Hiệu lực của một số loại thuốc sinh học đối với loài rệp
sáp giả R. chinensis
Trong khuôn khổ thí nghiệm, hầu hết các loại thuốc bảo
vệ thực vật có nguồn gốc sinh học có hiệu lực đối với loài
rệp sáp giả vào thời điểm 5 ngày sau xử lý; trong đó, hỗn hợp
hoạt chất azadirachtin + matrine cho hiệu quả phòng trừ cao
nhất (52,95%), các công thức còn lại đều cho hiệu lực thấp
hơn 50%. Ở thời điểm 7 ngày sau phun, hầu hết các công thức
đều có hiệu lực phòng trừ cao, trong đó hỗn hợp azadirachtin
+ matrine đạt hiệu lực phòng trừ cao nhất (73,44%), tiếp đến
là abamectin đạt 66,92%. Công thức sử dụng chế phẩm nấm
có ích beauveria bassiana + metarhizium anizopliae, garlic
juice và bacillus thuringiensis var. kurstaki cho hiệu lực
thấp hơn, đạt từ 45,34 đến 56,24%. Hiệu lực của tất cả các
loại thuốc bắt đầu giảm dần sau thời điểm 7 ngày sau xử lý.
Như vậy, hiệu lực của hỗn hợp azadirachtin + matrine đối
với loài rệp sáp giả cao nhất ở thời điểm 7 ngày và tiếp tục
kéo dài tới thời điểm 14 ngày sau xử lý (bảng 3).
Kết luận
Loài rệp sáp giả R. chinensis phát triển và sinh sản thuận
lợi ở điều kiện 25oC, nhưng không sinh sản khi nhiệt độ
tăng lên mức 30oC. Ở điều kiện nhiệt độ 25oC, vòng đời
là 75,19 ngày, tuổi thọ của trưởng thành khoảng 81 ngày,
thời gian sống của rệp khoảng 110 ngày, thời gian đẻ trứng
khoảng gần 40 ngày. Trong khi ở điều kiện nhiệt độ 30oC,
tuổi thọ của trưởng thành rút ngắn còn khoảng 26 ngày và
không có khả năng sinh sản. Hiệu lực của hỗn hợp hoạt chất
azadirachtin + matrine có hiệu lực cao đối với rệp sáp giả
R. chinensis ở thời điểm 7 ngày và tiếp tục kéo dài tới thời
điểm 14 ngày sau phun.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sinh học, sinh thái và phòng chống loài rệp sáp giả Rastrococcus chinensis (Hemiptera: Pseudococcidae) hại cây ba kích tím (Morinda officinalis How), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
Đặt vấn đề
Cây ba kích tím thuộc chi Morinda, họ Rubiaceae. Chi
Morinda có vài chục loài khác nhau với phần lớn là những
cây bụi, gỗ nhỏ hoặc dây leo, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt
đới. Đa số các loài thuộc chi này bắt nguồn từ Borneo, New
Guinea, phía bắc nước Úc và New Caledonia [1]. Tại Việt
Nam, ba kích tím được trồng nhiều tại các tỉnh miền núi
phía Bắc với mục đích làm dược liệu chữa bệnh phong thấp,
giúp giảm huyết áp [2], điều trị vô sinh cho nam giới và suy
nhược thể lực [3, 4].
Trên thế giới, chưa có nhiều nghiên cứu về sâu bệnh
hại đối với ba kích tím. Tại Trung Quốc, nấm Fusarium
oxysporium được xác định là nguyên nhân gây bệnh chết
héo cây ba kích tím [5]. Tại Ấn Độ, nấm Colletotrichum spp.
được xác định là nguyên nhân gây bệnh thán thư [6]. Tại
Việt Nam, đã có một số nghiên cứu xác định nấm Fusarium
spp. là nguyên gây ra các triệu chứng như héo vàng trên cây
ba kích tím từ giai đoạn cây con đến giai đoạn hình thành
củ tại Quảng Ninh và Thanh Hóa [7], vàng lá, thối rễ cây ba
kích tím tại huyện Ba Chẽ [8]. Ngoài ra, nấm Rhizoctonia
solani được xác định là nguyên nhân gây bệnh chết rạp cây
con tại Thanh Hóa [9]. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên
cứu nào liên quan đến sâu hại trên cây ba kích tím tại Việt
Nam. Trong quá trình nghiên cứu quản lý sâu bệnh hại trên
cây ba kích tím tại Quảng Ninh, chúng tôi đánh giá loài rệp
sáp giả Rastrococcus chinensis là đối tượng gây hại quan
trọng có khả năng bùng phát thành dịch. Rệp sáp giả là một
trong những họ lớn và đa dạng nhất, trong đó có nhiều loài
đa thực, gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau [10].
Ngoài gây hại trực tiếp, rệp sáp giả còn tiết ra độc tố gây
hiện tượng vàng, héo và rụng lá; cũng như tiết dịch mật là
môi trường thuận lợi cho nấm muội đen phát triển gây ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình quang hợp của cây. Một số
loài rệp sáp giả có khả năng truyền một số bệnh vi rút [11].
Trong bài báo này, chúng tôi công bố một số kết quả
nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái, diễn biến mật
độ quần thể loài rệp sáp giả R. chinensis và đánh giá hiệu
lực của một số loại thuốc đối với rệp phục vụ sản xuất bền
vững ba kích tím.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm sinh học của loài loài rệp sáp giả
R. chinensis
Cây ba kích tím được trồng trong nhà lưới để làm thức
ăn nuôi sâu, cây làm thức ăn đảm bảo sạch, không sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật và cây được trồng liên tục tạo nguồn
thức ăn luôn dồi dào. Nguồn thức ăn có thể được thu trực
tiếp ngoài tự nhiên, cũng đảm bảo các điều kiện vệ sinh và
Đặc điểm sinh học, sinh thái và phòng chống loài rệp sáp giả
Rastrococcus chinensis (Hemiptera: Pseudococcidae)
hại cây ba kích tím (Morinda officinalis How.)
Trịnh Xuân Hoạt1*, Lưu Thị Xuyến2, Trần Lệ Bích Hồng2, Lê Xuân Vị1, Lê Thị Tuyết Nhung1
1Viện Bảo vệ Thực vật
2Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Ngày nhận bài 10/11/2020; ngày chuyển phản biện 13/11/2020; ngày nhận phản biện 17/12/2020; ngày chấp nhận đăng 23/12/2020
Tóm tắt:
Cây ba kích tím (Morinda officinalis How.) được trồng phổ biến tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam với
mục đích sử dụng làm thuốc. Loài rệp sáp giả Rastrococcus chinensis (Hemiptera: Pseudococcidae) được xem là đối
tượng gây hại nguy hiểm đối với cây ba kích tím tại Việt Nam. Loài rệp này phát triển và sinh sản thuận lợi ở điều
kiện 25oC, nhưng không sinh sản khi nhiệt độ tăng lên mức 30oC. Ở điều kiện nhiệt độ 25oC, vòng đời là 75,19 ngày,
tuổi thọ của rệp trưởng thành là 81 ngày, thời gian sống là 110 ngày. Trong khi ở điều kiện nhiệt độ 30oC, tuổi thọ
của rệp trưởng thành rút ngắn còn khoảng 26 ngày và không có khả năng sinh sản. Hiệu lực của hỗn hợp hoạt chất
azadirachtin + matrine (thuốc Golmec 9EC) đối với loài rệp sáp giả R. chinensis là 73,44% tại thời điểm 7 ngày sau
khi phun và hiệu lực kéo dài đến 14 ngày.
Từ khóa: ba kích tím (Morinda officinalis How.), hiệu lực phòng trừ, Rastrococcus chinensis, rệp sáp giả.
Chỉ số phân loại: 4.1
* Tác giả liên hệ: Email: trinhxuanhoatppri@gmail.com
45
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
đảm bảo tiêu chuẩn thức ăn. Tiến hành thu thập lượng lớn
sâu từ ngoài đồng về phòng thí nghiệm. Tiến hành nuôi cá
thể hoặc tập thể trong nhà lưới và phòng thí nghiệm để thu
nhộng sâu non. Hàng ngày, theo dõi tiến độ phát dục của sâu
để thu trưởng thành và ghép cặp. Khi có trứng tiến hành thu
trứng phục vụ việc nghiên cứu các đặc điểm sinh học sinh
thái của loài.
Sâu hại được nuôi ở 2 mức nhiệt độ là 25 và 30ºC, độ ẩm
80%. Số cá thể theo dõi là 120-150. Thức ăn được đặt trong
hộp petri hoặc hộp nhựa có bông giữ ẩm. Dùng bút lông nhẹ
nhàng bắt từng cá thể sâu mới nở, chuyển vào các hộp có
chứa thức ăn. Hàng ngày, vào những giờ nhất định theo dõi
tập tính hoạt động, quá trình lột xác chuyển tuổi và bổ sung
thức ăn cho sâu vào một giờ nhất định.
Chỉ tiêu theo dõi: quan sát tập tính hoạt động sống của
các pha phát triển của sâu. Thời gian phát triển các pha, tuổi
sâu, vòng đời, khả năng đẻ của sâu qua các ngày và tuổi thọ
của sâu trưởng thành. Thời gian phát triển các pha và vòng
đời được tính theo công thức:
3
nguồn thức ăn luôn dồi dào. Nguồn thức ăn có thể được thu trực tiếp ngoài tự nhiên,
cũng đảm bảo các điều kiện vệ sinh và đảm bảo tiêu chuẩn thức ăn. Tiến hành thu thập
lượng lớn sâu từ ngoài đồng về phòng thí nghiệm. Tiến hành nuôi cá thể hoặc tập thể
trong nhà lưới và phòng thí nghiệm để thu nhộng sâu non. Hàng ngày, theo dõi tiến độ
phát dục của sâu để thu trưởng thành và ghép cặp. Khi có trứng tiến hành thu trứng
phục vụ việc nghiên cứu các đặc điểm sinh học sinh thái của loài.
Sâu hại được nuôi ở 2 mức nhiệt độ là 25 và 30ºC, độ ẩm 80%. Số cá thể theo dõi
là 120-150. Thức ăn được đặt trong hộp petri hoặc hộp nhựa có bông giữ ẩm. Dùng bút
lông nhẹ nhàng bắt từng cá thể sâu mới nở, chuyển vào các hộp có chứa thức ăn. Hàng
ngày, vào những giờ nhất định theo dõi tập tính hoạt động, quá trình lột xác chuyển
tuổi và bổ sung thức ăn cho sâu vào một giờ nhất định.
Chỉ tiêu theo dõi: quan sát tập tính hoạt động sống của các pha phát triển của sâu.
Thời gian phát triển các pha, tuổi sâu, vòng đời, khả năng đẻ của sâu qua các ngày và tuổi
thọ của sâu trưởng thành. Thời gian phát triển các pha và vòng đời được tính theo công
thức:
X= S
N
niXi
.
Trong đó: Xi là thời gian phát triển của cá thể thứ i (ngày); ni là số cá thể có thời
gian như cá thể thứ i; N là số cá thể theo dõi; S là độ lệch chuẩn.
Khả năng sinh sản: số trứng đẻ ra (trứng/trưởng thành cái) và tỷ lệ nở (số ấu
trùng nở ra/tổng số trứng theo dõi).
Quy luật phát sinh, phát triển của loài rệp sáp giả R. chinensis
Mỗi vườn điều tra 10 điểm chéo góc, mỗi điểm 10 cây, điều tra 7 ngày 1 lần (4
kỳ điều tra/tháng). Chỉ tiêu theo dõi sau:
Tỷ lệ cây bị hại =
Số cây bị hại
Tổng số cây điều tra
Hiệu lực của một số loại thuốc đối với loài rệp sáp giả R. chinensis
Đối với thuốc có nguồn gốc sinh học: thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu
nhiên hoàn chỉnh, 3 lần nhắc lại, diện tích ô thí nghiệm 50 m2. Thí nghiệm được tiến
hành trên vườn ba kích tím 2 năm tuổi bao gồm:
CT-1: Azadirachtin + matrine (Golmec 9EC), liều lượng sử dụng 500 ml/ha,
lượng nước phun 500 l/ha.
CT2: Bacillus thuringiensis var. kurstaki (Comazol (16000 IU/mg) WP), liều
lượng sử dụng 2 kg/ha, lượng nước phun 500 l/ha.
CT3: Garlic juice (Biorepel 10SL), liều lượng sử dụng 1500 ml/ha, lượng nước
phun 500 l/ha.
Trong đó: Xi là thời gian phát triển của cá thể thứ i
(ngày); ni là số cá thể có thời gian như cá thể thứ i; N là số
cá thể theo dõi; S là độ lệch chuẩn.
Khả năng sinh sản: số trứng đẻ ra (trứng/trưởng thành
cái) và tỷ lệ nở (số ấu trùng nở ra/tổng số trứng theo dõi).
Quy luật phát sinh, phát triển của loài rệp sáp giả R.
chinensis
Mỗi vườn điều tra 10 điểm chéo góc, mỗi điểm 10 cây,
điều tra 7 ngày 1 lần (4 kỳ điều tra/tháng). Chỉ tiêu theo dõi:
Tỷ lệ cây bị hại =
Số cây bị hại
Tổng số cây điều tra
Tỷ lệ cây bị hại =
Số cây bị hại
Tổng số cây điều tra
Hiệu lực của một số loại thuốc đối với loài rệp sáp giả
R. c inensis
Đối với thuốc có nguồn gốc sinh học: thí nghiệm được
bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, 3 lần nhắc lại, diện
tích ô thí nghiệm 50 m2. Thí nghiệm được tiến hành trên
vườn ba kích tím 2 năm tuổi bao gồm:
CT1: azadirachtin + matrine (Golmec 9EC), liều lượng
sử dụng 500 ml/ha, lượng nước phun 500 l/ha.
CT2: bacillus thuringiensis var. kurstaki (Comazol
(16000 IU/mg) WP), liều lượng sử dụng 2 kg/ha, lượng
nước phun 500 l/ha.
CT3: garlic juice (Biorepel 10SL), liều lượng sử dụng
1500 ml/ha, lượng nước phun 500 l/ha.
Biological, ecological characteristics,
and management of mealybug species
Rastrococcus chinensis
(Hemiptera: Pseudococcidae)
of Indian mulberry (Morinda officinalis How.)
Xuan Hoat Trinh1*, Thi Xuyen Luu2,
Le Bich Hong Tran2, Xuan Vi Le1, Thi Tuyet Nhung Le1
1Plant Protection Research Institute (PPRI)
2Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry
Received 10 November 2020; accepted 23 December 2020
Abstract:
Indian mulberry (Morinda officinalis How.), locally
known as ba kich, is widely planted in many mountainous
provinces in Northern Vietnam for medicinal uses. The
mealybug species Rastrococcus chinensis (Hemiptera:
Pseudococcidae) is considered as the most dangerous
insect pest forthe Indian mulberry in Vietnam. R.
chinensis developed and reproduced normally at 25oC,
but did not reproduce when the temperature reached
30oC. At 25oC, the life cycle was 75.19 days, the adult’s
lifespan was about 81 days, the longevity was about
110 days. While at 30oC, the adult’s lifespan shortened
to about 26 days with no fertility. The efficacy of
azadirachtin + matrine (Golmec 9EC) with R. chinensis
was 73.44% at 7 days and prolonged until 14 days after
treatment.
Keywords: efficacy, Indian mulberry (Morinda officinalis
How.), mealybug, Rastrococcus chinensis.
Classification number: 4.1
46
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
CT4: abamectin (Tervigo® 020SC), liều lượng sử dụng
4500 ml/ha, lượng nước phun 500 l/ha.
CT5: beauveria bassiana + metarhizium anizopliae
(TKS-Nakisi WP), liều lượng sử dụng 1,5 kg/ha, lượng
nước phun 500 l/ha.
CT6: đối chứng (phun nước lã).
Chỉ tiêu theo dõi: mật độ sâu hại ở trước và sau xử lý 1,
3, 5, 7 và 14 ngày. Hiệu lực của thuốc trừ sâu được tính theo
công thức Henderson - Tilton:
E = (1 - )
Ta × Cb
Tb × Ca
× 100
Trong đó: E là hiệu lực của thuốc tính bằng %; T
a
là số
cá thể sâu sống ở ô thí nghiệm sau xử lý; T
b
là số cá thể sâu
sống ở ô thí nghiệm trước xử lý; C
a
là số cá thể sâu sống ở ô
đối chứng sau xử lý; C
b
là số cá thể sâu sống ở ô đối chứng
trước xử lý.
Xử lý số liệu
Số liệu được tổng hợp bằng phần mềm Microsoft Office
Excel và xử lý theo phương pháp ANOVA trong phần mềm
SAS.
Kết quả và thảo luận
Trên cây ba kích tím, loài rệp sáp giả R. chinensis có khả
năng gây hại lớn nhất, chúng tập trung chủ yếu ở mặt dưới
của các lá bánh tẻ và di chuyển xuống, gây hại bộ phận gốc
rễ vào giai đoạn cuối năm khi cây ba kích tím rụng lá. Rệp
chích hút dịch làm cho cây biến vàng, ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển và khi mật độ cao dẫn đến hiện tượng
rụng hết lá và cây có thể bị chết. Do đó, loài rệp này là đối
tượng cần được nghiên cứu và tìm ra các giải pháp phòng
trừ hiệu quả.
Ngoài tác động gây hại trực tiếp là tiêu thụ dinh dưỡng
của cây, rệp sáp giả còn tiết ra độc tố chích vào cây, gây hiện
tượng vàng lá, héo và rụng lá, tiết dịch mật tạo điều kiện
cho nấm muội đen phát triển, làm ảnh hưởng trực tiếp tới
quá trình quang hợp của cây. Rệp sáp giả thường di chuyển
chậm chạp, hình thành các quần tụ rệp ở mặt dưới lá, thân,
xung quanh cuống lá, cành, ở những điểm có tán lá dày,
hoặc vị trí tiếp giáp giữa quả, gần nụ hoa hoặc đỉnh sinh
trưởng của cây. Rệp sáp giả gây hại trên cỏ hoặc các loài
thực vật trong họ này, rệp thường tồn tại trong bẹ lá.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, R. chinensis là
loài rệp sáp giả được phát hiện đầu tiên trên cây ba kích tím
tại Việt Nam. Các loài rệp thuộc họ Pseudococcidae gây
hại trên nhiều họ cây ký chủ khác nhau [10]. Tại Việt Nam,
nhiều loài rệp sáp giả đã được phân loại và công bố. Trên
cây ăn quả và cây có múi, đã xác định được 4 loài rệp sáp
giả khác nhau [12], 9 loài gây hại trên cây có múi, 4 loài trên
cây thanh long và 4 loài trên cây xoài [13], 8 loài hại cây na
ở các tỉnh phía Nam [14].
Đặc điểm hình thái của loài rệp sáp giả R. chinensis
Kết quả nghiên cứu về các đặc điểm hình thái, sinh học
của loài ở điều kiện nhiệt độ 25-30oC và ẩm độ 80% trong
phòng thí nghiệm cho thấy có sự khác biệt khá rõ giữa rệp
sáp giả đực và cái. Trong khi rệp sáp giả cái thuộc loại biến
thái không hoàn toàn với 3 pha phát dục thì rệp sáp giả đực
lại thuộc loại biến thái hoàn toàn với 4 pha phát dục. Thời
gian phát dục của pha trứng là rất ngắn, thời gian từ sau đẻ
đến khi nở chỉ kéo dài từ 3 đến 9h tùy thuộc vào điều kiện
nhiệt độ.
Trứng: trứng của rệp sáp giả có kích thước khá nhỏ
(khoảng 0,2 mm), hình trụ, có màu vàng nâu.
Rệp tuổi 1: rệp sáp giả mới nở, cơ thể có màu vàng xanh,
kích thước 0,4-0,5 mm. Cuối cơ thể gần bộ phận sinh dục
có một đôi tua sáp màu trắng, dài bằng 1/5 chiều dài cơ thể.
Đến giữa và cuối tuổi 1, cơ thể rệp sáp giả và các tua xung
quanh cơ thể được phủ một lớp phấn trắng, đôi tua dài nhất
nằm ở phía cuối cơ thể (giáp với đôi tua gần bộ phận sinh
dục), rệp non tuổi 1 hầu như không di chuyển.
Rệp tuổi 2: cơ thể rệp sáp giả có màu xanh vàng, kích
thước 0,6-0,7 mm. Đến giữa và cuối tuổi, cơ thể được phủ
một lớp phấn trắng, xung quanh cơ thể có 15 đôi tua khá dài
và một đôi tua ngắn ở gần bộ phận sinh dục, các đôi tua ở
phía cuối cơ thể dài hơn chiều dài cơ thể, rệp sáp giả non rất
ít di chuyển. Cuối tuổi 2, giới tính đực và cái được phân biệt
rõ. Tuy kích thước rệp sáp giả đực và cái không khác nhau,
nhưng giới tính được phân biệt nhờ lớp phấn và màu sắc của
cơ thể. Rệp sáp giả cái cơ thể màu vàng xanh, các đôi tua
sáp và mặt lưng có rất nhiều phấn trắng; rệp đực cơ thể màu
hơi nâu đỏ, các đôi tua sáp và mặt lưng có rất ít phấn trắng.
Rệp tuổi 3 (đối với con cái): về hình thái rệp sáp giả tuổi
3 không khác so với tuổi 2, chúng chỉ tăng về kích thước,
rệp sáp giả tuổi 3 dài 0,8-0,9 mm.
Tiền nhộng: rệp sáp giả tạo kén và nằm trong kén, cơ thể
màu vàng nhạt, dài khoảng 1 mm, các đôi chân mập, không
còn giác bám. Nhìn từ mặt lưng, cơ thể rệp sáp giả chưa
phân biệt rõ 3 phần: đầu, ngực và bụng.
Nhộng: cơ thể nhộng màu vàng nhạt, đã phân biệt rõ
đầu, ngực và bụng, mầm cánh, râu đầu và mắt đã hình thành.
Nhộng dài khoảng 1 mm.
Trưởng thành: trưởng thành đực có cơ thể màu đỏ nâu,
dài khoảng 0,9 mm, râu đầu dài gần bằng chiều dài cơ thể,
đôi tua sáp màu trắng ở cuối cơ thể dài hơn chiều dài cơ
thể. Trưởng thành cái có cơ thể rệp dài 1,1-1,3 mm, các đôi
tua sáp ở phần đầu cơ thể dài gần bằng 2/3 chiều dài cơ thể,
47
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
các đôi tua sáp ở phía cuối cơ thể dài hơn chiều dài cơ thể
ngoại trừ đôi tua sáp nằm gần bộ phận sinh dục, rệp rất ít di
chuyển (hình 1).
Nhộng Tiền nhộng
Rệp non tuổi 3
R
ệp
n
on
t
uổ
i 2
R
ệp
n
on
t
uổ
i 2
Rệp non tuổi 1
T
rứ
ng
Trưởng thành đực
Trưởng thành cái
Hình 1. Đặc điểm hình thái và vòng đời của loài rệp sáp giả R.
chinensis.
Một số đặc điểm sinh học của loài rệp sáp giả R.
chinensis
Loài rệp sáp giả sinh trưởng, phát triển và sinh sản bình
thường ở điều kiện nhiệt độ 25oC, khi nhiệt độ tăng lên 30ºC,
rệp không có khả năng sinh sản (không đẻ trứng). Khi nuôi
ở điều kiện nhiệt độ 25 và 30ºC, thời gian phát dục của các
pha tương ứng như sau: pha trứng 7 và 5h; rệp non (3 tuổi)
là 33,93±0,77 và 26,53±0,78 ngày. Thời gian tiền đẻ trứng
rất dài, trung bình 40,21±1,00 ngày. Vòng đời của rệp ở điều
kiện 25ºC là 75,19±1,27, thời gian đẻ trứng 39,93±2,11 và
tuổi thọ của trưởng thành là 81,57±2,67 ngày. Rệp không
sinh sản ở điều kiện nhiệt độ 30ºC. Điều kiện nhiệt độ có
ảnh hưởng khá rõ tới thời gian sống của rệp sáp giả. Ở nhiệt
độ 25oC, thời gian sống trung bình là 110,44 ngày, dài gấp
2 lần so với khi nuôi ở điều kiện nhiệt độ 30oC (52,93 ngày)
(bảng 1).
Bảng 1. Một số đặc điểm sinh học chính của loài rệp sáp giả R.
chinensis (Viện Bảo vệ Thực vật, 2018).
Chỉ tiêu theo dõi
Thời gian phát dục (ngày)
Đợt thí nghiệm I Đợt thí nghiệm II
Biến động Trung bình Biến động Trung bình
Trứng 7 giờ 5 giờ
Tuổi 1 9-19 13,02±0,29 7-16 9,35±0,32
Tuổi 2 6-14 9,40±0,28 5-13 7,63±0,29
Tuổi 3 8-19 11,95±0,44 6-13 9,33±0,39
Rệp non 20-45 33,93±0,77 21-39 26,53±0,78
Tiền đẻ trứng 28-52 40,21±1,00 Không đẻ -
Vòng đời 56-86 75,19±1,27 - -
Thời gian đẻ trứng 15-58 39,93±2,11 - -
Tuổi thọ của trưởng
thành cái
51-106 81,57±2,67 18-38 26,18±1,17
Vòng đời 56-137 110,44±3,73 41-73 52,93±1,63
Nhiệt độ trung bình: 25oC
Ẩm độ trung bình: 80%
Nhiệt độ trung bình: 30oC
Ẩm độ trung bình: 80%
Tỷ lệ sống sót của rệp sáp giả khá cao, phạm vi biến
động không lớn (79,17-100,0%). Đặc biệt là trứng, ở cả 2
mức nhiệt độ theo dõi tỷ lệ sống sót đều là 100%. Rệp tuổi
1 có tỷ lệ sống sót thấp nhất: 85,19 và 79,17% ở mức nhiệt
độ tương ứng là 25 và 30oC (bảng 2). Như vậy, dựa trên tỷ
lệ sống sót qua các pha phát dục trước trưởng thành của rệp
sáp giả có thể tính được tỷ lệ chết của các pha phát dục ở 25
và 30oC lần lượt là 32,86 và 37,24%.
Bảng 2. Tỷ lệ sống sót (%) của loài rệp sáp giả R. chinensis ở các mức
nhiệt độ khác nhau.
Chỉ tiêu theo dõi Trứng
Rệp non
Tuổi 1 Tuổi 2 Tuổi 3
25oC 100 85,19 86,96 95,0
30oC 100 79,17 89,47 94,12
Số lượng trứng biến động từ 20 đến 79 trứng, trung bình
43,47 trứng/trưởng thành cái, tỷ lệ nở đạt 100%. So với các
loài rệp sáp giả khác thì khả năng sinh sản của loài này là
khá thấp. Thời gian đẻ trứng của rệp sáp khá biến động (15-
58 ngày, trung bình là 39,93 ngày). Sự mắn đẻ này nhỏ hơn
rất nhiều so với một số loài rệp sáp giả đã được đề cập ở trên
(khả năng đẻ trứng của chúng 15-38 trứng/ngày) (hình 2).
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
N
gà
y
1
N
gà
y
2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55
S
ố
q
u
ả
tr
ứ
n
g/
n
gà
y
Ngày đẻ trứng
Số trứng/ngày ở 25°C Số trứng/ngày ở 30°C
Hình 2. Nhịp điệu đẻ trứng của loài rệp sáp giả R. chinensis.
Quy luật phát sinh, phát triển của loài loài rệp sáp giả
R. chinensis
Loài rệp sáp giả có xu hướng phát sinh mạnh vào giai đoạn
đầu và cuối mùa mưa, thấp nhất vào giai đoạn mùa đông khi
cây ba kích tím rụng lá. Khi nhiệt độ thấp, rệp qua đông ở bộ
phận thân, rễ cây và hầu như không phát triển. Khi nhiệt độ
tăng, cây bắt đầu ra chồi và lá mới, rệp sẽ bắt đầu sinh sản và
gây hại. Quần thể rệp tăng mạnh vào giai đoạn tháng 4-5 và
10-11 với mật độ dao động 20-25 cá thể/lá. Cá biệt có những
thời điểm mật độ cao nhất đạt tới 40-50 cá thể/lá (tháng 4-5).
Mật độ rệp giảm rõ rệt vào giai đoạn giữa mùa mưa và mùa
khô, sau đó lại tăng lên vào giai đoạn đầu và cuối mùa mưa
(hình 3). Mặc dù mật độ rệp xuất hiện khá cao trên cây khi
bị nhiễm nhưng rệp chỉ xuất hiện và gây hại cục bộ từng khu
vực 5-10 cây. Rệp chủ yếu xuất hiện và gây hại ở mặt dưới
của các lá bánh tẻ, trên các bộ phận sát mặt đất; rệp rất ít khi
di chuyển, do đó sự lây lan và phát tán loài của rệp bị hạn chế.
48
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
0,00 0,00 0,00
4,44
12,56
22,37
14,85
12,63 11,63
20,96
25,59
17,89
0,00
5,00
10,00
15,00
20,00
25,00
30,00
17/12/2017 18/1/2018 18/2 18/3 18/4 18/5 18/6 18/7 18/8 18/9 18/10 18/11
M
ật
đ
ộ
rệ
p
(c
á
th
ể/
lá
)
Thời gian theo dõi (ngày/tháng/năm)
Hình 3. Diễn biến mật độ của loài rệp sáp giả R. chinensis trên ba
kích tím.
Hiệu lực của một số loại thuốc sinh học đối với loài rệp
sáp giả R. chinensis
Trong khuôn khổ thí nghiệm, hầu hết các loại thuốc bảo
vệ thực vật có nguồn gốc sinh học có hiệu lực đối với loài
rệp sáp giả vào thời điểm 5 ngày sau xử lý; trong đó, hỗn hợp
hoạt chất azadirachtin + matrine cho hiệu quả phòng trừ cao
nhất (52,95%), các công thức còn lại đều cho hiệu lực thấp
hơn 50%. Ở thời điểm 7 ngày sau phun, hầu hết các công thức
đều có hiệu lực phòng trừ cao, trong đó hỗn hợp azadirachtin
+ matrine đạt hiệu lực phòng trừ cao nhất (73,44%), tiếp đến
là abamectin đạt 66,92%. Công thức sử dụng chế phẩm nấm
có ích beauveria bassiana + metarhizium anizopliae, garlic
juice và bacillus thuringiensis var. kurstaki cho hiệu lực
thấp hơn, đạt từ 45,34 đến 56,24%. Hiệu lực của tất cả các
loại thuốc bắt đầu giảm dần sau thời điểm 7 ngày sau xử lý.
Như vậy, hiệu lực của hỗn hợp azadirachtin + matrine đối
với loài rệp sáp giả cao nhất ở thời điểm 7 ngày và tiếp tục
kéo dài tới thời điểm 14 ngày sau xử lý (bảng 3).
Bảng 3. Hiệu lực của một số thuốc trừ loài rệp sáp giả R. chinensis
trên cây ba kích tím.
Công thức
Mật độ rệp
trước phun
Hiệu lực (%)
1 NSP 3 NSP 5 NSP 7 NSP 14 NSP
Azadirachtin + matrine (Golmec 9EC) 29,55 22,68a 38,65a 52,95a 73,44a 61,92a
Bacillus thuringiensis var. kurstaki
(Comazol (16000 IU/mg) WP)
29,13 11,86b 23,37bc 38,27b 56,24bc 51,02abc
Garlic juice (Biorepel 10SL) 27,91 9,79b 24,97bc 35,88b 53,48bc 47,96bc
Abamectin (Tervigo® 020SC) 28,77 20,62a 27,40b 46,02ab 66,92ab 53,94ab
Beauveria bassiana + Metarhizium
anizopliae (TKS-Nakisi WP)
28,20 12,84b 15,93c 34,34b 45,34c 39,47c
Đối chứng (nước lã) 29,32 - - - - -
P <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05
Ghi chú: các chữ cái cùng cột khác nhau có ý nghĩa khác nhau; NSP: ngày
sau phun.
Kết luận
Loài rệp sáp giả R. chinensis phát triển và sinh sản thuận
lợi ở điều kiện 25oC, nhưng không sinh sản khi nhiệt độ
tăng lên mức 30oC. Ở điều kiện nhiệt độ 25oC, vòng đời
là 75,19 ngày, tuổi thọ của trưởng thành khoảng 81 ngày,
thời gian sống của rệp khoảng 110 ngày, thời gian đẻ trứng
khoảng gần 40 ngày. Trong khi ở điều kiện nhiệt độ 30oC,
tuổi thọ của trưởng thành rút ngắn còn khoảng 26 ngày và
không có khả năng sinh sản. Hiệu lực của hỗn hợp hoạt chất
azadirachtin + matrine có hiệu lực cao đối với rệp sáp giả
R. chinensis ở thời điểm 7 ngày và tiếp tục kéo dài tới thời
điểm 14 ngày sau phun.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] S.G. Razafimandimbison, et al. (2009), “Molecular phylogenetics and
genetic assessment in the tribe Morindeae (Rubiaceae-Rubioideae): how to
circumscribe Morinda L. to be monophyletic?”, Mol. Phylogen. Evol., 52,
pp.879-886.
[2] Đỗ Huy Bích, Đăng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thuận
Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim
Mãn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn (2004), Cây thuốc và động vật làm
thuốc ở Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
[3] N. Cui, et al. (2013), “Screening the effective components and mechanism
of Morinda officinalis on tonifying kidney and noursing Yang”, Chinese Tradit.
Patent Med., 35(10), pp.2256-2258.
[4] Y.F. Li, et al. (2003), “Inhibition of the oligosaccharides extracted from
Morinda officinalis, a Chinese traditional herbal medicine, on the corticosteron
induced apoptosis in PC12 cells”, Life Sci., 72, pp.933-942.
[5] X. Shi, P. Chi (1988), “Indentification of the pathogen causing Wilt
disease of the medicinal herb Indian mulberry (Morinda officinalis How.)”, Acta
Phytopathol. Sin., 18(3), pp.137-142.
[6] S.A. Firdousi, T.A. Khan (2015), “Two new fungal diseases of trees of
manudevi forest of Jalgaon, district”, Flora and Fauna (Jhansi), 21(2), pp.158-160.
[7] Đặng Thị Hà, Chu Thị Mỹ, Phan Thúy Hiền, Nguyễn Thị Bình, Trần Hữu
Khánh Tân (2017), “Nghiên cứu tác nhân gây bệnh héo vàng trên cây ba kích
(Morinda officinalis How.”, Tạp chí Bảo vệ Thực vật, 2, tr.9-13.
[8] Ngô Quang Huy, Mai Văn Quân, Lê Quang Mẫn, Lê Xuân Vị, Dương Thị
Nguyên, Lê Đức Trung, Trịnh Xuân Hoạt (2018), “Kết quả giám định và một số
đặc điểm của nấm Fusarium fujikuroi Nirenberg gây bệnh vàng lá thối rễ cây ba
kích tại Quảng Ninh”, Tạp chí Bảo vệ Thực vật, 5, tr.68-73.
[9] Chu Thị Mỹ, Đặng Thị Hà, Đào Thị Kim Nhung, Lê Thị Thu, Hoàng
Diệu Linh, Phan Thúy Hiền (2019), “Nghiên cứu tác nhân gây bệnh chết rạp cây
con ba kích (Morinda officinalis How.) tại Việt Nam”, Tạp chí Bảo vệ Thực vật,
6, tr.32-39.
[10] M. García Morales, et al. (2016), ScaleNet: A literature-based model of
scale insect biology and systematics, Oxford University, DOI: 10.1093/database/
bav118.
[11] A.N. Shylesha, M. Mani (2016), Natural enemies of mealybugs, Springer.
[12] Phạm Văn Lầm (1994), “Thành phần rệp sáp hại cây ăn quả có múi đã
phát hiện ở Việt Nam”, Tạp chí Bảo vệ Thực vật, 2, tr.10-15.
[13] Cục Bảo vệ Thực vật (2010), Danh lục sinh vật hại trên một số cây trồng
và sản phẩm cây trồng sau thu hoạch ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
[14] Nguyễn Thị Chắt, Vũ Thị Nga, Trần Thành Tân, Lê Thị Tuyết Nga, Trần
Thị Quế Trân, Lê Minh Tâm, Lê Quang Tùng, Nguyễn Thị Hồng Thủy (2005),
“Kết quả điều tra thành phần rệp sáp (Coccinea) gây hại cây trồng ở một số tỉnh
phía Nam trong các năm 1999-2004”, Kỷ yếu Hội nghị côn trùng học toàn quốc
lần thứ 5, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr.19-24.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_sinh_hoc_sinh_thai_va_phong_chong_loai_rep_sap_gia.pdf