Research ore characteristics and chemical composition of the three ore zones in the Bo Va region imply that
mineralization in the area belong toe gold-sulfide (Au-As) type, characterizing by strong positive correlation between
arsenic and gold. Native gold in different types of ore deposits in Bo Va usually present as independent inclusions in ore
minerals or fill in the spaces between the main ore mineral, mostly of small very small size, closely associated with
arsenopyrites. Two types of native gold have been identified: the first type is characterized by Ag = 18.5 to 15 wt.%; the
second type: content is about 10 wt.% Ag in composition. The presence of fine-grained gold not only in quartz sulfide but
also the distribution of large quantities waste arsenopyrite-bearing shales have important implications for the navigating
appropriate exploitation and extracting solutions.
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm quặng hóa vàng sulfide khu vực Bó Va, đông bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
193
36(3), 193-203 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2014
ĐẶC ĐIỂM QUẶNG HÓA VÀNG SULFIDE
KHU VỰC BÓ VA, ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
TRẦN TUẤN ANH
Email: tuananh-tran@igsvn.ac.vn
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 25 - 12 - 2013
1. Mở đầu
Quặng hóa vàng sulfide có ý nghĩa quan trọng
trong xác định tài nguyên vàng của lãnh thổ.
Nghiên cứu chi tiết về đặc điểm khoáng vật - địa
hóa quặng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập
các dấu hiệu nhận dạng kiểu mỏ/quặng hóa, điều
kiện hình thành, dạng tồn tại của vàng để có các
giải pháp khai thác, tuyển luyện thích hợp cũng
như đánh giá triển vọng của quặng hóa vàng.
Theo các kết quả nghiên cứu của đề tài
KC08.14/11-15, ở khu vực Đông Bắc Việt Nam có
thể phân chia sơ bộ bốn kiểu quặng hóa vàng và
chứa vàng hạt mịn: (1) Au-sulfide trong các thành
tạo lục nguyên, lục nguyên - carbonat với các tụ
khoáng điển hình là mỏ Bó Va (huyện Ngân Sơn,
tỉnh Bắc Kạn), mỏ Nam Quang (huyện Bảo Lâm,
tỉnh Cao Bằng), điểm quặng Khe Dúi (huyện Võ
Nhai, tỉnh Thái Nguyên) mà trong các nghiên cứu
trước đây được xếp vào kiểu vàng-thạch anh hoặc
vàng-thạch anh-sulfide [Nguyễn Văn Quý, 2011];
(2) Au-sulfide nhiệt dịch nhiệt độ thấp trong đá núi
lửa thành phần axit (điểm quặng Suối Củn, huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng và mỏ Nà Pái, huyện Bình
Gia, tỉnh Lạng Sơn); (3) Au hạt mịn và phân tán
trong quặng Pb-Zn của các mỏ Nà Diếu (huyện
Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn) và mỏ Bản Khun (huyện
Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng); (4) Au hạt mịn và phân
tán trong quặng Sb-(As, Hg) với một loạt mỏ và
điểm quặng điển hình như Làng Vài-Khuôn Pục
(huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang) và Khau
Vai (huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang) [Trần Trọng
Hòa và nnk, 2013].
Thuộc kiểu thứ nhất, quặng hóa vàng khu vực
Bó Va là một trong những điểm quặng hóa vàng
trong các thành tạo lục nguyên chứa vật chất than.
Về vị trí cấu trúc địa chất, khu vực này nằm trong
phạm vi rift Paleozoi - Mesozoi Sông Hiến và liên
quan tới đới đứt gãy khu vực Cao Bằng - Lộc Bình
- Tiên Yên có phương TB-ĐN kéo dài từ Hà
Quảng (Cao Bằng) đến Tiên Yên (Quảng Ninh) và
ra vịnh Bắc Bộ [9]. Quặng hóa vàng ở đây đã được
phát hiện từ lâu [1, 5] và có một số nghiên cứu về
chúng [2-4, 6, 7] song các nghiên cứu chi tiết về
đặc điểm địa hóa quặng và thành phần quặng hóa
vẫn chưa được thực hiện, đặc biệt là vấn đề vàng
hạt mịn và phân tán trong các sulfide thì chưa có
nghiên cứu nào đề cập. Bài báo này sẽ trình bày
những kết quả nghiên cứu mới nhất về đặc điểm
địa chất, khoáng vật học và địa hóa quặng của khu
vực Bó Va của đề tài KC.08.14/11-15 nhằm làm
sáng tỏ các vấn đề chủ yếu sau: (i) đặc điểm thành
phần khoáng vật quặng chính (và vàng) như là một
trong những tiêu chí nhận dạng của kiểu quặng hóa
vàng-sulfide; (ii) đặc điểm địa hóa quặng và mối
tương quan của các nguyên tố quặng; (iii) các chỉ
tiêu đánh giá triển vọng của điểm Bó Va.
2. Khái quát về địa chất và đặc điểm quặng hóa
khu vực Bó Va
2.1. Đặc điểm địa chất
Điểm vàng Bó Va thuộc địa phận xã Bằng Vân,
huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn, có toạ độ địa lý
trung tâm: 22°30'30" vĩ độ Bắc; 106°05'22" Kinh
độ Đông. Khu vực điểm vàng Bó Va có độ cao từ
300 - 900m, hệ thống suối ngắn, dốc, ít nước và
không có thung lũng rộng.
Về địa tầng, các đá phân bố trong khu vực là
các trầm tích lục nguyên hệ tầng Sông Hiến (T1sh)
194
gồm 2 tập: (i) Tập 1 (T1sh1): phân bố phía Tây khu
vực nghiên cứu với thành phần chủ yếu là đá phiến
sét màu xám, xám đen, xám trắng, xen lẫn cát lớp
mỏng cát bột kết, bột kết màu xám vàng và có tập
dăm kết kết tạo (minolit - biến dạng dẻo); và (ii)
Tập 2 (T1sh2): phân bố phía đông khu vực nghiên
cứu, thành phần chủ yếu là đá phiến sét màu vàng,
xám vàng, đá phiến sericit màu xám, phiến silic
xám xen kẹp lớp mỏng cát bột kết và thấu kính sét
vôi.
Về kiến tạo, đây là khu vực có hoạt động kiến
tạo mạnh mẽ, đất đá bị vò nhàu uốn nếp mạnh .
Các đới đứt gãy chủ yếu có phương tây bắc - đông
nam (là hướng chính khống chế quặng hóa phát
triển các đới dăm kết kiến tạo) và hệ thống các đứt
gãy nhỏ có phương đông bắc - tây nam.
Trên bình đồ, điểm quặng Bó Va có hình dạng
khá đẳng thước, với diện tích khoang định xấp xỉ
2km
2. Trong phạm vi điểm quặng này, có thể phân
chia 3 đới quặng chính: Vi Ba, Nà Phai 1 (phát
triển hướng á vĩ tuyến) và Nà Phai 2 (có hướng kéo
dài theo phương TB - ĐN dọc theo Khe Cạn đổ ra
suối Cao Phòng) (hình 1). Cả 3 đới đều bao gồm
một loạt các thân quặng với các hệ mạch thạch anh
chứa vàng có cấu tạo phức tạp.
Hình 1. Sơ đồ các đới quặng và địa điểm lấy mẫu
khu vực Bó Va
2.2. Mô tả tóm tắt các đới quặng
Dưới đây là một số mô tả tóm tắt về đặc điểm
địa chất của các đới quặng hóa Nà Phai 1, Nà Phai
2 và Vi Ba.
2.2.1. Đới Nà Phai 1
Đới khoáng hóa nằm trong trầm tích lục
nguyên bao gồm cát bột kết, đá phiến sét, cát kết
và các đới mạch thạch anh - carbonat chứa sulfide.
Đá vây quanh quặng chủ yếu là đá phiến chlorit-
sericit đôi chỗ bị sulfide hóa. Tại đây đã xác định
được hai kiểu quặng giá trị công nghiệp: (1) Các
tập đá phiến chứa than với xâm tán arsenopyrit
(chủ yếu) và pyrit (ít); (2) Các mạch hoặc mạng
mạch thạch anh và thạch anh - carbonat chứa pyrit
và arsenopyrit.
Thành phần khoáng vật quặng trong đá phiến
chứa than chủ yếu là arsenopyrit và pyrit, còn trong
các mạch thạch anh - carbonat, ngoài arsenopyrit
và pyrit còn gặp khá phổ biến galenit, sphalerit,
sheelit, Trong đá phiến chứa than, cùng với các
tinh thể arsenopyrit và pyrit kích thước lớn, còn
gặp nhiều tinh thể tàn dư của arsenopyrit. Dựa vào
sự có mặt của các tinh thể tàn dư có thể cho rằng
arsenopyrit đã có mặt từ sớm và khối lượng của
chúng có thể chiếm đến 25%. Khối lượng khoáng
vật quặng trong quặng thường không vượt quá vài
%. Cấu tạo quặng: xâm tán; kiến trúc: hạt đều và
khá tự hình; trong pyrit có khi gặp bao thể tinh thể
arsenopyrit.
2.2.2. Đới Nà Phai 2
Về đặc điểm quặng hóa, đới Nà Phai 2 tương tự
như Nà Phai 1, cũng bao gồm hai kiểu quặng: đá
phiến chứa sulfide và mạch thạch anh - sulfide.
Trong đá phiến chứa vật chất hữu cơ (than) vừa
thấy có arsenopyrit và pyrit dạng tinh thể, mọc xen
vừa thấy có arsenopyrit dạng tinh thể tàn dư. Kiến
trúc quặng: hạt đều, tự hình; cấu tạo: xâm tán.
Thành phần khoáng vật quặng bao gồm:
arsenopyrit, pyrit, chalopyrit, sphalerit, vàng tự
sinh. Hàm lượng khoáng vật quặng khá biến động,
từ 1-3% đến 7-10%.
Rất phổ biến trong các mẫu phân tích là
arsenopyrit dạng tàn dư bị lấp đầy bởi silicat và
carbonat. Dựa theo dấu hiệu này có thể cho rằng
hàm lượng arsenopyrit ban đầu trong đá có thể đến
40%. Pyrit cùng với arsenopyrit tạo thành các xâm
tán không đều với các tinh thể khá tự hình. Kích
195
thước tinh thể đôi khi đạt đến 1mm. Ở nhiều chỗ
quan sát thấy tổ hợp cộng sinh của tinh thể
arsenopyrit kích thước lớn với các tinh thể
chalcopyrit hạt nhỏ.
Đôi khi quan sát thấy pyrit (py) chứa các tinh
thể sphalerit (spl) với sản phẩm phá hủy dung dịch
cứng (xâm tán huyền phù chalcopyrit-chp). Cá
biệt, có thể quan sát được sự mọc xen giữa pyrit và
arsenopyrit, dọc theo khe nứt giữa chúng là
chalcopyrit và vàng tự sinh. Đôi khi quan sát được
các tinh thể arsenopyrit kích thước rất lớn có
chứa tinh thể khảm của pyrit, chalcopyrit và vàng
tự sinh.
2.2.3. Đới Vi Ba
Các đới khoáng hóa phân bố trong trầm tích lục
nguyên. Đá vây quanh quặng là đá phiến chlorit-
sericit. Khoáng hóa phổ biến là pyrit, ít hơn có
arsenopyrit. Kiểu quặng công nghiệp ở đây cũng
tương tự như ở Nà Phai 1 và 2. Arsenopyrit dạng
tàn dư chiếm tới 30% thể tích quặng. Ngoài ra ở
đây còn gặp khoáng vật gersdorffite (NiAsS) có
các đặc điểm khác giống với arsenopyrit được phát
hiện khi phân tích trên microsond thành phần thay
đổi và có chứa tạp chất Fe và Co.
3. Mẫu thu thập và phương pháp nghiên cứu
Đã tiến hành khảo sát thu thập mẫu ngoài thực
địa tại ba khu vực: Nà Phai 1, Nà Phai 2 và Vi Ba
(hình 1). Các mẫu được thu thập: (1) từ một số đới
khoáng hóa sulfide dạng xâm tán trong đá phiến
sericite - chlorite, đá phiến sét vôi, cát kết phiến
hóa chứa vật chất hữu cơ, dăm kết dạng milonit;
(2) từ các mạch thạch anh - carbonat phát triển
trong các tập đá lục nguyên.
Các mẫu thu thập được gia công và phân tích
khoáng tướng trên kính hiển vi phân cực ánh sáng
phản xạ. Các mẫu trọng sa nhân tạo (giã đãi) được
nghiền đến cỡ hạt 0,5mm, sau đó được tuyển trọng
lực bằng bàn đãi nghiêng, đãi tay, tuyển từ và
tuyển nổi trong dung dịch nặng (bromoform), nhặt
đơn khoáng bằng kính hiển vi hai mắt. Tinh quặng
thu được một phần được gửi đi phân tích ICP-OES,
một phần được trộn với epoxy đúc thành các mẫu,
và được mài láng để nghiên cứu trên kính hiển vi
điện tử quét và microsonde.
Thành phần hóa học (nguyên tố chính và
nguyên tố đi kèm) của khoáng vật quặng được
nghiên cứu trên máy vi dò (microsonde – EPMA
Jeol 8700) tại Viện Địa chất và Khoáng vật học
Novosibirsk. Để xác định một số pha hiếm dưới
dạng tinh thể độc lập hoặc khảm cơ học trong các
khoáng vật quặng khác, một số mẫu đã sử dụng
kính hiển vi điện tử quét (SEM Quanta 650 tại
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam và LEO tại Viện Địa chất và
Khoáng vật học Novosibirsk). Các kết quả phân
tích thành phần hóa học của khoáng vật quặng từ
các mỏ Bó Va được đối sánh với các khoáng vật
tương tự trong các mỏ vàng sulfide điển hình trên
thế giới. Hàm lượng các nguyên tố quặng chính (và
vàng) và nguyên tố đi kèm trong quặng được phân
tích bằng phương pháp TD-ICP-MS tại Trung tâm
phân tích ACLAB, Canada.
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Đặc điểm thành phần khoáng vật quặng
Kết quả phân tích quặng sulfide xâm tán trong
đá phiến đen cũng như cát kết chứa khoáng hóa
cho thấy thành phần khoáng vật của chúng khá đơn
giản, chủ yếu là arsenopyrite và pyrite, đôi chỗ gặp
gersdorfide. Trong khi đó, thành phần khoáng vật
quặng trong các mạch thạch anh/carbonat chứa
sulfide khá phức tạp, bao gồm pyrit/ arsenopyrit
+/- galena +/-sphalerit +/- chalcopyrit +/-
gersdorfide +/- sheelite; trong các mạch thạch anh -
sulfide có chứa vàng . Đáng chú ý là arsenopyrite
trong ba đới quặng ở Bó Va thường có hai dạng:
tinh thể tàn dư (ảnh 1) và dạng tinh thể tự hình
không có dấu hiệu gặm mòn thay thế (ảnh 2). Tổ
hợp arsenopyrite - pyrite đặc trưng cho tất cả các
đới quặng ở mỏ Bó Va; Đôi khi các khoáng vật này
tạo thành các tinh thể mọc xen (ảnh 3, 4). Theo các
quan sát dưới kính hiển vi, chalcopyrit và sphalerit
thường gặp dưới dạng lấp đầy khe nứt trong
arsenopyrit (ảnh 4, 5). Vàng tự sinh thường gặp
dưới dạng tinh thể độc lập kích thước nhỏ (10 -
40µm), hoặc nằm dưới dạng bao thể trong
arsenopyrite (ảnh 4, 6).
196
Ảnh 1. Các tinh thể nhỏ arsenopyrit (ar)
và pyrit (py) dạng tàn dư trong đá
phiến. Nà Phai 1
Ảnh 2. Tinh thế arsenopyrit lớn (ar) và
hạt nhỏ chalcopyrit (chp).
Đới Nà Phai 2
Ảnh 3. Tinh thể mọc xen giữa
arsenopyrit (ar) và pyrit (py). Đới Vi Ba,
mỏ Bó Va
Ảnh 4. Tinh thể mọc xen pyrit (py) và
arsenopyrit (ar). Trong khe nứt giữa
chúng là chalcopyrit (chp) và vàng
tự sinh (au). Đới Nà Phai 2
Ảnh 5. Chalcopyrit (chp) và sphalerit
(spl) lấp đầy mạch mỏng trong
arsenopyrit. Đới Vi Ba
Ảnh 6. Tinh thể arsenopyrit kích thước
lớn (ar) với các tinh thể bao thể pyrit
(py), chalcopyrit (chp) và vàng tự sinh
(au). Đới Nà Phai 2
4.2. Thành phần hóa học của khoáng vật quặng
chính
4.2.1. Arsenopyrit
Thành phần hóa học của arsenopyrit đặc trưng
giàu S. Hàm lượng các nguyên tố tạp chất là Ni
khoảng 0 - 0,24% (bảng 1). Hàm lượng As trong các
mẫu phân tích biến thiên trong khoảng 41,43-
42.98% thấp hơn so với giá trị hàm lượng lý thuyết
của As trong arsenopyrit - 46%. Hàm lượng S biến
thiên ít trong khoảng 21,77-22,48 % (nguyên tử) cao
hơn so với hàm lượng S lý thuyết trong arsenopyrit -
19,7%. Tính toán tỷ lệ S/As cho thấy các giá trị này
dao động trong khoảng từ 1,09 đến 1,31 rất đặc
trưng cho arsenopyrit ở các mỏ Au-sulfide với vàng
hạt mịn và phân tán trong sulfide [8].
Bảng 1. Thành phần hóa học của arsenopyrit khu vực Bó Va (đơn vị: % tl)
Mẫu Loại mẫu Ni Co Fe As S Ag Au Sb Tổng n
KC14-304 Đá phiến 0,02 0,00 34,76 42,39 22,04 0,00 0,00 0,00 99,21 6
KC14-305 Mạch thạch anh 0,03 0,00 34,54 42,58 21,96 0,00 0,00 0,03 99,13 5
KC14-307 Đá phiến đen 0,02 0,00 34,89 42,18 22,15 0,00 0,00 0,00 99,24 5
KC14-2 Đá phiến 0,07 0,01 34,26 42,97 21,90 0,00 0,05 0,02 99,28 5
KC14-3/1 Đá phiến 0,00 0,00 34,64 42,23 21,93 0,01 0,00 0,00 98,80 6
KC14-3/2 Mạch thạch anh 0,01 0,00 34,35 42,17 22,05 0,00 0,00 0,00 98,59 7
KC14-314 Đá phiến 0,14 0,03 34,30 42,98 21,98 0,02 0,05 0,01 99,52 5
KC14-8/1 Đá phiến 0,01 0,00 34,58 42,50 21,88 0,00 0,00 0,00 98,96 2
KC14-8/2 Đá phiến 0,05 0,00 34,78 41,43 22,36 0,00 0,00 0,01 98,63 6
KC14-8/3 Cát kết 0,24 0,10 34,11 42,80 21,77 0,00 0,04 0,04 99,10 10
KC14-8/4 Cát kết 0,14 0,01 34,45 42,33 22,00 0,00 0,00 0,01 98,93 5
KC14-8/5 Mạch thạch anh 0,01 0,00 34,98 42,00 22,48 0,00 0,04 0,04 99,54 5
*Đới Nà Phai 1: KC14-304, KC14-305, KC14-307, KC14-2; đới Nà Phai 2: KC14-3/1, KC14-3/2; đới Vi Ba: KC14-314,
KC14-8/1, KC14-8/2, KC14-8/3, KC14-8/4. “n” là số điểm phân tích trên mẫu. Phân tích bằng phương pháp microsond
197
Trong số các nguyên tố tạp chất ghi nhận được
Ni, Co và dấu hiệu của Au (KC14-314, KC14-8/3
và KC14-8/5; bảng 1). Hàm lượng Au có thể đến
400-500ppm khá cao trong của arsenopyrit trong
đá phiến chứa than cũng như arsenopyrit từ các
mạch thạch anh - carbonat (bảng 1). Tuy nhiên,
đây chỉ là dấu hiệu định hướng. Để có số liệu chính
xác cần phân tích đơn khoáng bằng các phương
pháp định lượng khác (QPHTNT, ICP-MS).
4.2.2. Pyrit
Thành phần hóa học của pyrit chủ yếu tương
ứng với thành phần lý thuyết (bảng 2), đặc trưng
có chứa As với hàm lượng khác nhau, thường là
cao, đến 50% kết quả phân tích có hàm lượng -
0,3-0,5% (bảng 2), đôi khi đến 1,96 % (không thể
hiện ở đây). Ngoài As, trong thành phần của pyrit
còn chứa Ni, đôi khi rất cao - đến 0,31% (mẫu
KC14-8/4), ít hơn - Co. Đây là những nét đặc trưng
về thành phần hóa học của pyrit trong các mỏ
vàng-sulfide chứa vàng hạt mịn và phân tán. Tuy
nhiên, kết quả phân tích microsond (bảng 2) rất ít
thấy có dấu hiệu của Au, ngoại trừ mẫu KC14-8/2
là pyrit trong mạch thạch anh.
Bảng 2. Thành phần hóa học của pyrite khu vực Bó Va (đơn vị: % tl)
KHM Loại mẫu Ni Co Fe As S Ag Au Sb Tổng n
KC14-304 Đá phiến 0,02 0,01 46,09 0,44 52,47 0,00 0,00 0,01 99,04 12
KC14-305 Mạch thạch anh 0,01 0,00 45,90 0,40 52,93 0,00 0,00 0,00 99,24 8
KC14-307 Đá phiến đen 0,11 0,00 46,41 0,03 52,37 0,00 0,00 0,00 98,91 6
KC14-2 Đá phiến 0,01 0,00 46,14 0,00 52,63 0,00 0,00 0,01 98,81 5
KC14-3/1 Đá phiến 0,03 0,00 46,19 0,00 52,70 0,00 0,00 0,00 98,91 5
KC14-3/2 Mạch thạch anh 0,07 0,04 45,60 0,12 53,24 0,00 0,00 0,00 99,06 5
KC14-8/1 Đá phiến 0,09 0,00 46,06 0,09 52,76 0,01 0,00 0,00 99,01 7
KC14-8/2 Đá phiến 0,14 0,19 46,24 0,50 52,72 0,00 0,00 0,00 99,79 7
KC14-8/3 Cát kết 0,12 0,90 45,65 0,00 52,42 0,01 0,00 0,02 99,11 5
KC14-8/4 Cát kết 0,31 0,04 46,08 0,35 52,42 0,00 0,00 0,00 99,19 7
KC14-8/5 Mạch thạch anh 0,02 0,00 46,30 0,07 52,57 0,00 0,02 0,02 98,99 6
Chú giải: Tên mẫu quặng như bảng 1. Phân tích bằng phương pháp microsond
4.2.3. Vàng tự sinh
Vàng tự sinh được phát hiện trong các mẫu tinh
quặng được mài bóng (ảnh 7). Vàng tự sinh còn
thấy trong mẫu mài láng quặng dưới dạng bao thể
trong arsenopyrit (ảnh 6). Trong một số trường
hợp, vàng tự sinh và chalcoppyrit lấp đầy khe nứt
giữa các khoáng vật arsenopyrit và pyrit (ảnh 4).
Kích thước hạt vàng tự sinh từ 10 đến 40 μm, rất
đặc trưng cho các mỏ vàng sulfide. Thành phần
hóa học của vàng tự sinh được phân tích trên máy
microsond cho thấy hàm lượng Au=84,5%; tạp
chất khoảng 15,4% (bảng 3). Có thể thấy có hai
loại vàng: loại thứ nhất đặc trưng có hàm lượng
Ag= 18,5 - 15% ; loại thứ hai: hàm lượng Ag chỉ
khoảng 10% (bảng 3). Điều thú vị là cả hai loại
này đều cùng tồn tại trong một kiểu mẫu. Nguyên
nhân (bản chất) của hiện tượng này chưa rõ và cần
có sự nghiên cứu bổ sung thêm.
Ảnh 7. Vàng tự sinh (màu vàng sáng) với arsenopyrit (màu trắng) và
pyrit (vàng nhạt. Đới Nà Phai 1, Nà Phai 2, Vi Ba của mỏ Bó Va
198
Bảng 3. Thành phần hóa học của vàng tự sinh khu
vực Bó Va (đơn vị: % tl)
N Mẫu Cu Au Hg Ag Tổng
1
KC14-8/1
Đá phiến chứa sulfide
0,01 83,35 0,01 16,22 99,58
2 0,00 83,13 0,00 16,51 99,64
3 0,00 83,06 0,05 16,15 99,26
4 0,00 83,11 0,00 16,05 99,16
5 0,04 83,57 0,00 16,13 99,74
6 0,02 81,84 0,00 16,69 98,54
7 KC14-8/5
Thạch anh chứa sulfide
0,13 88,41 0,00 11,68 100,21
8 0,24 88,94 0,01 11,80 100,98
9
KC14-314
Đá phiến chứa sulfide
0,02 85,00 0,00 15,65 100,67
10 0,00 85,73 0,00 15,27 101,00
11 0,03 85,06 0,00 15,93 101,01
12 0,00 81,91 0,00 17,93 99,84
13 0,01 80,76 0,05 18,40 99,21
14 0,01 90,70 0,13 10,39 101,23
15 0,02 89,56 0,06 10,44 100,08
16 0,06 89,62 0,12 10,76 100,55
17 0,01 82,99 0,03 16,59 99,61
18 0,01 83,19 0,00 16,62 99,82
Thành phần của hạt vàng tự sinh nằm khảm
trong arsenopyrit chứa Ni được xác định trên kính
hiển vi điện tử quét (ảnh 8), đặc trưng có mặt hàm
lượng Ag khoảng 3%, nghĩa là vàng dưới dạng bao
thể nhỏ (micro) có “tuổi” rất cao.
Ảnh 8. Tinh thể - bao thể vàng tự sinh (2,3)
trong arsenopyrit chứa Ni (1). Mẫu KC14-8/2, đới Vi Ba,
mỏ Bó Va và biểu đồ thành phần xác định bằng SEM
Ngoài arsenopyrit, pyrit, vàng tự sinh trong
quặng sulfide ở Bó Va còn gặp chalcopyrit dưới
dạng các tinh thể đơn lẻ nhỏ, sphalerit dưới dạng
các tinh thể bao thể trong các khoáng vật này và
tetraedrit dưới dạng tinh thể mọc xen với
chalcopyrit; xác định được sheelit, barit,
gersdorffite - NiAsS bằng phương pháp kính hiển
vi điện tử quét.
4.3. Đặc điểm địa hóa quặng
Kết quả phân tích ICP cho thấy trong quặng
của khu vực Bó Va ngoài As có hàm lượng tương
đối cao, không có nguyên tố nào có hàm lượng cao
khác. Điều này cũng là một trong những nét đặc
trưng của các mỏ vàng sulfide Au-As trong các đá
phiến chứa than (mẫu KC14-307, KC14-3/1,
KC14-8/2, KC14-8/3, bảng 4).
Bảng 4. Kết quả phân tích quặng sulfide
khu vực Bó Va bằng phương pháp ICP-OES
Nguyên
tố
Đơn
vị
Số hiệu mẫu
KC14-
307
KC14-
3/1
KC14-
3/2
KC14-
8/1
KC14-
8/2
KC14-
8/3
Au ppb 100 197 150 23 1280 854
Ag ppm 0,44 0,38 < 0.05 0,99 1,29 0,47
Cu ppm 68,2 60,9 15,9 40,5 39,2 12,1
Cd ppm 0,1 0,1 < 0.1 0,4 0,4 < 0.1
Mo ppm 0,5 0,4 < 0.2 < 0.2 0,3 0,4
Mn ppm 615 528 1290 229 418 23
Pb ppm 5,7 10,3 10,3 9,7 44,7 9,6
Ni ppm 75,9 70,4 10,3 70 59,2 59,7
Zn ppm 104 100 24,2 155 48,6 14,2
As ppm 4990 4160 989 227 29700 35200
Ba ppm 662 782 49 585 505 346
Bi ppm 0,15 0,27 0,05 0,16 0,23 0,36
Ca % 5,47 4,43 11,1 0,2 1,41 < 0.01
Co ppm 28 21 4 23 16 12
Cr ppm 114 114 < 2 142 72 < 2
Fe % 5,13 4,07 1,81 3,2 4,68 3,68
Hg ppb < 10 < 10 < 10 60 10 60
Mg % 1,71 1,48 0,59 0,89 0,98 0,17
Rb ppm 187 186 12,3 169 131 88,2
Sb ppm 10,6 12,4 7,8 10,6 0,7 0,7
Se ppm 0,2 0,1 0,1 < 0.1 2,6 3,6
Sn ppm 4 4 < 1 16 6 4
Sr ppm 374 311 > 1000 69,1 175 26,6
W ppm < 1 < 1 4710 < 1 < 1 < 1
Hàm lượng vàng và bạc trong quặng ở các mẫu
được thu thập tương đối thấp chưa đạt mức công
nghiệp. Đáng chú ý là 2 mẫu KC14-8/2, KC14-8/3
đới Vi Ba 1280 ppb, 854 ppb; đây là các mẫu đá
phiến và cát kết chứa sulfide.
Hầu như trong tất cả các mẫu đều thấy hàm
lượng Zn đôi chút tăng cao. Về mặt khoáng vật
học, điều này cho thấy sự có mặt của các hạt
sphalerit rất nhỏ. Trong mẫu KC14-3/2, hàm lượng
W lên đến 4710ppm phản ánh sự có mặt của sheelit
trong mẫu giã đãi và đã được kể ra ở trên.
199
Trong số các nguyên tố có dị thường dương với
hàm lượng cao chỉ thấy có As. Một số mẫu riêng
biệt có hàm lượng Zn và W tăng cao, tuy nhiên đây
không phải là qui luật. Ngoài ra hàm lượng cao còn
có các nguyên tố như P, Ba, Ti, Sr, Mn và B. Tuy
nhiên, các nguyên tố này không thuộc tổ hợp địa
hoá quặng, hàm lượng tăng cao (đôi khi đạt dị
thường cao) của chúng có thể được giải thích là do
tồn tại các khoáng vật phụ và khoáng vật tạo đá
trong các đá vây quanh.
Để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hàm lượng
tăng cao của vàng với các nguyên tố tạp chất khác,
đã xử lý các kết quả ICP thu được bằng phương
pháp tương quan với việc coi ba đới quặng trong
khu vực Bó Va như một đối tượng quặng thống
nhất. Ma trận tương quan được xây dựng cho thấy
có mối tương quan dương giữa Au với As - hệ số
tương quan cặp đôi bằng 0,923 (bảng 5, hình 2).
Mối tương quan dương, biểu hiện kém, nhưng khá
bình ổn thấy giữa vàng và Se - hệ số tương quan
cặp đôi bằng 0,885. Điều thú vị là thể hiện rõ mối
tương quan nghịch biến giữa vàng và Sb - hệ số
tương quan âm bằng - 0,915.
Tuy chưa thể hiện rõ trên biểu đồ tương quan
hình 2 và hình 3 nhưng có thể thấy mối tương quan
dương giữa vàng và các nguyên tố As, Se, Pb.
Tương quan dương giữa vàng và As có thể giải
thích do arsenopyrit là khoáng vật quặng chủ yếu
trong mỏ Bó Va nên về mặt lý thuyết, vàng phải
liên quan với nó. Mối liên quan của vàng với Pb
không rõ rệt lắm mặc dù không loại trừ trường hợp
Pb với số lượng không lớn tham gia vào thành
phần của arsenopyrit dưới dạng tạp chất mà ngay
cả microzond cũng không phát hiện thấy.
Hình 2. Tương quan giữa vàng với asen, selen, antimon và bạc trong quặng sulfide Bó Va
Hình 3. Tương quan giữa asen với selen và antimon trong quặng sulfide Bó Va
200
Bảng 5. Hệ số tương quan cặp đôi giữa các nguyên tố trong quặng mỏ Bó Va
Au Ag Cu Cd Mn Pb Ni Zn As Ba Bi Ca Co Cr Mg Rb Sb Se Sn Sr W Hg
Au 1
Ag 0,55 1
Cu -0,35 0,14 1
Cd 0,33 0,92 0,01 1
Mn -0,38 -0,57 -0,04 -0,35 1
Pb 0,82 0,73 -0,07 0,64 -0,11 1
Ni 0,02 0,48 0,68 0,23 -0,75 -0,02 1
Zn -0,59 0,31 0,7 0,39 -0,22 -0,26 0,62 1
As 0,92 0,38 -0,43 0,12 -0,56 0,54 0,12 -0,62 1
Ba -0,13 0,37 0,86 0,17 -0,49 -0,01 0,91 0,71 -0,14 1
Bi 0,55 0,24 -0,07 -0,06 -0,81 0,14 0,54 -0,2 0,73 0,37 1
Ca -0,45 -0,73 -0,02 -0,54 0,97 -0,27 -0,71 -0,26 -0,56 -0,47 -0,73 1
Co -0,29 0,35 0,87 0,2 -0,43 -0,15 0,9 0,81 -0,26 0,9 0,13 -0,41 1
Cr -0,4 0,43 0,84 0,42 -0,27 -0,06 0,74 0,95 -0,49 0,85 -0,08 -0,31 0,89 1
Mg -0,38 0,05 0,98 -0,05 0,16 -0,06 0,52 0,62 -0,51 0,75 -0,23 0,17 0,77 0,76 1
Rb -0,18 0,42 0,87 0,24 -0,51 -0,04 0,94 0,79 -0,18 0,98 0,29 -0,49 0,96 0,9 0,75 1
Sb -0,91 -0,37 0,64 -0,22 0,33 -0,62 0,19 0,73 -0,93 0,44 -0,45 0,38 0,49 0,65 0,67 0,46 1
Se 0,88 0,35 -0,52 0,12 -0,58 0,47 0,07 -0,64 0,99 -0,21 0,72 -0,57 -0,31 -0,54 -0,61 -0,24 -0,94 1
Sn -0,18 0,65 0,14 0,77 -0,53 0,02 0,47 0,75 -0,19 0,37 -0 -0,63 0,47 0,65 0,01 0,47 0,2 -0,15 1
Sr -0,39 -0,67 -0,17 -0,44 0,98 -0,19 -0,82 -0,33 -0,51 -0,6 -0,76 0,98 -0,54 -0,4 0,03 -0,61 0,27 -0,51 -0,58 1
W -0,27 -0,6 -0,51 -0,32 0,87 -0,16 -0,96 -0,45 -0,36 -0,83 -0,7 0,85 -0,76 -0,59 -0,33 -0,83 0,06 -0,32 -0,45 0,93 1
Hg 0,01 0,22 -0,45 0,25 -0,7 -0,29 0,23 0,15 0,26 -0,07 0,41 -0,67 0,02 -0,03 -0,6 -0 -0,22 0,36 0,62 -0,6 -0,32 1
Tương quan giữa vàng với Se chính là do thay thế đồng hình của Se vào ô
mạng của arsenopyrit và vì thế hàm lượng arsenopyrit trong quặng càng cao thì
tương ứng có hàm lượng Se càng cao. Hệ số tương quan giữa As và Se bằng 0,99;
Sự phụ thuộc của hàm lượng Se vào hàm lượng As được thể hiện ở hình 3.
Antimon, về bản chất địa hoá, là nguyên tố đối nghịch với arsen. Như một quy
luật, hai nguyên tố này tạo nên các tổ hợp địa hoá và khoáng vật độc lập. Sự tồn
tại chúng cùng với nhau được xem như kết quả trùng hợp về mặt không gian, có
nghĩa là khi hàm lượng As tăng thì hàm lượng Sb giảm trong quặng. Sự phụ thuộc
của Au, Sb và Se được thể hiện trên biểu đồ tương quan giữa As với Sb và Au với
Sb (hình 2, 3).
Đáng chú ý là mối liên quan không rõ rệt giữa vàng và bạc. Hệ số tương quan
cặp chỉ bằng 0,545, cho thấy các nguyên tố này phân bố không có qui luật. Tương
quan giữa vàng và bạc thể hiện ở biểu đồ tương quan vàng với bạc (hình 2).
Trong số các nguyên tố còn lại Ag tương quan dương chặt chẽ với Cd, hệ số
tương quan cao, bằng 0,92 (bảng 5).
201
Bên cạnh những tổ hợp địa hoá mô tả trên,
trong quặng của mỏ Bó Va còn có một số nhóm
nguyên tố bền vững như Mn, Ca, Sr, Y có lẽ liên
quan tới hợp phần carbonat ; Ni, Co, Ba, Ga, Rb,
Sc, V - có lẽ tham gia trong thành phần các khoáng
vật phụ. Những nguyên tố quặng còn lại không tạo
nên mối liên kết bền vững với các nguyên tố khác.
3.5. Dấu hiệu nhận dạng kiểu quặng hóa và triển
vọng vàng khu vực Bó Va
Tổng hợp các tài liệu nghiên cứu về các kiểu
mỏ vàng - sulfide với vàng hạt mịn và phân tán
trong sulfide trên thế giới, cá biệt đó là các mỏ ở
khu vực rìa tây nam khối Nam Trung Hoa [8] có
thể thấy các tiêu chí cơ bản để xếp loại các kiểu
quặng hóa này là: (i) mối liên quan đến các đứt gãy
sâu; (ii) phân bố trong các trầm tích lục nguyên,
lục nguyên - carbonat, lục nguyên - núi lửa thường
chứa vật chất hữu cơ; (iii) khoáng hóa sulfide có
thành phần chủ yếu arsenopyrite - pyrite, trong đó
arsenopyrite có thành phần khác với thành phần lý
thuyết, thường chứa Ni và Au, pyrite chứa As (và
Au); (iv) trong tổ hợp khoáng vật quặng thường có
sheelite, chalcopyrite, galenite, sphalerite; (v) các
đặc điểm địa hóa chứng tỏ khuynh hướng As; (vi)
hai kiểu biểu hiện khoáng hóa sulfide là xâm tán
trong các tập đá trầm tích/biến chất/núi lửa và
mạch/mạng mạch thạch/carbonat.
Như trên đã nêu, các đới quặng hóa Bó Va
phân bố trong đá phiến sét, cát-bột kết bị phiến hóa
chứa vật chất hữu cơ; chịu sự khống chế của các
đứt gãy địa phương trong ảnh hưởng động lực của
đới đứt gãy sâu Cao Bằng - Tiên Yên. Mức độ
xuyên vỏ của đứt gãy này được minh chứng ở sự
xuất lộ các sản phẩm của hoạt động magma manti -
các đá mafic - siêu mafic của phức hệ Cao Bằng [7,
8]. Thành phần thạch học và cấu tạo dạng flish bị
biến dạng dẻo biểu hiện ở các nếp uốn và vi nếp
uốn trong các đá trầm tích - biến chất và biến dạng
giòn biểu hiện ở các đới dăm hóa (breccia) là môi
trường thuận lợi cho sự lắng đọng-tập trung quặng
sulfide. Mặc dù cho đến nay vẫn còn các ý kiến
khác nhau về vai trò của vật chất hữu cơ trong việc
tập trung quặng, biểu hiện của chúng vẫn được coi
là dấu hiệu cho phép đoán định về khả năng có các
đới sulfide hóa trong trầm tích có đặc điểm này.
Sự phổ biến tương đối rộng rãi các xâm tán
arsenopyrite và pyrite trong các tập đá chứa vật
chất hữu cơ ở các đới quặng hóa Bó Va là dấu hiệu
chẩn đoán đáng tin cậy. Hơn thế nữa, sự có mặt
phổ biến các tinh thể tàn dư arsenopyrite trong các
tập trầm tích cho phép khẳng định rằng các khoáng
vật quặng này còn phổ biến rộng hơn quy mô hiện
thấy. Biểu hiện arsenopyrite tàn dư đã được xác
định ở cả ba đới quặng Bó Va và đó là một
trong các tiêu chí để gộp chúng vào nhóm Au-
arsenopyrite.
Tổ hợp khoáng vật quặng arsenopyrite - pyrite
chứa vàng hoặc pyrite chứa vàng với galenite,
sphalerite, chalcopyrite, sheelite ở khu vực nghiên
cứu là những nét đặc trưng của kiểu quặng hóa Au-
sulfide. Đáng chú ý là đặc điểm thành phần hóa
học của arsenopyrite và pyrite: arsenopyrite thường
thuộc loại giàu S (với tỷ lệ S/As>1) và chứa một
tập hợp các nguyên tố đi kèm như Ni, Co, Sb;
pyrite chứa As. Những đặc trưng này đã tạo nên
các dấu hiệu chỉ thị cho triển vọng chứa vàng hạt
mịn của arsenopyrite cũng như pyrite theo dấu hiệu
của kiểu mỏ vàng (Au) - sulfide có triển vọng lớn
trong khu vực và thế giới. So sánh đặc điểm phân
bố As của arsenopyrite từ các mỏ nghiên cứu với
đặc điểm phân bố As trong quặng sulfide ở mỏ Au-
sulfide Poputnin có quy mô lớn ở vùng Enisei
(Nga) trên các biểu đồ tần suất (Histogram) hình 4,
5 có thể thấy chúng khá tương tự nhau.
Hình 4. Thành phần của arsenopyrite, Nà Phai-1,
mỏ Bó Va. Số liệu của đề tài KC08-14/11-15.
Hinh 5. Thành phần của arsenopyrite, mỏ Poputnin (Nga).
Nguồn: [10]
202
4. Kết luận
Quặng hóa khu vực Bó Va được xếp vào kiểu
Au-sulfide chứa vàng hạt mịn và phân tán trong
sulfide với các dấu hiệu đã xác lập về địa chất, tổ
hợp cộng sinh khoáng vật quặng, thành phần
khoáng vật và địa hóa quặng cũn như dạng tồn tại
và kích thước của vàng tự sinh.
Đá vây quanh quặng chủ yếu là đá phiến sét,
phiến sét - vôi, cát bột kết dạng flish và carbonat
chứa vật chất hữu cơ; Chúng bị biến dạng dẻo và
giòn dưới tác động của kiến tạo là những yếu tố
thuận lợi cho sự lắng đọng quặng.
Quặng hóa bao gồm hai kiểu: các tập đá chứa
sulfide nguyên sinh và các mạch thạch anh-
carbonat xuyên cắt chúng; Thành phần khoáng vật
của kiểu quặng thứ nhất khá đơn giản, bao gồm
chủ yếu arsenopyrite, pyrite và vàng tự sinh; ở kiểu
quặng thứ hai, phổ biến pyrite, arsenopyrite,
chalcopyrite, sphalerite, galenite và vàng tự sinh;
Phổ biến arsenopyrite có thành phần S cao, thường
xuyên chứa Ni, Co, Sb và Au tự sinh; pyrite chứa
As và Au.
Các khoáng vật chứa vàng chủ yếu trong các
đới quặng hóa Bó Va là arsenopyrit và pyrit; chúng
là nguồn cung cấp vàng hạt mịn và phân tán có
triển vọng ở khu vực này theo các dấu hiệu đã
được xác lập. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong
việc định hướng công nghệ thu hồi thích hợp với
hiệu quả cao để giảm thiểu tổn thất loại tài nguyên
quý này.
Bài báo được hoàn thành là kết quả nghiên cứu
của đề tài KC.08.14/11-15 thuộc Chương trình
KHCN trọng điểm cấp nhà nước “Khoa học và
Công nghên phục vụ phòng tránh thiên tai, bảo vệ
môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên” mã số: KC.08/11-15 và đề tài cơ sở:
“Nghiên cứu đặc điểm khoáng vật arsenopyrit,
pyrit của kiểu quặng hóa vàng sulfur trong trầm
tích lục nguyên và lục nguyên carbonat chứa vật
chất hữu cơ” Viện Địa chất.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Thế Cương (chủ biên), 1996: Đo
vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản nhóm tờ
Cao Bằng - Đông Khê tỷ lệ 1:50.000. Liên đoàn
Địa chất Đông Bắc.
[2] Nguyễn Văn Quý, 2011: Gold. In Geology
and Earth Resources of Việt Nam (Trần Văn Trị
and Vũ Khúc - Editors), p.542-544; Publ. House
for Science and Technology, 645pp.
[3] Petrov V.G và nnk, 1996: Đặc điểm cấu
trúc trường quặng, các kiểu cấu trúc, hình thái của
các mạch thạch anh chứa vàng mỏ Bó Va (Cao
Bằng). Địa chất - Tài nguyên , công trình kỷ niệm
20 năm thành lập Viện Địa chất, 1: 361-367 Viện
Địa chất - Hà Nội.
[4] Petrov V.G và nnk, 1996: Đặc điểm thành
phần khoáng vật và giai đoạn tạo quặng ở mỏ Bó
Va Cao Bằng. Địa chất - Tài nguyên, công trình kỷ
niệm 20 năm thành lập Viện Địa chất, 1: 367-374
Viện Địa chất - Hà Nội.
[5] Phạm Đình Long (chủ biên), 1974: Bản đồ
địa chất khoáng sản tờ Chinh Si - Long Tân tỷ lệ
1:200.000.
[6] Trần Trọng Hoà et al., 1997: Bo Va
quartz-veins gold deposit in North Vietnam.
Extended Abstract from Seminar on Geol. and
Metallic Minerals. Hanoi.
[7] Trần Trọng Hòa, Borisenko A.S. (đồng
chủ biên), 2006: Nghiên cứu phát hiện các kiểu
quặng hóa vàng mới (Au-Sb-Hg) trên lãnh thổ
MBVN. Báo cáo tổng kết đề tài HTQT do Viện
KHCNVN hỗ trợ. Lưu trữ Viện Địa chất.
[8] Trần Trọng Hòa và nnk, 2013: Các tụ
khoáng vàng - sulfide trong các thành tạo lục
nguyên và lục nguyên carbonat rift Sông Hiến,
Đông Bắc Việt Nam. Tuyển tập báo cáo Hội thảo
KC.08/11-15.
[9] Trần Văn Trị, Trần Thanh Hải, 2011: Late
Permian-Mesozoic Sông Hiến - An Châu rift
system. In Geology and Earth Resources of Việt
Nam (Trần Văn Trị and Vũ Khúc - Editors),
pp.422-425. Publ. House for Science and
Technology, 645pp.
[10] Генкин А.Д., Вагнер Ф.Е., Крылова Т.Л.,
Цепин А.И. Золотоносный арсенопирит и
условия его образования на золоторудных
месторождениях Олимпиада и Ведуга
(Енисейский кряж. Сибирь) // Геол. рудн. мест.
2002. Т.44. №1. С. 59-76.
203
SUMMARY
Characteristics of Bo Va gold-sulphide ores, Northeast Vietnam
Research ore characteristics and chemical composition of the three ore zones in the Bo Va region imply that
mineralization in the area belong toe gold-sulfide (Au-As) type, characterizing by strong positive correlation between
arsenic and gold. Native gold in different types of ore deposits in Bo Va usually present as independent inclusions in ore
minerals or fill in the spaces between the main ore mineral, mostly of small very small size, closely associated with
arsenopyrites. Two types of native gold have been identified: the first type is characterized by Ag = 18.5 to 15 wt.%; the
second type: content is about 10 wt.% Ag in composition. The presence of fine-grained gold not only in quartz sulfide but
also the distribution of large quantities waste arsenopyrite-bearing shales have important implications for the navigating
appropriate exploitation and extracting solutions.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5902_21121_1_pb_8042_2100721.pdf