẾT LUẬN
Viêm kết giác mạc nông do microsporidia
xảy ra trên người có miễn dịch bình thường.
Tổn thương giác mạc là các chấm biểu
mô thô, gồ cao và bắt màu fluorescein.
Nhuộm Gram là phương tiện hữu ích để
tìm nguyên nhân gây bệnh. Điều trị bằng
thuốc kháng sinh, thuốc chống nấm có
hiệu quả. Cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn
hơn, nhiều phương pháp xét nghiệm hơn
và thời gian theo dõi dài hơn để tìm hiểu
thêm về các đặc điểm của bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Đông, Đặng Thị Minh Tuệ,
Trần Anh Thư. Microsporidia: tác nhân viêm
giác mạc nhu mô lần đầu tiên được phát
hiện ở Việt Nam. Tạp chí Nhãn khoa. 2015,
40, tr.13-20.
2. Maria Luisa Loboa L.X, Francisco
Antunesc, Olga Matos. Microsporidia as emerging
pathogens and the implication for public health:
A 10-year study on HIV-positive and-negative
patients. International Journal for Parasitology.
2012, 42 (2), pp.197-205.
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2018
135
3. Joseph J, Sridhar M.S, Murthy S et al.
Clinical and microbiological profile of
microsporidial keratoconjunctivitis in
Southern India. Ophthalmology. 2006, 113 (4),
pp.531-537.
4. Das S, Sharma S, Sahu S.K et al.
Diagnosis, clinical features and treatment
outcome of microsporidial keratoconjunctivitis.
British Journal of Ophthalmology. 2012, 96 (6).
5. Tham A.C, Sanjay S. Clinical spectrum
of microsporidial keratoconjunctivitis. Clinical
& Experimental Ophthalmology. 2012, 40 (5),
pp.512-518.
6. Loh R.S, Chan C.M.L, Ti S.E et al.
Emerging prevalence of microsporidial keratitis
in Singapore: epidemiology, clinical features
and management. Ophthalmology. 2009, 116 (12),
pp.2348-2353.
7. Khandelwal S.S, Woodward M.A, Hall T
et al. Treatment of microsporidia keratitis with
topical voriconazole monotherapy. Archives of
Ophthalmology. 2011, 129 (4), pp.509-510.
8. Fan N.W, Lin P.Y, Chen T.L et al.
Treatment of microsporidial keratoconjunctivitis
with repeated corneal swabbing. American Journal
of Ophthalmology. 2012, 154 (6), pp.927-933.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_lam_sang_va_ket_qua_dieu_tri_viem_ket_giac_mac_nong.pdf