Mức độ biểu hiện gene BCL11A
Trong vài nghiên cứu nước ngoài gần đây, bằng
cách phân tích dữ liệu gen từ hơn 3000 bệnh nhân
ung thư biểu mô tuyến vú, gene BCL11A biểu hiện
mức cao đáng kể ở cả cấp độ RNA và protein, đặc
biệt cao trong phân nhóm bộ ba âm tính của bệnh
nhân UTV. Việc biểu hiện quá mức của gene BCL11A
ảnh hưởng đến chương trình chết theo lập trình của
tế bào (apoptosis) thông qua trung gian p53 (gen áp
chế khối u). Do đó, các nghiên cứu này nhận định
rằng gene BCL11A cùng với một số gene khác như
HMGA1, FOXC1 đã được nghiên cứu được xem
như là các dấu ấn sinh học để chẩn đoán và một
số đã được coi là mục tiêu điều trị tiềm năng của
bệnh nhân UTV thể bộ ba âm tính [8, 9]. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi mức biểu hiện gene
BCL11A đều rất thấp trong tất cả các phân nhóm
phân tử của bệnh nhân UTBM tuyến vú, đặc biệt là
trong phân nhóm bộ ba âm tính, không giống như
những gì được báo cáo trong các tài liệụ trước đó.
Điểu này có thể giải thích do mẫu khối u được cố
định bằng dung dịch formol và nhúng trong paraffin
dẫn đến giảm chất lượng của axit nucleic làm ảnh
hưởng đến kết quả PCR.
Tuy vậy, với kết quả của nghiên cứu này cũng đã
góp phần giúp chúng ta hiểu hơn về đặc điểm của
gene trong các phân nhóm phân tử của bệnh nhân
UTV. Các thử nghiệm truy tìm nguồn gốc trong tương
lai sẽ xác định xem gene BCL11A có biểu hiện trong
tế bào tổ tiên của phân nhóm lòng ống (luminal) và
phân nhóm basal hoặc trong các bipotent MaSCs
(mammary stem cell) hay không?
Nếu đưa ra được bằng chứng gene BCL11A điều
hòa trong việc phát triển các tế bào tiền thân phân
nhóm basal-like, điều này sẽ rất quan trọng và là
một trong những bước đầu tiên trong phát triển liệu
pháp điều trị đích cho những bệnh nhận ung thư vú
thể bộ ba âm tính.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm mô bệnh học và phân tích biểu hiện gene BCL11A trong các phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Phan Quỳnh Anh, email: nguyenphanquynhanh92@gmail.com
Ngày nhận bài: 20/5/2020; Ngày đồng ý đăng:14/8/2020
Đặc điểm mô bệnh học và phân tích biểu hiện gene BCL11A trong các
phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô tuyến vú
Nguyễn Phan Quỳnh Anh, Đặng Công Thuận, Nguyễn Phương Thảo Tiên, Nguyễn Trần Bảo Song
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Ung thư vú (UTV) là nguyên nhân gây tử vong thường gặp nhất gây liên quan đến ung thư ở
phụ nữ trên toàn thế giới. Phân nhóm phân tử và phân tích biểu hiện gen trong UTV đóng vai trò quan trọng
trong việc quyết định liệu pháp điều trị. Mục tiêu của nghiên cứu: là xác định các phân nhóm phân tử của
ung thư vú bằng hóa mô miễn dịch và kỹ thuật lai tại chỗ, phân tích biểu hiện gene BCL11A trong các phân
nhóm phân tử bằng RT-PCR và đánh giá mối liên quan giữa các phân nhóm phân tử với đặc điểm mô bệnh
học. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, khối nến của 138 bệnh nhân UTV
được nhuộm Hematoxylin và Eosin để chẩn đoán, phân loại mô bệnh học, nhuộm với các thụ thể hóa mô
miễn dịch ER, PR, HER2, Ki67 và kỹ thuật lai tại chỗ gắn bạc hai màu (DISH) để phân nhóm phân tử. Trong đó,
RNA của 20 mẫu được chiết xuất và biểu hiện bằng kỹ thuật RT-PCR. Kết quả: Có mối liên quan đáng kể giữa
các phân nhóm phân tử ung thư biểu mô tuyến vú với loại mô học (p = 0,022) và độ mô học (p = 0,021). Gene
BCL11A có mức biểu hiện thấp đáng kể trong tất cả các phân nhóm phân tử, đặc biệt là trong phân nhóm ba
âm tính. Kết luận: Nghiên cứu này có thể giúp hiểu thêm các đặc điểm bệnh học và sự biểu hiện gene của các
phân nhóm ung thư vú khác nhau, góp phần xác định thành công trong điều trị ung thư vú, đặc biệt là trong
nhóm bộ ba âm tính.
Từ khóa: Ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập, phân nhóm phân tử, độ mô học, lai tại chỗ gắn bạc hai
màu (DISH), qRT-PcR.
Abstract
Pathological characteristics and BCL11A gene analysis in molecular
subtypes of breast cancer
Nguyen Phan Quynh Anh, Dang cong Thuan, Nguyen Phuong Thao Tien, Nguyen Tran Bao Song
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Breast cancer is the most frequent cause of cancer-related deaths among women
worldwide. Molecular classification and the analysis of gene expression have been playing a pivotal role in
deciding treatment therapy. The aim of study was to identify molecular surrogate subtypes of breast cancer
by immunohistochemistry and Dual In Situ Hybridization, analysis of BCL11A gene expression was performed
in molecular subtypes by RT-PCR and assessed the correlation between molecular subtypes and clinic-
pathological characteristics. Materials and methods: Cross-sectional description study, tumor specimens
from 138 patients were stained with Hematoxylin and Eosin to diagnosis, histopathological classification,
stained with immunohistochemical markers ER, PR, HER2, Ki67 and Dual In Situ Hybridization (DISH) to
classify molecular subtypes breast cancer. In which, RNA of 20 samples were extraction and performed by RT-
PCR. Results: A significant association between breast carcinoma subtypes with histologic type (p=0.022) and
grade (p=0.021). BCL11A was significantly down regulated in all molecular breast cancer subtypes especially
in triple negative group. Conclusion: This study may help to understand pathological characteristics and
the gene expression of difference breast cancer subtypes, contributing to the successful identification of
therapeutic targets for breast cancer, especially triple negative group.
Key words: Invasive breast carcinoma, molecular subtypes, histologic grade, Dual In Situ Hybridization
(DISH), qRT-PcR
DOI: 10.34071/jmp.2020.4.3
24
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú (UTV) là loại ung thư thường gặp
nhất và là một trong những nguyên nhân chính gây
tử vong do ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới [1].
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc UTV đã tăng hơn gấp đôi
trong hai thập kỷ qua, từ 13,8 trên 100.000 phụ nữ
năm 2000 lên 29,9 trên 100.000 phụ nữ trong năm
2010. Xu hướng tăng theo từng năm lên tới 12,533
trường hợp ung thư vú mới (được báo cáo) trên cả
nước [2]. Trong những năm trở lại đây, với sự phát
triển của sinh học phân tử, các phương pháp phân
tử khác nhau, đặc biệt là phương pháp mô tả biểu
hiện gene (gene expression profiling), được sử dụng
ngày càng nhiều nhằm phân loại bệnh và dự đoán
đáp ứng với các liệu pháp chữa trị một cách chính
xác hơn [3].
Năm 2011, tại hội nghị quốc tế St Gallen về Ung
thư vú, Hội đồng chuyên gia đã đưa ra khuyến cáo
phân loại ung thư vú thành bốn phân nhóm lòng
ống A, lòng ống B (được gọi là “Luminal” vì có biểu
hiện gen tương tự như các tế bào lòng ống (luminal
cells)), HER2+ (có nhiều biểu hiện của gene HER2),
Basal-like (có biểu hiện gen tương tự như các tế bào
đáy (basal cells), trong đó có 70-80% là âm tính bộ
ba ER, PR và HER-2) với các định nghĩa về mặt bệnh
học lâm sàng của từng loại phân nhóm và liệu pháp
điều trị khác nhau [4]. Do đó, phân nhóm phân tử
UTV là việc quan trọng để tiên lượng và áp dụng các
phác đồ điều trị thích hợp [5].
Tuy nhiên, bệnh nhân UTV thể bộ ba âm tính
không được hưởng lợi từ liệu pháp dựa trên
hormone hoặc trastuzumab vì âm tính với ER, PR và
HER-2. Do đó, phẫu thuật và hóa trị, riêng lẻ hoặc
kết hợp, gần như là phương pháp điều trị duy nhất
có sẵn đối với UTV thể bộ ba âm tính [6, 7]. Trong
một vài nghiên cứu gần đây, các tác giả đã chỉ ra rằng
yếu tố phiên mã BCL11A được biểu hiện quá mức ở
nhóm UTV thể bộ ba âm tính, họ cho rằng BCL11A có
thể là gene UTV mới và là một yếu tố điều hòa quan
trọng trong sự phát triển của biểu mô tuyến vú bình
thường [8,9].
Vì vậy, gene BCL11A có lẽ là một ứng cử viên
tiềm năng cho liệu pháp điều trị đích ở những bệnh
nhân UTV thể bộ ba âm tính.
Chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục đích:
1. Xác định phân nhóm phân tử của ung thư vú
bằng kỹ thuật hóa mô miễn dịch với các thụ thể ER,
PR, HER2, Ki-67 và kỹ thuật DISH xác định khuếch
đại gene HER2.
2. Khảo sát mối liên quan giữa phân nhóm phân
tử và các đặc điểm giải phẫu bệnh.
3. Phân tích biểu hiện gene BcL11A ở các phân
nhóm phân tử bằng kỹ thuật qRT-PcR
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Cỡ mẫu: 138 bệnh nhân ung thư vú.
- Tiêu chuẩn chọn bệnh: Có chẩn đoán mô bệnh
học sau phẫu thuật là UTBM tuyến vú xâm nhập.
- Tiêu chuẩn loại trừ: UTBM tuyến vú tái phát
hoặc đã điều trị trước đó.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang
2.3. Phương pháp nghiên cứu:
- Xét nghiệm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch:
Được thực hiện tại khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế.
+ Nhuộm mảnh mô bằng phương pháp nhuộm
Hematoxylin-Eosin (HE). Phân loại mô học, giai đoạn
bệnh theo Tổ chức Y tế Thế giới 2003. Phân độ mô
học theo Scaff -Bloom-Richarson (SBR) cải biên.
+ Nhuộm hóa mô miễn dịch: 4 dấu ấn sinh học
ER, PR, Ki-67 và HER2 thực hiện trên máy Bench
Mark, Ventana dùng bộ kit phát hiện màu Ultra
ViewDAB của hãng Roche. Đánh giá sự biểu lộ thụ
thể estrogen, progesteron: dựa theo tiêu chuẩn
của Allred và nhà sản xuất dựa trên 2 tiêu chuẩn
là cường độ và tỷ lệ % tế bào u bắt màu nhuộm.
Đánh giá Ki-67 dương tính theo tiêu chuẩn của Saint
Gallen: < 14%: thấp, ≥ 14%: cao. Đánh giá biểu lộ
HER2 theo tiêu chuẩn đánh giá ASCO/CAP 2013 như
sau: 0 (âm tính): Không có phản ứng; 1+ (âm tính):
Nhuộm màng nhạt màu/một phần < 10% tế bào u;
2+ (không rõ ràng): Nhuộm màng hoàn toàn từ yếu
đến vừa > 10% tế bào u; 3+ (dương tính): Bắt màu
đậm hoàn toàn màng tế bào >10% tế bào u. HER2
được xác định là dương tính khi IHC 3+. Trường hợp
IHC (2+) thì cần phải xác định tình trạng khuếch đại
gen HER2 bằng kỹ thuật lai tại chỗ.
+ Phân nhóm phân tử: Dựa vào kết quả HMMD
3 dấu ấn ER, PR, KI67 và khuếch đại gen HER2 bằng
DISH theo phân loại của Saint Gallen 2011 [10].
- Xét nghiệm lai tại chỗ gắn hai màu DISH: Được
thực hiện tại khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Trường
Đại học Y Dược Huế dùng bộ kit INFORM HER2 Dual
ISH của hãng Roche, đánh giá HER2 bằng DISH theo
hướng dẫn của ASCO/CAP 2013: Tiêu bản được
khảo sát trên kính hiển vi quang học, ở các vật kính
20, 40, 60. Các tiêu chuẩn bắt buộc khi khảo sát một
tiêu bản DISH. 1. Các tín hiệu của gene HER2, CEN17
(trung thể của nhiễm sắc thể 17) phải hiện diện trên
tế bào nội chứng (tế bào sợi, tế bào nội mô, lymphô
bào). 2. Chỉ khảo sát tín hiệu bản sao gene HER2 và
tín hiệu CEN17 trên vùng tế bào ung thư xâm lấn.
3. Nhuộm nền phải được phân biệt rõ với các tín
hiệu. Xác định vùng tế bào ung thư xâm lấn và đếm
số tín hiệu HER2, CEN17 của 20 tế bào u. Tín hiệu
25
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
HER2 có màu đen nằm trong nhân, có thể là từng tín
hiệu riêng lẻ hoặc từng cụm. Để xác định mỗi cụm là
bao nhiêu tín hiệu thường là do người khảo sát ước
lượng khi so sánh kích thước các cụm với các tín hiệu
riêng lẻ. Tín hiệu CEN17 có màu đỏ nằm trong nhân.
Xác định tỉ lệ trung bình cộng của các tín hiệu HER2/
CEN17 của mỗi trường hợp: Nếu tỉ lệ HER2/CEN17 <
1,8: Không khuếch đại gene HER2; Tỉ lệ HER2/CEN17
≥ 2,2: có khuếch đại gene HER2. Nếu 1,8 ≤ Tỉ lệ ≤ 2,2:
đếm thêm 20 tế bào và đánh giá tỷ lệ HER2/CEP17
của 20 tế bào này, nếu vẫn không thay đổi kết quả
thì xem xét lặp lại kỹ thuật lai tại chỗ.
- Tách chiết RNA từ mẫu mô: 5 lát cắt dày 10µm
được cắt từ khối u UTV (vùng tương ứng vùng được
chẩn đoán ung thư trên tiêu bản HE) để có được
tổng số ARN. Axit nucleic được chiết xuất với bộ
chiết xuất thương mại (Rneasy FFPE Kit Tissue Kit,
Qiagen, Hilden, Đức) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất. Chúng tôi đã đánh giá số lượng và chất lượng
axit nucleic bằng máy đo quang phổ (tỉ lệ 260nm,
260/280 và 260/230, phổ 220-320nm) bằng cách
sử dụng Nano drop ND1000 (Euro Clone, Milan,
Italy).
- Tổng hợp cDNA: 1,5 µg tổng số RNA được sao
chép ngược thành cDNA bằng cách sử dụng bộ
kit High Capacity cDNA Reverse Transcription Kit
(Applied Biosystem, Foster City, CA, USA) tuân thủ
theo các hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Định lượng RT-PCR: Phát hiện cDNA được thực
hiện bằng cách sử dụng SYBR Green Master Mix
(Sigma, ABI) theo hướng dẫn của nhà cung cấp. Mỗi
mẫu phản ứng PCR đã được thực hiện ba lần trong
ABI Prism Sequence Detection System 7000 (Applied
Biosystems) cùng với probe. Tất cả mồi được mua từ
Sigma-Aldrich.
- Phân tích số liệu: Phân tích thống kê được thực
hiện bằng phần mềm thống kê SPSS, phiên bản 18.0.
Giá trị p < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Các đặc điểm chung và đặc điểm giải phẫu bệnh trong UTBM tuyến vú
Bảng 1. Các đặc điểm chung và đặc điểm giải phẫu bệnh
Đặc điểm n %
Nhóm tuổi (n = 138)
< 35 3 2,2
35 - 49 46 33,3
50 - 69 68 49,3
70+ 21 15,2
Tình trạng kinh nguyệt (n = 138)
Còn kinh 58 42,0
Mãn kinh 80 58,0
Vị trí u (n = 135)
Trái 64 47,4
Phải 71 52,6
Kích thước u (n = 138)
< 2 cm 20 14,5
≥ 2 cm 118 85,5
Loại mô học (n = 138)
UTBM tiết rụng đầu 2 1,4
UTBM thể tủy 1 0,7
UTBM nhầy 12 8,8
UTBM tiểu thùy xâm nhập 15 10,9
UTBM dị sản 10 7,2
UTBM ống xâm nhập không có ghi
chú đặc biệt
98 71,0
26
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Độ mô học (n = 98)
Độ 1 16 16,3
Độ 2 60 61,2
Độ 3 22 22,5
Di căn hạch nách (n = 138)
Chưa di căn 59 42,8
Di căn 1-3 hạch 49 35,5
Di căn 4-9 hạch 22 15,9
Di căn > 9 hạch 8 5,8
Giai đoạn bệnh (n = 138)
I 14 10,1
II 85 61,6
III 39 28,3
Độ tuổi mắc bệnh từ 25 đến 91 (trung bình 55 ± 12,63), cao nhất là 50 – 69 tuổi (49,3%). Đã mãn kinh
chiếm tỷ lệ cao (58%). Vị trí tổn thương thường ở vú phải (52,6%). Kích thước u trung bình là 3,1 ± 1,01 cm.
Ung thư biểu mô loại không có ghi chú đặc biệt chiếm đa số với 71,0% cùng với độ mô học II chiếm tỷ lệ cao
nhất (61,2%). Chưa di căn hạch nách khá cao (42,8%) và giai đoạn II chiếm tỷ lệ cao nhất 61,6%.
3.2. Sự bộc lộ của các thụ thể ER, PR, HER2, Ki-67
Bảng 2. Sự bộc lộ của các thụ thể
Các thụ thể n = 138 %
ER
Âm tính 71 51,4
Dương tính 67 48,6
PR
Âm tính 74 53,6
Dương tính 64 46,4
HER2
0, 1+ 95 68,8
2+ 20 14,5
3+ 23 16,7
Ki-67
< 14% 49 35,5
≥ 14% 89 64,5
Tỷ lệ ER, PR dương tính chiếm lần lượt 48,6% (67/138) và 46,4% (64/138).
Tỷ lệ HER2 (-), HER2 (2+), HER2 (3+) lần lượt là 68,8% (95/138), 14,5% (20/138) và 16,7% (23/138).
Ki-67 dương tính mức độ cao chiếm 64,5% (89/138)
Bảng 3. Kết quả khảo sát sự khuếch đại gene HER2 bằng kỹ thuật DISH
DISH n = 100 %
Không khuếch đại 69 69,0%
Khuếch đại 31 31,0%
Tỷ lệ khối u có khuếch đại gene HER2 bằng kỹ thuật DISH là 31,0% trong khi không khuếch đại là 69,0%.
Trong đó 8/20 trường hợp IHC 2+ và tất cả các trường hợp IHC 3+ được phát hiện có khuếch đại gene HER2
bằng kỹ thuật DISH.
27
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Bảng 4. Phân nhóm phân tử
Phân nhóm phân tử n = 138 %
Lòng ống A 40 29,0
Lòng ống B
HER2 âm tính 34 24,6
HER2 dương tính 4 2,9
HER2 27 19,6
Bộ ba âm tính 33 23,9
Phân nhóm lòng ống A chiếm tỷ lệ cao nhất 29,0%.
3.3. Mối liên quan giữa phân nhóm phân tử và các đặc điểm giải phẫu bệnh
Bảng 5. Mối liên quan giữa phân nhóm phân tử và các đặc điểm giải phẫu bệnh
Các đặc điểm
giải phẫu bệnh
Lòng ống A
n = 40
n (%)
Lòng ống B
n = 38
n (%)
HER2
n = 27
n (%)
Bộ ba âm tính
n = 33
n (%)
P
Tuổi
< 50 15 (37,5) 14 (37,8) 10 (37,0) 10 (29,4)
0,832
> 50 25 (62,5) 23 (62,2) 17 (63,0) 24 (70,6)
Loại mô học
UTBM ống xâm nhập 20 (57,5) 33 (89,2) 23 (71,5) 22 (68,8)
0,022UTBM tiểu thùy xâm
nhập
4 (10,0) 3 (8,1) 1 (3,7) 7 (20,6)
Kích thước u
< 2 cm 8 (20,5) 5 (13,5) 3 (11,1) 3 (8,8)
0,546
≥ 2 cm 31 (79,5) 32 (86,5) 24 (88,9) 31 (91,2)
Độ mô học
G1 3 (16,1) 7 (21,2) 5 (17,4) 1 (3,8)
0,021G2 21 (74,2) 20 (66,7) 7 (43,5) 12 (57,7)
G3 2 (9,7) 3 (12,1) 9 (39,1) 8 (38,5)
Di căn hạch
pN0 17 (42,5) 14 (37,8) 10 (37,0) 18 (52,9)
0,561
pN+ 23 (57,5) 23 (62,2) 17 (63,0) 16 (47,1)
Giai đoạn bệnh
I 6 (15,0) 3 (8,1) 3 (11,1) 2 (5,9)
0,295II 28 (70,0) 23 (62,2) 13 (48,1) 21 (61,8)
III 6 (15,0) 11 (29,7) 11 (40,7) 11 (32,4)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phân tích thống kê cho thấy có mối tương quan đáng kể giữa phân nhóm
phân tử với loại mô học (p = 0,022) và độ mô học (p = 0,021).
3.4. Mức độ biểu hiện gene BCL11A
Mức độ biểu hiện gene BCL11A được đánh giá trong 20 mẫu (5 Lumina A, 5 Luminal B, 5 HER2 và 5 bộ ba
âm tính). Kết quả RT-PCR cho thấy mức độ biểu hiện đều thấp trong tất cả các phân nhóm, đặc biệt là trong
phân nhóm bộ ba âm tính.
28
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Hình 1. Mức độ biểu hiện gene BCL11A trong các phân nhóm phân tử của UTBM tuyến vú
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm giải phẫu bệnh
Tuổi phát hiện
Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân trẻ nhất
25 tuổi. bệnh nhân lớn tuổi nhất là 91 tuổi. Độ tuổi
trung bình trong chẩn đoán UTV là 55. So với các
nghiên cứu khác, chúng tôi thấy tuổi phát hiện trung
bình cao hơn so với nghiên cứu của Hage (36,8), Vũ
Hồng Thắng (47,5), Nguyễn Hoàng Lan (50,0) [11,
12]. Sự khác biệt có thể là do một số yếu tố như lối
sống, điều kiện kinh tế, môi trường sống, số lượng
mẫu nghiên cứu, thời gian và nơi nghiên cứu cũng
như các đặc điểm sinh học hoặc một số cơ chế chưa
được giải thích rõ ràng. Tuy nhiên, UTV ở phụ nữ
dưới 35 đến 40 tuổi có nhiều đặc điểm ác tính hơn,
có xu hướng được chẩn đoán ở giai đoạn muộn hơn
và tiên lượng xấu hơn [13].
Kích thước u
Kích thước khối u trung bình 3,1 ± 1,01 cm.
Kết quả này tương tự như kết quả của Engstrom,
Vũ Hồng Thắng và nhỏ hơn kích thước khối u của
một số kết quả của Jarrett Rosenberg [12] [14, 15].
Kích thước khối u lớn hơn đã được tìm thấy có ảnh
hưởng đến sự sống còn và liên quan tới sự tăng tỷ
lệ tái phát. Bệnh nhân có khối u < 2 cm có tỷ lệ sống
sau 5 năm gần 91,3% so với 79,8% đối với khối u từ
2 cm đến 5 cm và 62,7% đối với các khối u > 5 cm.
Ngoài ra, gia tăng kích thước khối u dẫn đến gia tăng
sự di căn [15]. Đồng thời, báo cáo cũng đã được ghi
lại sự liên quan đến giữa tăng kích thước u và tăng tỷ
lệ tử vong trong mỗi phân nhóm có thụ thể estrogen
(ER) và progesterone (PR). Với việc chẩn đoán ung
thư ở những khối u có thước nhỏ của nghiên cứu
này đã cho thấy rằng hiệu quả của chương trình tầm
soát UTV sớm.
Loại mô học
UTBM ống loại không có ghi chú đặc biệt chiếm
tỷ lệ 73,9%, sau đó là ung thư thể tiểu thùy xâm
nhập chiếm 10,9%. Kết quả cho thấy UTBM ống xâm
lấn có tỷ lệ cao nhất trong các loại UTBM tuyến vú,
tương tự như hầu hết nghiên cứu ở trong nước và
nước ngoài [12, 14, 16]
Độ mô học
Trong số 98 UTBM ống xâm nhập loại không có
ghi chú đặc biệt được nghiên cứu trong nghiên cứu
này, độ II chiếm tỷ lệ cao nhất (61,9%). Kết quả này
không thống nhất với một số nghiên cứu trong và
ngoài nước [14, 16]. Điều này có thể được giải thích
bởi sự khác biệt về đặc điểm sinh học của nhóm
bệnh nhân và một phần dựa trên đánh giá chủ quan
của nhà giải phẫu bệnh học. Mặc dù có sự khác biệt
trong phân loại hoặc đối tượng nghiên cứu giữa các
nghiên cứu của các tác giả nhưng tất cả kết quả đều
thống rằng độ mô học khi được sử dụng kết hợp
trạng thái hạch, có thể cung cấp thông tin về tiên
lượng bệnh và cải thiện dự đoán kết quả cho từng
bệnh nhân.
Di căn hạch
Trong nghiên cứu, tỷ lệ không di căn hạch nách là
42,8%. Tỷ lệ phần trăm tương tự với một số nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước [12, 14, 16].
Điều này đã chứng minh rằng khả năng sàng lọc ung
thư có hiệu quả và nhận thức về ung thư của người
dân đã được nâng cao. Đánh giá đúng tình trạng di
căn hạch bạch huyết là một trong những tiêu chí
quan trọng nhất, nó là một yếu tố tiên lượng liên
quan đến tỷ lệ tái phát, tỷ lệ sống và quyết định lựa
chọn phương pháp điều trị.
Giai đoạn bệnh
Giai đoạn II chiếm 61,6%, trong đó giai đoạn IIA
có 43 trường hợp (31,2%), giai đoạn IIB có 42 trường
hợp (30,4%). Điều này phù hợp với một số nghiên
cứu như kết quả nghiên cứu trong nước và ngoài
nước như của Engstrom, Vũ Hồng Thắng, Nguyễn
Hoàng Lan [11, 12, 14]. Tất cả kết quả của nghiên
cứu khác nhau đều cho thấy giai đoạn II có tỷ lệ cao
nhất, tiếp theo trong giai đoạn IIIA. Điều này chỉ ra
rằng hiệu quả chăm sóc y tế tăng hơn trước. Thời
29
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
gian sống thêm của bệnh nhân với giai đoạn II dài
hơn nhiều so với bệnh nhân giai đoạn III. Ngoài ra,
khả năng tái phát bệnh nhân có giai đoạn II cũng
thấp hơn ít hơn giai đoạn III. Do đó, xác định giai
đoạn bệnh và loại mô học có ý nghĩa trong tiên
lượng bệnh.
4.2. Sự bộc lộ các thụ thể
Sự bộc lộ của các thụ thể ER, PR, HER2, Ki-67
không những đóng vai trò quan trọng trong phân
nhóm phân tử mà còn là các yếu tố cần thiết trong
tiên lượng bệnh cũng như trong việc chọn lựa liệu
pháp điều trị thích hợp. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ
ER và PR thấp hơn trong các nghiên cứu khác, tuy
nhiên vẫn tương đồng tỷ lệ dương ER cao hơn PR.
Trong khi đó, tỷ lệ 31,1% khối u có HER biểu hiện quá
mức bởi IHC cao hơn tỷ lệ chung giữa các nghiên
cứu khác (HER2 dương tính là khoảng 20% đến
30%). Những sự khác biệt này có thể là do thụ thể
HER2 là protein màng tế bào rất dễ biến tính trong
suốt quá trình thực hiện kỹ thuật từ việc xử lý sau
khi cắt bỏ khối u cho đến dung dịch cố định mẫu,
thời gian cố định.
Tỷ lệ Ki-67 dương tính trong nghiên cứu này là
63,8%. Tỷ lệ này là khá cao và đánh giá phụ thuộc
vào chất lượng mẫu và sự chủ quan của người đánh
giá. Mutapha và cộng sự đã cho thấy sự tương quan
giữa mức độ cao của chỉ số Ki-67 với nguy cơ tái phát
cao hơn và tỷ lệ sống sót tồi tệ hơn [17]. Những dữ
liệu này phù hợp với tỉ lệ cao chỉ số Ki67 có liên quan
mật thiết đến tăng sinh tế bào và tương quan thuận
với tất cả đặc điểm bệnh học lâm sàng.
4.3. Mối liên quan giữa phân nhóm phân tử và
các đặc điểm giải phẫu bênh
Phân tích của chúng tôi cho thấy mối liên quan
đáng kể giữa phân nhóm phân tử ung thư biểu mô
tuyến vú với loại mô học (p = 0,022) và độ mô học
(p = 0,021).
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một sự khác
biệt đáng kể của loại mô học đặc biệt trong các phân
nhóm phân tử của ung thư vú xâm lấn (p = 0,022).
Phân tích này chỉ ra UTBM ống thường gặp hơn ở
phân nhóm lòng ống B (89,2%), trong khi UTBM tiểu
thùy có nhiều ở phân nhóm bộ ba âm tính và các
loại UTBM tuyến vú thể đặc biệt khác lại xuất hiện ở
phân nhóm lòng ống A. Tuy nhiên, dữ liệu từ nhiều
nghiên cứu khác lại chứng minh UTBM tiểu thùy,
hỗn hợp và UTBM nhầy lại có nhiều khả năng biểu
hiện thụ thể nội tiết tố hơn so với UTBM ống [18,
19]. Sự khác nhau này có thể là do giữa các nghiên
cứu thiếu thông tin liên quan đến một số các yếu tố
gây nhiễu tiềm ẩn, bao gồm các yếu tố nội tiết tố,
sinh sản, nhân trắc học và lối sống. Bởi những yếu tố
này có thể liên quan đến sự khác nhau trong các loại
mô học của ung thư vú cũng như sự khác nhau trong
đặc điểm lâm sàng và đặc điểm giải phẫu bệnh của
khối u cần đánh giá.
Các nghiên cứu gần đây về ung thư vú đã nhấn
mạnh sự liên quan của sinh học khối u trong điều
trị ung thư vú và qua đó cho thấy tầm quan trọng
của độ mô học. Khối u với độ mô học khác nhau
sẽ có cấu hình phân tử khác biệt ở bộ gen, mức độ
transcriptomic và hóa mô miễn dịch.
Nghiên cứu biểu hiện gen đã chứng minh rằng
độ mô học phản ánh tốt hơn cấu trúc phân tử của
ung thư vú hơn tình trạng hạch và kích thước khối
u [20]. Trong nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra mối
liên quan giữa các phân nhóm phân tử và độ mô học
(p = 0,021). Độ mô học cao (độ III) chiếm tỷ lệ cao
trong phân nhóm HER2, những độ thấp hơn (độ I
và độ II) nằm ở phân nhóm Lòng ống. Kết quả này
tương đồng với kết quả của nhiều tác giả khác trong
và ngoài nước.
Một số tác giả trước đây đã mô tả độc lập vai
trò tiên lượng của độ mô học ở bệnh nhân ung thư
vú. Họ đều cho thấy bệnh nhân mang khối u có độ
mô học loại I có tiên lượng tốt. Do đó, việc xác định
đúng độ mô học góp phần giúp nhận định tiên lượng
và có phác đồ điều trị phù hợp.
Tuy nhiên, không có mối liên quan giữa phân
nhóm phân tử UTBM tuyến vú với kích thước khối
u, giai đoạn bệnh, tình trạng di căn hạch ở trong
nghiên cứu của chúng tôi. Trong khi các nghiên cứu
khác đã báo cáo rằng những đặc điểm giải phẫu
bệnh như kích thước T1 và T2, giai đoạn I và II,
không di căn hạch nách thường liên quan đến phân
nhóm lòng ống A. Những đặc điểm chỉ ra tiên lượng
tốt hơn phân nhóm lòng ống A, trái ngược với phân
nhóm HER2 và bộ ba âm tính có đặc điểm giai đoạn
III, kích thước T3, hạch di căn và có tiên lượng kém
hơn rất nhiều.
4.4. Mức độ biểu hiện gene BCL11A
Trong vài nghiên cứu nước ngoài gần đây, bằng
cách phân tích dữ liệu gen từ hơn 3000 bệnh nhân
ung thư biểu mô tuyến vú, gene BCL11A biểu hiện
mức cao đáng kể ở cả cấp độ RNA và protein, đặc
biệt cao trong phân nhóm bộ ba âm tính của bệnh
nhân UTV. Việc biểu hiện quá mức của gene BCL11A
ảnh hưởng đến chương trình chết theo lập trình của
tế bào (apoptosis) thông qua trung gian p53 (gen áp
chế khối u). Do đó, các nghiên cứu này nhận định
rằng gene BCL11A cùng với một số gene khác như
HMGA1, FOXC1 đã được nghiên cứu được xem
như là các dấu ấn sinh học để chẩn đoán và một
số đã được coi là mục tiêu điều trị tiềm năng của
bệnh nhân UTV thể bộ ba âm tính [8, 9]. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi mức biểu hiện gene
30
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
BCL11A đều rất thấp trong tất cả các phân nhóm
phân tử của bệnh nhân UTBM tuyến vú, đặc biệt là
trong phân nhóm bộ ba âm tính, không giống như
những gì được báo cáo trong các tài liệụ trước đó.
Điểu này có thể giải thích do mẫu khối u được cố
định bằng dung dịch formol và nhúng trong paraffin
dẫn đến giảm chất lượng của axit nucleic làm ảnh
hưởng đến kết quả PCR.
Tuy vậy, với kết quả của nghiên cứu này cũng đã
góp phần giúp chúng ta hiểu hơn về đặc điểm của
gene trong các phân nhóm phân tử của bệnh nhân
UTV. Các thử nghiệm truy tìm nguồn gốc trong tương
lai sẽ xác định xem gene BCL11A có biểu hiện trong
tế bào tổ tiên của phân nhóm lòng ống (luminal) và
phân nhóm basal hoặc trong các bipotent MaSCs
(mammary stem cell) hay không?
Nếu đưa ra được bằng chứng gene BCL11A điều
hòa trong việc phát triển các tế bào tiền thân phân
nhóm basal-like, điều này sẽ rất quan trọng và là
một trong những bước đầu tiên trong phát triển liệu
pháp điều trị đích cho những bệnh nhận ung thư vú
thể bộ ba âm tính.
5. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu, chúng tôi đã chứng minh mối
liên quan đáng kể giữa phân nhóm phân tử ung thư
biểu mô tuyến vú với loại mô học (p = 0,022) và độ
mô học (p = 0,021).
- UTBM ống thường gặp hơn ở phân nhóm lòng
ống B (89,2%), trong khi đó UTBM thể thùy xâm nhập
thường gặp ở phân nhóm bộ ba âm tính (20,6%).
- Độ mô học chủ yếu trong phân nhóm lòng ống
B là độ I. Trong khi ở phân nhóm HER2 và bộ ba âm
tính thì độ III chiếm chủ yếu (39,1% và 38,5%).
Mặc dù, mức biểu hiện gene BCL11A ở mức thấp
trong các phân nhóm phân tử của ung thư biểu mô
tuyến vú đặc biệt thấp trong phân nhóm bộ ba âm
tính, nhưng nghiên cứu này cũng góp phần hiểu
thêm về đặc điểm giải phẫu bệnh cũng như vai trò
yếu tố tiên lượng của gene trong UTV và cần được
nghiên cứu nhiều hơn trong tương lai.
Lời cám ơn: Bài báo này có sử dụng kết quả đề
tài khoa học và công nghệ cấp Tỉnh mã số TTH-2016-
KC.12 được ngân sách nhà nước tỉnh Thừa Thiên
Huế đầu tư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel RL, Torre LA,
Jemal A. (2018). Global cancer statistics 2018: GLOBOCAN
estimates of incidence and mortality worldwide for 36
cancers in 185 countries. CA Cancer J Clin. 68(6):394-424.
2. Trieu PD, Mello-Thoms C, Brennan PC. (2015).
Female breast cancer in Vietnam: a comparison across
Asian specific regions. Cancer Biol Med. 12(3):238-45.
3. Fertig EJ, Lee E, Pandey NB, Popel AS. (2015).
Analysis of gene expression of secreted factors associated
with breast cancer metastases in breast cancer subtypes.
Sci Rep. 5:12133.
4. Untch M, Gerber B, Harbeck N, Jackisch C,
Marschner N, Mobus V, et al. (2013). 13th st. Gallen
international breast cancer conference 2013: primary
therapy of early breast cancer evidence, controversies,
consensus - opinion of a german team of experts (zurich
2013). Breast Care (Basel). 8(3):221-9.
5. Fallahpour S, Navaneelan T, De P, Borgo A.(2017).
Breast cancer survival by molecular subtype: a population-
based analysis of cancer registry data. CMAJ Open.
5(3):E734-E9.
6. Ali SM, Watson J, Wang K, Chung JH, McMahon C,
Ross JS, et al. (2016). A Combination of Targeted Therapy
with Chemotherapy Backbone Induces Response in a
Treatment-Resistant Triple-Negative MCL1-Amplified
Metastatic Breast Cancer Patient. Case Rep Oncol.
9(1):112-8.
7. Chalakur-Ramireddy NKR, Pakala SB. (2018).
Combined drug therapeutic strategies for the effective
treatment of Triple Negative Breast Cancer. Biosci Rep.
38(1).
8. Khaled WT, Choon Lee S, Stingl J, Chen X, Raza Ali H,
Rueda OM, et al. (2015). BCL11A is a triple-negative breast
cancer gene with critical functions in stem and progenitor
cells. Nat Commun. 6:5987.
9. Santuario-Facio SK, Cardona-Huerta S, Perez-Paramo
YX, Trevino V, Hernandez-Cabrera F, Rojas-Martinez A, et
al. (2017). A New Gene Expression Signature for Triple
Negative Breast Cancer Using Frozen Fresh Tissue before
Neoadjuvant Chemotherapy. Mol Med. 23:101-11.
10. Goldhirsch A, Winer EP, Coates AS, Gelber
RD, Piccart-Gebhart M, Thurlimann B, et al. (2013).
Personalizing the treatment of women with early breast
cancer: highlights of the St Gallen International Expert
Consensus on the Primary Therapy of Early Breast Cancer
2013. Ann Oncol. 24(9):2206-23.
11. Lan NH, Laohasiriwong W, Stewart JF. (2013).
Survival probability and prognostic factors for breast
cancer patients in Vietnam. Glob Health Action. 6:1-9.
12. Thang VH, Tani E, Johansson H, Adolfsson J,
Krawiec K, Van TT, et al. (2011). Difference in hormone
receptor content in breast cancers from Vietnamese and
Swedish women. Acta Oncol. 50(3):353-9.
13. van der Sangen MJ, Poortmans PM, Scheepers
SW, Lemaire BM, van Berlo CL, Tjan-Heijnen VC, et al.
(2013). Prognosis following local recurrence after breast
31
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
conserving treatment in young women with early breast
cancer. Eur J Surg Oncol. 39(8):892-8.
14. Engstrom MJ, Opdahl S, Hagen AI, Romundstad
PR, Akslen LA, Haugen OA, et al. (2013). Molecular
subtypes, histopathological grade and survival in a historic
cohort of breast cancer patients. Breast Cancer Res Treat.
140(3):463-73.
15. Rosenberg J, Chia YL, Plevritis S. (2005). The effect
of age, race, tumor size, tumor grade, and disease stage
on invasive ductal breast cancer survival in the U.S. SEER
database. Breast Cancer Res Treat. 89(1):47-54.
16. van der Hage JA, Mieog JS, van de Velde CJ,
Putter H, Bartelink H, van de Vijver MJ. (2011). Impact of
established prognostic factors and molecular subtype in
very young breast cancer patients: pooled analysis of four
EORTC randomized controlled trials. Breast Cancer Res.
2011;13(3):R68.
17. Abubakar M, Orr N, Daley F, Coulson P, Ali HR,
Blows F, et al. (2016). Prognostic value of automated
KI67 scoring in breast cancer: a centralised evaluation of
8088 patients from 10 study groups. Breast Cancer Res.
18(1):104.
18. Li CI, Uribe DJ, Daling JR. (2005). Clinical
characteristics of different histologic types of breast
cancer. Br J Cancer. 93(9):1046-52.
19. Korhonen T, Huhtala H, Holli K. (2004). A
comparison of the biological and clinical features of
invasive lobular and ductal carcinomas of the breast.
Breast Cancer Res Treat. 85(1):23-9.
20. Yu K, Lee CH, Tan PH, Hong GS, Wee SB, Wong CY,
et al. (2004). A molecular signature of the Nottingham
prognostic index in breast cancer. cancer Res. 64(9):2962-8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_mo_benh_hoc_va_phan_tich_bieu_hien_gene_bcl11a_tron.pdf