Về sự phân bố theo giới tính, tỉ lệ giữa nam và nữ có
tổn thương quanh chóp mạn tính có khác biệt giữa các
nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, u hạt quanh chóp
gặp nhiều hơn ở nữ (1:3,3), ngược lại, nang quanh
chóp gặp nhiều hơn ở phái nam (1,1:1). Sự khác biệt
mẫu nghiên cứu có thể là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ
phân bố khác với các nghiên cứu trước đây; tuy nhiên
theo y văn, những bệnh lý này thường không thể hiện
bất kỳ xu hướng giới tính nào rõ rệt6,15,24.
Nghiên cứu này nhận thấy vùng răng trước hàm trên
và vùng răng sau hàm dưới là vị trí thường gặp của
tổn thương viêm quanh chóp mạn tính, tương tự với
nhiều nghiên cứu trước6,15,22,25–27. Kết quả nghiên
cứu cho thấy sự phân bố về vị trí giải phẫu giữa u hạt
quanh chóp và nang quanh chóp là khác nhau đáng
kể (vùng răng sau hàm trên và vùng răng sau ở cả hai
hàm). Những lý do dẫn đến sự phân bố giải phẫu khác
biệt này vẫn chưa được biết, nhưng có thể suy đoán
rằng nang quanh chóp phổ biến hơn ở vùng răng sau
vì các bác sĩ lâm sàng thường chỉ định nhổ răng vùng
này thường xuyên hơn so với điều trị nội nha do đặc
điểm giải phâũ hệ thống ống tuỷ răng sau thường phức
tạp gây những khó khăn trong kỹ thuật nội nha2.
Nghiên cứu này ghi nhận phần lớn bệnh nhân đến
khám không có triệu chứng lâm sàng (30,4%), điều
này cũng được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu2,21.
Tuy nhiên, phồng xương là triệu chứng đáng chú ý
nhất. nghiên cứu ghi nhận 20,4% ca nang quanh chóp
có biểu hiện phồng xương, trong khi chỉ có 2,3% ca
u hạt quanh chóp gây phồng xương (có kích thước
trên phim X quang ghi nhận được là 2,4 cm) (p<0,05).
Hầu hết, nang quanh chóp thường phát triển chậm, và
ngày càng lớn hơn về kích thước do cơ chế phát triển
của tổn thương - cân bằng áp suất thẩm thấu. Điều
này có thể dẫn tới biểu hiện phồng xương khi nang
đạt kích thước lớn. Ngược lại, u hạt quanh chóp hiếm
khi ghi nhận được các ca bệnh đạt kích thước lớn trên
2 cm7,28.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm mô bệnh học tổn thương viêm quanh chóp chân răng mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu
1Khoa Răng HàmMặt, Đại học Y Dược
TP.HCM
2Bộ môn Bệnh học miệng, Khoa Răng
HàmMặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Liên hệ
Phạm Thị Diệu Linh, Khoa Răng Hàm Mặt,
Đại học Y Dược TP.HCM
Email: linh12sinh@gmail.com
Lịch sử
Ngày nhận: 06-7-2020
Ngày chấp nhận: 03-8-2020
Ngày đăng: 06-9-2020
DOI :
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Đặc điểmmô bệnh học tổn thương viêm quanh chóp chân răng
mạn tính
Phạm Thị Diệu Linh1,*, Võ Đắc Tuyến2, Nguyễn Thị Kim Chi2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Viêm quanh chóp chân răng mạn tính là một trong những bệnh lý thường gặp trong thực hành
nha khoa do biến chứng của răng bị hoại tử tủy. Chẩn đoán bệnh thường dựa vào các triệu chứng,
dấu chứng lâm sàng, X quang và mô bệnh học. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá và mô tả đặc
điểm mô bệnh học của các tổn thương viêm quanh chóp mạn sau phẫu thuật, đồng thời phân
tích mối liên quan giữa các đặc điểm này với đặc điểm lâm sàng. Mẫu nghiên cứu gồm 92 tổn
thương quanh chóp được thu thập tại bệnh viện Răng Hàm Mặt TP.HCM và Bệnh viện Răng Hàm
Mặt Trung Ương TP.HCM từ tháng 6/2019 đến tháng 1/2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ
phân bố nam:nữ là 1:1,6; tuổi mắc bệnh từ 10-70 tuổi, trung bình là 35,5 tuổi. Về đặc điểm lâm
sàng có 30,4% tổn thương không có triệu chứng / dấu chứng lâm sàng, 28,3% gõ dọc đau, 27,2%
sưng nướu, 12% gây phồng xương, 18,5% có lỗ dò và 3,3% có lung lay răng; vùng răng trước hàm
trên và vùng răng sau hàm dưới là vị trí thường gặp. Về đặc điểm mô bệnh học, có 49/92 ca nang
quanh chóp và 43/92 là u hạt quanh chóp. Trong 49 ca nang quanh chóp, có 47 ca có biểu mô gai
lát tầng, 2 ca có tế bào tiết nhầy trong biểu mô, 3 ca có khe nứt cholesterol, 3 ca có thể hyaline.
Trong 43 ca u hạt quanh chóp, các tổn thương bao gồm các tế bào viêm mạn tính, có 3 ca có khe
nứt cholesterol. Về đặc điểm sợi collagen, ở nang quanh chóp, sợi collagen ở thành mô đệm sợi
dày và có sự sắp xếp tuyến tính còn ở u hạt quanh chóp, sợi collagen trong mô đệm sợi dường
như mỏng hơn và sắp xếp rời rạc hơn. Qua phân tích mô bệnh học cho thấy tỉ lệ giữa u hạt quanh
chóp và nang quanh chóp không có sự khác biệt nhiều, u hạt quanh chóp chiếm 46,7%, và nang
quanh chóp tỉ lệ là 53,3%, không ghi nhận ca áp xe quanh chóp mạn nào. Tỉ lệ nang quanh chóp
ở vùng răng sau là 67,3%, cao hơn so với tỉ lệ u hạt quanh chóp là 41,9% (p < 0,05).
Từ khoá: Tổn thương viêm quanh chóp mạn tính, nang quanh chóp, u hạt quanh chóp
ĐẶT VẤNĐỀ
Viêm quanh chóp chân răng mạn tính là bệnh lý
thường gặp ở vùng quanh chóp do biến chứng của
răng bị hoại tử tủy. Tổn thương quanh chópmạn tính
bao gồm nang quanh chóp, u hạt quanh chóp và áp xe
quanh chóp mạn, trong đó, nang quanh chóp và u hạt
quanh chóp là những bệnh lý phổ biến nhất, chiếm
tỉ lệ khoảng 95%1. Trong đó, tỉ lệ nang quanh chóp
từ 15% đến 62%, tỉ lệ u hạt quanh chóp từ 38% đến
70%2–4.
Nang quanh chóp và u hạt quanh chóp có những đặc
điểm rất tương đồng về lâm sàng, X quang vàmôbệnh
học. Tuy nhiên việc điều trị và tiên lượng giữa nang
quanh và u hạt quanh chóp là khác nhau, do đó việc
hiểu rõ và phân biệt giữa hai tổn thương này dựa trên
các đặc điểm khác biệt về lâm sàng, X quang và mô
bệnh học sẽ giúp các thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán
đúng và điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân.
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá và mô tả đặc
điểm mô bệnh học của các tổn thương viêm quanh
chóp mạn sau phẫu thuật, đồng thời phân tích mối
liên quan giữa các đặc điểm này với đặc điểm lâm
sàng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
Chọnmẫu thuận tiện gồm 92 tổn thương quanh chóp
trong số 85 bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh
việnRăngHàmMặtTP.HCMvàBệnh việnRăngHàm
Mặt Trung Ương TP.HCM từ tháng 6/2019 đến tháng
1/2020.
Tiêu chuẩn chọn lựa
• Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và có hồ
sơ bệnh án đầy đủ.
• Có tổn thương vùng chóp chân răng trên phim
X quang.
• Thu thập được bệnh phẩm làm xét nghiệm mô
bệnh học và kết quả chẩn đoán mô bệnh học
nang quanh chóp, u hạt quanh chóp hoặc áp xe
quanh chóp mạn.
Tríchdẫnbài báonày: Linh P TD, Tuyến VD, Chi N T K.Đặcđiểmmôbệnhhọc tổn thương viêmquanh
chóp chân răngmạn tính. Sci. Tech. Dev. J. - Health Sci.; 1(1):9-17.
9
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kỹ thuật thu thập số liệu
Thu thập các dữ liệu lâm sàng
Tuổi, giới, lí do đến khám, vị trí tổn thương, triệu
chứng lâm sàng (đau, sưng nướu, phồng xương, lung
lay răng, lỗ dò).
Thu thập dữ liệu giải phẫu bệnh
Bệnh phẩm được thu thập từ phẫu thuật nạo nang +
cắt chóp hoặc nhổ răng + nạo mô viêm trong xương
ổ răng, được cố định trong dung dịch formalin 10%.
Xử lý mô và đúc khối sáp được thực hiện tại Bộ môn
Giải Phẫu Bệnh, Đại Học Y Dược TP.HCM.
Qui trình nhuộm Hematoxylin & Eosin (HE) và đọc
kết quả mô bệnh học được thực hiện tại labo Giải
Phẫu Bệnh khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược
TP.HCM. Tiêu chuẩn chẩn đoán các tổn thương mạn
tính quanh chóp:
• Nang quanh chóp: tổn thương viêmquanh chóp
với hình ảnhmột khoang bệnh lý riêng biệt được
lót bởi một lớp biểu mô5.
• U hạt quanh chóp: tổn thương viêmquanh chóp
mạn tính bao gồm mô hạt, thấm nhập tế bào
lympho, tương bào và đại thực bào 6.
• Áp xe quanh chóp: tập hợp các tế bào bạch cầu
đa nhân xen kẽ với dịch tiết viêm, mảnh vụn tế
bào, vật liệu hoại tử, khuẩn lạc vi khuẩn hoặcmô
bào7.
Xử lý số liệu
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo
đức trong nghiên cứu y sinh của Đại học Y Dược
TP.HCM, quyết định số 231/ĐHYD-HĐĐĐ ngày
24/4/2019.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU
Đặc điểmmẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 35,5 15,2 tuổi
(nhỏ nhất là 10 tuổi, lớn nhất là 70 tuổi).
Tổn thương viêm quanh chóp mạn tính thường gặp
ở nữ giới nhiều hơn so với nam, với tỉ lệ phân bố
nam:nữ là 1:1,6.
Vùng răng trước hàm trên và vùng răng sau hàm dưới
là những vị trí thường gặp của tổn thương.
Phần lớn bệnh nhân đến khámkhông có biểu hiện các
triệu chứng lâm sàng. Các triệu chứng lâm sàng ghi
nhận là gõ dọc đau, sưng nướu, lỗ dò, phồng xương.
• 28/92 (30,4%) không triệu chứng / dấu chứng
lâm sàng
• 26/92 (28,3%) gõ dọc đau
• 25/92 (27,2%) sưng nướu
• 11/92 (12%) phồng xương
• 17/92 (18,5%) lỗ dò
• 3/92 (3,2%) lung lay răng
Đặc điểm giải phẫu bệnh
Đặc điểm đại thể
Trong 92 tổn thương được khảo sát, có 37 ca thấy rõ
lòng nang (tỉ lệ 40,2%) và 55 ca không có/ không rõ
lòng nang, nát (tỉ lệ 58,8%) (Hình 1).
Đặc điểm vi thể
• 49/92 tổn thương có lớp biểu mô lót, kết luận là
nang quanh chóp (53,3%) (Hình 2).
• 43/92 tổn thương không có lớp biểu mô lót, kết
luận là u hạt quanh chóp (46,7%) (Hình 3).
• 47/49 ca nang quanh chóp có biểu mô gai lát
tầng (95,9%) (Hình 2 A-B).
• 2/49 ca nang quanh chóp có tế bào tiết nhầy
trong lớp biểu mô gai (4,1%) (Hình 2 C-D).
• 3/49 nang quanh chóp có khe nứt cholesterol
(6,1%); 3/43 ca u hạt quanh chóp có khe nứt
cholesterol (7%) (Hình 4 A).
• Thể hyaline được tìm thấy trong 3/49 nang
quanh chóp (6,1%) (Hình 4 B).
• Sợi collagen ở thành mô đệm sợi của nang
quanh chóp dày và sắp xếp tuyến tính; trong khi
ở u hạt quanh chóp, các sợi collagen mỏng hơn
và sắp xếp rời rạc (Hình 5).
Tóm lại, 92 tổn thương quanh chóp bao gồm 49 nang
quanh chóp (53,3%), 43 u hạt quanh chóp (46,7%),
không có ca nào là áp xe quanh chóp mạn.
Liên quan giải phẫu bệnh - lâm sàng
Về tuổi, tuổi trung bình của bệnh nhân có nang quanh
chóp là 40,7 15,5 tuổi, của bệnh nhân có u hạt
quanh chóp là 29,3 12,5 tuổi.
Về sự phân bố theo giới tính, tỉ lệ nam:nữ ở nang
quanh chóp là 1,1:1, ở u hạt quanh chóp là 1:3,3
(p<0,05).
Về vị trí, vùng răng trước hàm trên và vùng răng sau
hàm dưới là những vị trí thường gặp ở cả hai nhóm
bệnh. Tuy nhiên, tỉ lệ nang quanh chóp ở vùng răng
sau là 67,3%, cao hơn so với tỉ lệ u hạt quanh chóp là
41,9% (p<0,05) (Bảng 1).
Về triệu chứng / dấu chứng lâm sàng, không có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa nang quanh chóp và u hạt
10
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
Hình 1: Tổn thương được lấy ra dạng bọc nang, có lòng nang (trái). Tổn thương được lấy ra dạng nhữngmảnhmô
vụn, nát (phải)
quanh chóp về tỉ lệ gõ dọc đau, sưng nướu, lỗ dò,
lung lay răng cũng như tỉ lệ bệnh nhân không có triệu
chứng. Tuy nhiên, 20,4% nang quanh chóp có biểu
hiện phồng xương, trong khi ở u hạt quanh chóp tỉ lệ
này là 2,3% (p<0,05) (Bảng 2).
Bảng 1: So sánh vị trí tổn thương của nang quanh
chóp và u hạt quanh chóp
Nang quanh
chóp (49)
U hạt
quanh
chóp (43)
p (*)
n (%) n (%)
Hàm trên 25 (51) 19 (44,2) 0,513
Răng trước 19 (76) 17 (89,5) 0,433
(**)
Răng sau 12 (48) 2 (10,5) 0,008
Hàm dưới 24 (49) 24 (55,8) 0,513
Răng trước 5 (20,8) 8 (33,3) 0,330
Răng sau 21 (87,5) 16 (66,7) 0,086
Cả hai hàm
Răng trước 24 (49) 25 (58,1) 0,380
Răng sau 33 (67,3) 18 (41,9) 0,014
(*) Kiểm định c2 , (**) Kiểm định Fisher
THẢO LUẬN
Tổn thương quanh chóp răng là một trong các bệnh
lý thường gặp nhất do biến chứng của một răng đã
chết tủy. Do mối liên hệ chặt chẽ giữa bệnh lý tủy và
bệnh lý quanh chóp nên trong hầu hết các trường hợp,
tổn thương ở tủy là tiền đề của viêm quanh chópmạn
Bảng 2: So sánh các triệu chứng / dấu chứng lâm sàng
của bệnh nhân nang quanh chóp và u hạt quanh chóp
Nang
quanh
chóp (49)
U hạt
quanh
chóp (43)
p (*)
n (%) n (%)
Gõ dọc đau 15 (30,6) 11 (25,6) 0,593
Sưng nướu 12 (24,5) 13 (30,2) 0,537
Phồng xương 10 (20,4) 1 (2,3) 0,008
Lỗ dò 10 (20,4) 7 (16,3) 0,611
Lung lay răng 2 (4,1) 1 (2,3) 1,000
(**)
Không triệu
chứng
14 (28,6) 14 (32,6) 0,678
(*) Kiểm định c2 , (**) Kiểm định Fisher
tính. Tình trạng này khá phổ biến và có thể gây đau
nhức, khó chịu ở bệnh nhân, tuy nhiên đôi khi việc
điều trị gặp nhiều khó khăn, và cả thất bại8,9.
Liên quan đến việc phân loại các tổn thương viêm
quanh chóp mạn tính, Nair và c.s. (1996) đã đề xuất
phân loại dựa trên đặc điểm mô học của các tổn
thương và từ đó tổn thương viêm quanh chóp mạn
tính có thể được phân thành 3 nhóm: u hạt quanh
chóp, nang quanh chóp và áp xe quanh chóp mạn3.
Leonardi và c.s. (2005) cho rằng cả nang quanh chóp
và u hạt quanh chóp là đại diện cho hai giai đoạn phát
triển khác nhau trong cùng một quá trình viêm, đặc
trưng bởi sự góp mặt của các tế bào lympho, tương
bào và đại thực bào vàomô hạt. Phần tiếp theo của sự
hình thành u hạt là sự tăng sinh của phần còn lại của
11
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
biểu mô Malassez liên quan đến quá trình viêm, có
thể dẫn đến sự phát triển của một nang viêm – nang
quanh chóp10.
Một số nghiên cứu đã phân loại u hạt quanh chóp
với thâm nhiễm viêm cấp tính là áp xe quanh chóp
răng mà không phải là u hạt quanh chóp, làm tăng số
lượng áp xe quanh chóp3,11. Trongmẫu hiện tại, u hạt
quanh chóp và nang quanh chóp đáp ứng các tiêu chí
mô học cần thiết, ngay cả khi liên quan đến sự hiện
diện của thâm nhiễm viêm cấp tính gợi ý hình thành
áp xe, vâñ được phân loại là nang quanh chóp hoặc
u hạt quanh chóp. Bản thân áp xe thực sự là mô thoái
hoá lỏng, không thể lấy mâũ mô làm xét nghiệm gi-
ải phâũ bệnh, do đó trong nghiên cứu này không ghi
nhận ca áp xe quanh chóp nào.
Tỉ lệ u hạt quanh chóp được ghi nhận trong nghiên
cứu này là 46,7%, nang quanh chóp là 53,3%. Tỉ lệ
nang quanh chóp thay đổi từ 15-65% ở nhiều nghiên
cứu2,3,6,12–14. Trên thực tế, số liệu từ các nghiên cứu
được công bố không phản ánh tỷ lệ nang quanh chóp
và u hạt quanh chóp thực sự trong mỗi dân số, vì kết
quả dựa trên các tổn thương quanh chóp mạn tính
được điều trị bằng phẫu thuật và mâũ mô đánh giá
mô học Điều này để lại các sai lệch trong lựa chọn,
vì không bao gồm các trường hợp đáp ứng thuận lợi
với điều trị nội nha không phẫu thuật. Tuy nhiên, các
nghiên cứu dựa trên các phương pháp này là nguồn
duy nhất cho sự khác biệt đáng tin cậy giữa u hạt
quanh chóp và nang quanh chóp15.
Các nang quanh chóp đều được lót hoàn toàn bằng
một phần hoặc hoàn toàn bởi lớp biểu mô gai, dày
khoảng từ 6-20 hàng tế bào. Bản chất của lớp biểu
mô lót phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của nang
hoặc cường độ của phản ứng viêm 4,16. Điều này phù
hợp với kết quả được tìm thấy trong nghiên cứu này.
Ở giai đoạn sớm, lớp lót biểu mô có thể tăng sinh và
thể hiện sự uốn lượn ở nhú biểumô với cường độ liên
quan đến quá trình viêm (Hình 6 A) nhưng khi nang
mở rộng, lớp lót trở nên không hoạt động, nhú biểu
mô khá đều đặn và phẳng (Hình 6 B).
Các tế bào nhầy thường được tìm thấy trong lớp biểu
mô gai lát tầng trong nang quanh chóp, nhưmột hàng
liên tục hoặc dưới dạng các tế bào rải rác. Takeda và
c.s. (2005) tìm thấy các tế bào nhầy trong 18% nang
quanh chóp thu thập được17. Các nhà nghiên cứu tin
rằng tế bào nhầy là do các tế bào biểu mô gai biệt hóa
thành. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy 2/49
trường hợp nang quanh chóp có biểu mô có tế bào
nhầy (4,1%), tỉ lệ khá thấp.
Khe nứt cholesterol được tìm thấy trong nhiều nang
quanh chóp, nhưng không ở tất cả các nang. Nghiên
cứu này, chúng tôi ghi nhận 6,1% nang quanh chóp có
khe nứt cholesterol, Lin và c.s. báo cáo chỉ có 5,6% 6,
Chen và c.s. lại cho thấy có 23,3% 18. Nhiều khả năng
là nếu toàn bộ lớp lót lòng nang được kiểm tra thay vì
chỉ khảo sát lại vị trí lát cắt, tỉ lệ này sẽ cao hơn. Khe
nứt cholesterol cũng được tìm thấy trong u hạt quanh
chóp với tỉ lệ tương tự. Các nhà nghiên cứu cho rằng
nguồn cholesterol là từ các tế bào hồng cầu phân rã ở
dạng dễ dàng kết tinh trong các mô, và các tinh thể có
thể hình thành trong các mao mạch bị tắc nghẽn19,
luôn được bao quanh bởi các tế bào khổng lồ 4. Nair
và c.s. (2008) đã chỉ ra rằng các đại thực bào và các
tế bào khổng lồ không thể loại bỏ các chất lắng đọng
cholesterol.
Việc các tế bào thực bào này thiếu enzyme để tiêu hóa
cholesterol hay tinh thể cholesterol quá lớn không thể
tiêu hoá hết được là vấn đề còn đang được tranh cãi6.
Thể hyaline được tìm thấy trong khoảng 10% lớp lót
biểu mô của nang quanh chóp, rất hiếm khi hiện diện
trong thành nang7. Nghiên cứu này, chúng tôi ghi
nhận 3/49 nang quanh chóp có thể hyaline (6,1%),
tương tự với nghiên cứu của Jacob và c.s. (2010) báo
cáo rằng có 2/50 ca nang quanh chóp có thể hyaline20.
Một số nhà nghiên cứu tin rằng các thể hyaline giống
như lớp biểu bì men thứ cấp bị keratin hóa. Họ ủng
hộ quan điểm rằng các thể hyaline là một sản phẩm
bài tiết của các tế bào biểu mô không sinh sản được
hình thành giống như lớp biểu bì men thứ cấp. Các
nhà nghiên cứu khác lại cho rằng cho thể hyaline bắt
nguồn từ sự thoái hóa của các tế bào hồng cầu, nhưng
không giải thích được sự xuất hiện gần như đặc hiệu
của nó trong lớp biểu mô19. Mặc dù nguồn gốc của
thể hyaline đến nay vẫn chưa được làm rõ, tuy nhiên
đa số quan điểm hiện nay vẫn cho rằng đây là sản
phẩm của biểu mô do răng, việc nghiên cứu về pro-
tein men trong các cấu trúc này có thể góp phần giải
thích nguồn gốc của chúng.
Khi so sánh với u hạt quanh chóp, ngoài các cấu trúc
đặc trưng cho nang quanh chóp, chúng tôi ghi nhận
được sợi collagen ở thànhmô đệm sợi của tổn thương
u hạt quanh chóp mỏng hơn và sắp xếp rời rạc hơn
so với nang quanh chóp. Các sợi collagen ở rìa tổn
thương u hạt như một màng bao quanh, với vai trò
hạn chế quá trình viêm 21. Sự phát triển của nang
quanh chóp do tăng áp lực thẩm thấu trong lòng nang,
gây áp lực lên thành mô đệm sợi có thể là lí do giải
thích cho sự hình thành sợi collagen dày và sắp xếp
tuyến tính hơn.
Về khía cạnh lâm sàng, chúng tôi ghi nhận tuổi trung
bình của các bệnh nhân có tổn thương quanh chóp
mạn tính là 35,5 tuổi, lớn hơn so với nghiên cứu của
Gbadebo và c.s. (2014) ghi nhận là 32,2 tuổi 22, các
nghiên cứu khác cho thấy tổn thương thường gặp ở
nhóm tuổi 40, theo Hakan và c.s. (2011) 23, Tavares
và c.s. (2017)2. Sự phổ biến của các tổn thương này
12
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
Hình2: Nang quanh chóp với lớp biểumô gai lát tầng (A: NhuộmHE, độ phóng đại 40, thang đo 200mm, B: phóng
lớn của A, độ phóng đại 100). Nang quanh chóp với biểu mô có tế bào tiết nhầy (C: Nhuộm HE, độ phóng đại 40,
thang đo 200mm, D: phóng lớn của C, độ phóng đại 100)
Hình 3: U hạt quanh chóp thấm nhập các tế bào viêm mạn (A: Nhuộm HE, độ phóng đại 100, thang đo 50mm, B:
phóng lớn của A, độ phóng đại 400)
13
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
Hình 4: Khe nứt cholesterol trong biểu mô nang (A: Nhuộm HE, độ phóng đại 100, thang đo 50mm) Thể hyaline
trong biểu mô nang (B: Nhuộm HE,độ phóng đại 100, thang đo 50mm)
Hình 5: Thànhmô đệm sợi của nang quanh chóp với bó sợi collagen dày, sắp xếp tuyến tính (A: NhuộmMasson’s
Trichrome – MT, độ phóng đại 40, thang đo 200mm, B: Nhuộm MT, độ phóng đại 100, thang đo 50mm). Mô đệm
sợi của u hạt quanh chóp với các sợi collagen mỏng, sắp xếp rời rạc (C: Nhuộm MT, độ phóng đại 40, thang đo
200mm, D: NhuộmMT, độ phóng đại 100, thang đo 50mm)
14
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
Hình 6: Nang quanh chóp với nhú biểumô uốn lượn trong giai đoạn sớm (A: NhuộmHE, độ phóng đại 100, thang
đo 50mm). Nang quanh chóp với biểu mô đều đặn và phẳng (B: Nhuộm HE, độ phóng đại 100, thang đo 50mm)
đối với bệnh nhân ở các nhóm tuổi này có lẽ liên quan
đến sự diễn tiến chậm cũng như ít triệu chứng của tổn
thương; ngoài ra ở giai đoạn này, sinh lý giải phẫu ống
tủy chân răng thường hẹp hơn dẫn đến những khó
khăn trong điều trị nội nha, khả năng nội nha thành
công thấp, nội nha lại và cần phải nhổ răng do sâu
răng hoặc bệnh nha chu có liên quan đến nội nha.
Về sự phân bố theo giới tính, tỉ lệ giữa nam và nữ có
tổn thương quanh chópmạn tính có khác biệt giữa các
nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, u hạt quanh chóp
gặp nhiều hơn ở nữ (1:3,3), ngược lại, nang quanh
chóp gặp nhiều hơn ở phái nam (1,1:1). Sự khác biệt
mẫu nghiên cứu có thể là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ
phân bố khác với các nghiên cứu trước đây; tuy nhiên
theo y văn, những bệnh lý này thường không thể hiện
bất kỳ xu hướng giới tính nào rõ rệt6,15,24.
Nghiên cứu này nhận thấy vùng răng trước hàm trên
và vùng răng sau hàm dưới là vị trí thường gặp của
tổn thương viêm quanh chóp mạn tính, tương tự với
nhiều nghiên cứu trước 6,15,22,25–27. Kết quả nghiên
cứu cho thấy sự phân bố về vị trí giải phẫu giữa u hạt
quanh chóp và nang quanh chóp là khác nhau đáng
kể (vùng răng sau hàm trên và vùng răng sau ở cả hai
hàm). Những lý do dẫn đến sự phân bố giải phẫu khác
biệt này vẫn chưa được biết, nhưng có thể suy đoán
rằng nang quanh chóp phổ biến hơn ở vùng răng sau
vì các bác sĩ lâm sàng thường chỉ định nhổ răng vùng
này thường xuyên hơn so với điều trị nội nha do đặc
điểmgiải phâũhệ thống ống tuỷ răng sau thườngphức
tạp gây những khó khăn trong kỹ thuật nội nha 2.
Nghiên cứu này ghi nhận phần lớn bệnh nhân đến
khám không có triệu chứng lâm sàng (30,4%), điều
này cũng được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu 2,21.
Tuy nhiên, phồng xương là triệu chứng đáng chú ý
nhất. nghiên cứu ghi nhận 20,4% ca nang quanh chóp
có biểu hiện phồng xương, trong khi chỉ có 2,3% ca
u hạt quanh chóp gây phồng xương (có kích thước
trên phimX quang ghi nhận được là 2,4 cm) (p<0,05).
Hầu hết, nang quanh chóp thường phát triển chậm, và
ngày càng lớn hơn về kích thước do cơ chế phát triển
của tổn thương - cân bằng áp suất thẩm thấu. Điều
này có thể dẫn tới biểu hiện phồng xương khi nang
đạt kích thước lớn. Ngược lại, u hạt quanh chóp hiếm
khi ghi nhận được các ca bệnh đạt kích thước lớn trên
2 cm7,28.
KẾT LUẬN
Tổn thương viêm quanh chóp mạn tính thường gặp
ở nữ nhiều hơn nam, nhóm bệnh nhân trên 30 tuổi
chiếm đa số, phần lớn không biểu hiện triệu chứng
lâm sàng, vùng răng trước hàm trên và răng sau hàm
dưới là vị trí thường gặp.
Qua phân tích mô bệnh học cho thấy tỉ lệ giữa u hạt
quanh chóp và nang quanh chóp không có sự khác
biệt nhiều, u hạt quanh chóp chiếm 46,7%, và nang
quanh chóp tỉ lệ là 53,3%, không ghi nhận ca áp xe
quanh chóp mạn nào.
Tỉ lệ nang quanh chóp ở vùng răng sau là 67,3%, cao
hơn so với tỉ lệ u hạt quanh chóp là 41,9% (p<0,05).
ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ
PhạmThịDiệu Linh đã thu thập, phân tích các dữ liệu
nghiên cứu và viết bản thảo bài báo.
Võ Đắc Tuyến đã đưa ra ý tưởng và phương pháp
nghiên cứu, kiểm tra và phê chuẩn bản thảo sau cùng.
NguyễnThị KimChi đã kiểm tra dữ liệumô bệnh học
và sửa bản thảo.
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Các tác giả khẳng định không có xung đột lợi ích đối
với các nghiên cứu, tác giả và/hoặc bài báo.
15
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Sức khỏe, 1(1):9-17
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Alt KW, Türp JC, Wächter R. Periapical lesions-clinical and
anthropological aspects. Dental anthropology: Springer.
1998;p. 247–276. Available from: https://doi.org/10.1007/978-
3-7091-7496-8_14.
2. Tavares DP, Rodrigues JT, Dos Santos TC, Armada L, Pires FR.
Clinical and radiological analysis of a series of periapical cysts
and periapical granulomas diagnosed in a Brazilian popula-
tion. J Clin Exp Dent. 2017;9(1):e129–e135.
3. Ramachandran NPN, Pajarola G, Schroeder HE. Types and
incidence of human periapical lesions obtained with ex-
tracted teeth. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol
Endod;81(1):93–102. Available from: https://doi.org/10.1016/
S1079-2104(96)80156-9.
4. Schulz M, Arx T, Altermatt HJ, Bosshardt D. Histology of pe-
riapical lesions obtained during apical surgery. J Endod.
2009;35(5):634–642. PMID: 19410074. Available from: https:
//doi.org/10.1016/j.joen.2009.01.024.
5. El-Naggar AK, Chan JK, Grandis JR, Takata T, Slootweg PJ.WHO
classificationof head andneck tumours: International Agency
for Research on Cancer. 2017;.
6. Lin HP, Chen HM, Yu CH, Kuo RC, Kuo YS, Wang YP. Clinico-
pathological Study of 252 Jaw Bone Periapical Lesions From a
Private Pathology Laboratory. Journal of the Formosan Med-
ical Association. 2010;109(11):810–818. Available from: https:
//doi.org/10.1016/S0929-6646(10)60126-X.
7. Brad NDDD, Carl A, Jerry B. Oral and Maxillofacial Pathology.
3rd Edition edSt Louis,Missouri, TheUnited States of America:
Saunders/Elsevier. 2009;.
8. Garcia CC, Sempere FV, Diago MP, Bowen EM. The post-
endodontic periapical lesion: histologic and etiopathogenic
aspects. Med Oral Patol Oral Cir Bucal. 2007;12(8):E585–E590.
9. Nair PN. On the causes of persistent apical periodontitis: a re-
view. Int Endod J. 2006;39(4):249–281. PMID: 16584489. Avail-
able from: https://doi.org/10.1111/j.1365-2591.2006.01099.x.
10. Leonardi R, Caltabiano R, Loreto C. Collagenase-3 (MMP-
13) is expressed in periapical lesions: an immunohisto-
chemical study. Int Endod J. 2005;38(5):297–301. PMID:
15876293. Available from: https://doi.org/10.1111/j.1365-
2591.2005.00943.x.
11. Vier F, Figueiredo JA. Prevalence of different periapical le-
sions associated with human teeth and their correlation with
the presence and extent of apical external root resorption.
International endodontic journal;2002(35):710–719. PMID:
12196225. Available from: https://doi.org/10.1046/j.1365-
2591.2002.00554.x.
12. Ochsenius G, Escobar E, Godoy L, Peñafiel C. Odontogenic
cysts: analysis of 2,944 cases in Chile. Med Oral Patol Oral Cir
Bucal. 2007;12(2):E85–E91.
13. Daley TD, Wysocki GP, Pringle GA. Relative incidence of odon-
togenic tumors and oral and jaw cysts in a Canadian popu-
lation. Oral Surg Oral Med Oral Pathol. 1994;77(3):276–280.
Available from: https://doi.org/10.1016/0030-4220(94)90299-
2.
14. Nuñez-Urrutia S, Figueiredo R, Gay-Escoda C. Retrospective
clinicopathological study of 418 odontogenic cysts. Med Oral
Patol Oral Cir Bucal. 2010;15(5):e767–e773. PMID: 20383117.
Available from: https://doi.org/10.4317/medoral.15.e767.
15. Love RM, Firth N. Histopathological profile of surgically re-
moved persistent periapical radiolucent lesions of endodon-
tic origin. Int Endod J. 2009;42(3):198–202. PMID:
19228208. Available from: https://doi.org/10.1111/j.1365-
2591.2008.01500.x.
16. Loyola AM, Cardoso SV, Lisa GS, Oliveira LJ, Mesquita RA,
CarmoMA, et al. Apoptosis in epithelial cells of apical radicular
cysts. Int Endod J. 2005;38(7):465–469. PMID: 15946267. Avail-
able from: https://doi.org/10.1111/j.1365-2591.2005.00971.x.
17. Takeda Y, Oikawa Y, Furuya I, Satoh M, Yamamoto H. Mucous
and ciliated cell metaplasia in epithelial linings of odonto-
genic inflammatory and developmental cysts. Journal of Oral
Science. 2005;47(2):77–81. PMID: 16050487. Available from:
https://doi.org/10.2334/josnusd.47.77.
18. Chen JH, Tseng CH, Wang WC, Chen CY, Chuang FH, Chen YK.
Clinicopathological analysis of 232 radicular cysts of the jaw-
bone in a population of southern Taiwanese patients. Kaoh-
siung J Med Sci. 2018;34(4):249–254. PMID: 29655415. Avail-
able from: https://doi.org/10.1016/j.kjms.2018.01.011.
19. Shear M, Speight P. Cysts of the oral andmaxillofacial regions:
John Wiley & Sons. 2008;Available from: https://doi.org/10.
1002/9780470759769.
20. Jacob S. Rushton bodies or hyaline bodies in radicular
cysts: a morphologic curiosity. Indian J Pathol Microbiol.
2010;53(4):846–847. PMID: 21045441. Available from: https:
//doi.org/10.4103/0377-4929.72081.
21. Croitoru IC, CraiToiu S, PetcuCM,MihailescuOA, PascuRM, Bo-
bic AG, et al. Clinical, imagistic and histopathological study
of chronic apical periodontitis. Rom J Morphol Embryol.
2016;57(2):719–728.
22. Gbadebo SO, Akinyamoju AO, SulaimanAO. Periapical pathol-
ogy: comparison of clinical diagnosis and histopathological
findings. Journal of the West African College of Surgeons.
2014;4(3):74–88.
23. Ozbas H, Asci S, Aydin Y. Examination of the prevalence of pe-
riapical lesions and technical quality of endodontic treatment
in a Turkish subpopulation. Oral Surg Oral Med Oral Pathol
Oral Radiol Endod. 2011;112(1):136–142. PMID: 21458324.
Available from: https://doi.org/10.1016/j.tripleo.2011.01.010.
24. Carrillo C, Penarrocha M, Ortega B, Martí E, Bagán JV, Vera
F. Correlation of radiographic size and the presence of ra-
diopaque laminawith histological findings in 70 periapical le-
sions. J Oral Maxillofac Surg. 2008;66(8):1600–1605. PMID:
18634946. Available from: https://doi.org/10.1016/j.joms.
2007.11.024.
25. Becconsall-Ryan K, Tong D, Love RM. Radiolucent inflam-
matory jaw lesions: a twenty-year analysis. Int Endod J.
2010;43(10):859–865. PMID: 20738428. Available from: https:
//doi.org/10.1111/j.1365-2591.2010.01751.x.
26. Del CG, Righi A, Bombardi M, Rossi B, Dallera V, Pelliccioni
GA, et al. Jaw cysts diagnosed in an Italian population over
a 20-year period. Int J Surg Pathol. 2014;22(8):699–706.
PMID: 25015670. Available from: https://doi.org/10.1177/
1066896914541000.
27. Meningaud JP, Oprean N, Pitak-Arnnop P, Bertrand JC. Odon-
togenic cysts: a clinical study of 695 cases. J Oral Sci.
2006;48(2):59–62. PMID: 16858133. Available from: https:
//doi.org/10.2334/josnusd.48.59.
28. Langlais RP, LanglandOE, Nortjé CJ. Diagnostic imaging of the
jaws: Williams & Wilkins. 1995;p. 195–208.
16
Science & Technology Development Journal – Health Sciences, 1(1):9-17
Open Access Full Text Article Research Article
1Faculty of Odonto-Stomatology,
University of Medicine and Pharmacy at
Ho Chi Minh City
2Department of Oral Pathology, Faculty
of Odonto-Stomatology, University of
Medicine and Pharmacy at Ho Chi
Minh City
Correspondence
Pham Thi Dieu Linh, Faculty of
Odonto-Stomatology, University of
Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh
City
Email: linh12sinh@gmail.com
History
Received: 06-7-2020
Accepted: 03-8-2020
Published: 06-9-2020
DOI :
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Histopathological features of chronic periapical lesions
Pham Thi Dieu Linh1,*, Vo Dac Tuyen2, Nguyen Thi Kim Chi2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Chronic periapical inflammation, the sequela of necrotic pulp, is one of themost common diseases
in dental practice. The diagnosis of these lesions is based on clinical presentation, radiological
features and histopathological examination. The aim of this study was to evaluate the clinico-
pathological features of chronic inflammatory periapical lesions. 92 periapical lesions were col-
lected at HCMC Odonto-Stomatology Hospital and HCMC National Odonto-Stomatology Hospital
at HCM from June 2019 to January 2020. Male to female ratio was 1:1.6, the age range was 10-70
with average age was 35.5 years old. In terms of clinical features, 30.4% of patients were asymp-
tomatic, 28.3% had percussion sensitivity, 27.2% had swelling, 12% had cortical expansion, 18.5%
had intraoral fistula and 3.3% had tooth mobility. The most frequently- involved locations were the
anteria maxilla and posterior mandible. Histopathological results confirmed 49 radicular cysts and
43 periapical granulomas. In most cases of radicular cyst (47 cases, 96%), the cyst was lined with
nonkeratinized stratified squamous epithelium, with two cases containing mucous cells, 3 cases
were observed with cholesterol clefts and 3 cases with Hyaline bodies. In 43 cases of periapical
granulomas, the lesions included chronic inflammatory cells and 3 cases with cholesterol clefts.
The collagen fibers in fibrous stroma of radicular cysts appeared to be thicker and more linearly ar-
ranged while they seemed to be thinner in scattered pattern in periapical granulomas. There was
no significant difference between the prevalence of radicular cysts (53.3%) and periapical granulo-
mas (46.7%), no case of chronic periapical abscess was recorded. The ratio of radicular cysts (67.3%)
was significantly higher than periapical granulomas (41.9%) at the posterior areas (p<0.05).
Key words: Chronic periapical lesions, radicular cyst, periapical granulomas
Cite this article : Linh P T D, Tuyen V D, Chi N T K. Histopathological features of chronic periapical
lesions . Sci. Tech. Dev. J. - Health Sci.; 1(1):9-17.
17
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_mo_benh_hoc_ton_thuong_viem_quanh_chop_chan_rang_ma.pdf