Đặc điểm hai nhóm đáp ứng và không đáp
ứng với thuốc kháng lao
Hầu hết những trẻ trong nhóm không đáp
ứng đều nằm trong độ tuổi < 12 tháng với 11/13
(84,6%), không ghi nhận những trẻ không đáp
ứng ở nhóm tuổi trên 5 tuổi. Mặt khác số trẻ
trong nhóm đáp ứng với thuốc kháng lao phân
bố đều ở cả 2 lớp tuổi < 12 tháng 11/22 (50%) và
từ 1 đến 5 tuổi 10/22 (45,5%). Điều này có thể lý
giải do hệ miễn dịch của những trẻ < 1 tuổi chưa
hoàn thiện, do vậy khả năng bảo vệ cơ thể yếu
dẫn tới khó kiểm soát bệnh cũng như dễ mắc lao
hơn. Một trong những yếu tố quan trọng trong
chẩn đoán và theo dõi đáp ứng điều trị lao chính
yếu tố về tình trạng dinh dưỡng mà đặc biệt là
cân nặng. Giảm cân nặng hay không tăng cân là
1 trong những triệu chứng điển hình của lao ở
trẻ em(2). Chúng tôi ghi nhận cân năng trong 6
tháng của những trẻ ở hai nhóm (biểu đồ) do
cân nặng khác nhau theo độ tuổi do vậy chúng
tôi tính cân nặng trung bình từng tháng của 2
nhóm theo 2 nhóm tuổi khác nhau từ < 1 tuổi và
> 1 tuổi. Chúng tôi nhận thấy nhóm trẻ đáp ứng
với thuốc kháng lao có sự gia tăng cân nặng
trung bình qua 6 tháng cao hơn so với nhóm
không đáp ứng mặc dù ở tháng thứ 1 cân nặng
trung bình ở 2 nhóm khá tương đồng nhau, điều
này thể hiện yếu tố về cân nặng thật sự là 1 yếu
tố quan trọng trong quá trình theo dõi đáp ứng
của thuôc kháng lao đối với trẻ em. Tóm lại về
đặc điểm dịch tễ học ta có thể rút ra kết luận tỷ
lệ trẻ < 1 tuổi ưu thế ở nhóm không đáp ứng hơn
nhóm đáp ứng, tỷ lệ sanh non, nhẹ cân, suy dinh
dưỡng và bệnh nền ở nhóm không đáp ứng cao
hơn nhóm đáp ứng. Tuy nhiên sự khác biệt đều
không có ý nghĩa thống kê.
Triệu chứng biểu hiện nhiều nhất là sốt, ho
và khò khè, trong đó triệu chứng khò khè ở
nhóm không đáp ứng chiếm tỷ lệ rất cao 12/13
(92,31 %). Tuy nhiên sự khác biệt đều không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Các kết quả CLS
khác nhìn chung khá tương đồng ở cả hai nhóm
ngoài trừ tỷ lệ IDR 5‐10 mm ở nhóm đáp ứng
chiếm ưu thế có thể phản ánh một phần giá trị
bảo vệ của chủng ngừa BCG. Triệu chứng của cả
hai nhóm cải thiện rõ khi sang BVPNT qua số
ngày điều trị cũng như sốt giảm rõ rệt, tuy nhiên
ở nhóm không đáp ứng kéo dài hơn tuy không
nhiều. Tuy nhiên tất cả các sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm viêm phổi kéo dài tại bệnh viện phạm ngọc thạch được chuyển từ bệnh viện nhi đồng 2 có AFB âm tính năm 2009‐2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 307
ĐẶC ĐIỂM VIÊM PHỔI KÉO DÀI TẠI BỆNH VIỆN
PHẠM NGỌC THẠCH ĐƯỢC CHUYỂN TỪ BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
CÓ AFB ÂM TÍNH NĂM 2009‐2012
Nguyễn Hồng Vân Khánh*, Phạm Thị Minh Hồng **
TÓM TẮT
Viêm phổi kéo dài là một thách thức đối với các nhà lâm sàng nhi khoa. Nguyên nhân thường gặp nhất của
viêm phổi kéo dài là lao phổi. Lao phổi ở trẻ em chủ yếu là lao phổi có AFB âm tính.
Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị các trường hợp VPKD có AFB âm tính tại
BVND 2 được chuyển bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ năm 2009‐2012.
Phương pháp: Đây là một nghiên cứu hồi cứu hàng loạt ca trong vòng 4 năm từ tháng 1/2009 đến tháng
9/2012 được thực hiện tại bệnh viện Nhi Đồng 2 và bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Kết quả: 54 trẻ thỏa tiêu chuẩn nhận vào. Nam/Nữ 2/1 (36/18). Sốt là triệu chứng lâm sàng được ghi nhận
nhiều nhất (96.3%), tiếp đến là ho (94,4%), khò khè (51,9%), thở nhanh (74%), suy dinh dưỡng 44,4%. Tỷ lệ
bệnh nền chiếm 57%. Có 92,6% (50/54) được điều trị thuốc kháng lao, trong đó tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với
thuốc kháng lao chiếm 44% (22/54). Tỷ lệ AFB chuyển dương tính tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch 3,7% (2/54).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về lâm sàng giữa 2 nhóm đáp ứng và không đáp ứng thuốc kháng lao
Kết quả: 44% trường hợp viêm phổi kéo dài có AFB âm tính đáp ứng tốt với điều trị thuốc kháng lao.
Những triệu chứng thường thấy ở nhóm bệnh nhân này là sốt, ho và khò khè. Không có sự khác biệt về biểu hiện
các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng giữa hai nhóm có và không điều trị thuốc kháng lao.
Từ khóa: Viêm phổi, viêm phổi kéo dài, viêm phổi tái phát, lao phổi AFB âm tính
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF CHILDREN AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL, TRANSFERRED
FROM CHILDREN’S HOSPITAL No2 WITH PERSISTENT PNEUMONIA
AND NEGATIVE ACID‐FAST BACILLUS TEST (AFB) FROM 2009 TO 2012.
Nguyen Hong Van Khanh, Pham Thi Minh Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 307 ‐ 314
Persistent pneumonia is a great challenge for pediatricians. The most common cause of persistent pneumonia
is pulmonary tuberculosis (TB). Pulmonary TB in children is usually classified as smear‐negative pulmonary
TB.
Objectives: To determine the clinical, paraclinical and treatment characteristics of patients diagnosed
persistent pneumonia with negative AFB and transferred to Pham Ngoc Thach Hospital from Children’s
hospital No2.
Methods: A case series was conducted for a 4‐year period from January 2009 through September 2012 at
Children’s hospital No2 and Pham Ngoc Thach Hospital in Ho Chi Minh city.
Results: 54 children were recruited in the study. The male to female ratio was 2/1. The most common
symptoms were fever (96.3%), followed by cough (94.4%), wheezing (51.9%), tachypnea (74%), malnutrition
(44%). The underlying illness was identified in 57% of children. The anti‐tuberculosis was indicated in 92.6% of
*Bệnh viện Nhi Đồng 2 **Bộ môn Nhi, ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Hồng Vân Khánh ĐT: 0985971753 Email: drvankhanh1106@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 308
children,and the good response to the treatment was found in 44%. The percentage of AFB changed from
negative to positive was 3.7%. There was no significant differences in clinical and paraclinical characteristics
between 2 groups with and without response to the anti‐tuberculosis treatment.
Conclusion: There was 44% children responded to the anti‐tuberculosis treatment. The most common
symptoms of the children were fever, cough and wheezing. There was no significant differences in clinical and
paraclinical characteristics between 2 groups with and without response to the anti‐tuberculosis treatment.
Keywords: Pneumonia, persistent pneumonia, recurrent pneumonia, tuberculosis, sputum smear negative
pulmonary tuberculosis
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm phổi kéo dài (VPKD) được định
nghĩa khi triệu chứng lâm sàng của viêm phổi
và những bất thường trên X quang kéo dài
trên một tháng mặc dù đã điều trị kháng
sinh(1). Việc xác định nguyên nhân hiện vẫn
được xem là một thử thách đối với các nhà lâm
sàng. Trong số các nguyên nhân gây VPKD,
Trong số các nguyên nhân trên, lao phổi là một
trong những nguyên nhân khó chẩn đoán xác
định nhất trong hoàn cảnh Việt Nam với tỷ lệ
nhiễm lao đứng thứ 12 trên thế giới(14). Tại Việt
Nam, VPKD ở trẻ em có tỉ lệ ngày càng tăng,
gây tăng chi phí điều trị, tăng tỉ lệ biến chứng
và di chứng, đặc biệt ở những ca VPKD nghi
do lao, việc chẩn đoán và điều trị chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm lâm sàng. Ít hơn 20% trẻ
được chẩn đoán lao phổi có kết quả nhuộm
Ziehl‐Neelsen đàm hoặc dịch dạ dày dương
tính trong khi đó tỷ lệ này ở người lớn là
70%(10). Lao phổi ở trẻ em chủ yếu là lao phổi
có AFB âm tính. Trong thực tế, đối với những
trường hợp khó, việc “dò dẫm” truy tìm
nguyên nhân khiến chỉ định nhiều xét nghiệm
cận lâm sàng và sử dụng nhiều loại kháng sinh
nhưng đôi khi cũng không cải thiện được tình
trạng viêm phổi. Những nghiên cứu trước đây
chỉ dừng lại ở việc ghi nhận tỷ lệ các trường
hợp VPKD nghi do lao chuyển bệnh viện
Phạm Ngọc Thạch (BVPNT) mà chưa nêu rõ
các sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng và cận
lâm sàng giữa những trường hợp có đáp ứng
và không đáp ứng với điều trị. Do đó, chúng
tôi thực hiện đề tài này xác định đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng, điều trị các trường hợp
viêm phổi kéo dài có AFB âm tinh tại bệnh
viện nhi đồng 2 được chuyển đến BVPNT.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt trường hợp.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trẻ em từ 1 tháng đến 15 tuổi nhập
BVNĐ 2 được chẩn đoán VPKD có xét nghiệm
AFB âm tính và được chuyển đến BVPNT từ
1/1/2009 đến 30/09/2012.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả bệnh nhi được chẩn đoán viêm phổi
theo lâm sàng và cận lâm sàng của Tổ chức Y tế
Thế giới. Thời gian điều trị đúng và đủ theo
phác đồ điều trị viêm phổi cộng đồng ≥ 28 ngày
kể từ lúc bắt đầu điều trị viêm phổi. Và tất cả các
trường hợp VPKD đã được làm xét nghiệm soi
đàm/dịch dạ dày 3 mẫu khác nhau cho kết quả
âm tính với vi trùng lao. Sau khi hội chẩn
chuyên khoa lao được chuyển BVPNT.
Tiến hành
Tất cả bệnh nhi thỏa tiêu chí chọn mẫu được
đưa vào lô nghiên cứu khảo sát toàn bộ đặc
điểm LS, CLS, điều trị theo bệnh án được lưu trữ
tại BVNĐ2 và BVPNT. Chúng tôi ghi nhận đầy
đủ các dữ liệu từ hồ sơ bệnh án tại BVNĐ2 lúc
nhập viện và trước khi điều trị thuốc kháng lao
ở nhóm có điều trị kháng lao và trước khi
chuyển viện ở nhóm không điều trị kháng lao.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 309
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Đặc điểm dịch tễ học
Từ 1/1/2009 đến 30/9/2012 có 54 trường hợp
thỏa tiêu chuẩn được lấy vào mẫu nghiên cứu.
Trong 54 bệnh nhi có 4 trẻ không được điều trị
thuốc kháng lao, 22 trường hợp đạt tiêu chuẩn
đáp ứng và 13 trường hợp không đáp ứng với
thuốc kháng lao, 6 trường hợp nặng bao gồm 2
trường hợp xin về, tử vong tại BVPNT (2 trường
hợp) và chuyển BVNĐ1 (2 trường hợp), 9
trường hợp mất dấu không theo dõi được kết
quả điều trị lao.
Tỷ lệ Nam/ Nữ: 2/1 (36/18). Trẻ từ 1 đến 12
tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 66,67 %. Đa số trẻ
nhập viện từ thành phố Hồ Chí Minh (63%).
44% trẻ bị suy dinh dưỡng, trong đó 31,48% suy
dinh dưỡng nặng, 13% trung bình. Lý do chính
khiến trẻ nhập viện là ho và sốt (53,7%). Sau đó
là thở mệt có 15 (27,8%), khò khè (14,48%.)
Đặc điểm lâm sàng
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng
Tại BVNĐ2 Tại BVPNT
Tần số
(n=54) Tỷ lệ (%)
Tần số
(n=54)
Tỷ lệ
(%)
Ho 51 94,44 49 90,74
Sốt 52 96,30 17 31,48
Khò khè 28 51,85 44 81,48
Thở nhanh 40 74,07 14 25,93
Thở co lõm
Thở co lõm nhẹ
Thở co lõm nặng
49
25
24
90,74
46,3
44,44
39
37
2
72,22
68,52
3,7
Ran ngáy 19 35,19 15 27,78
Ran ẩm 30 55,56 27 50
Ran nổ 11 20,37 4 7,41
Đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 2: Tổn thương trên CT ngực
Các dạng tổn thương trên CT ngực Tỷ lệ (%)
Viêm phổi 87
Hạch 68.5
Cấu trúc bất thường 13
Xẹp 11.1
Ứ khí 1.9
Abcess 1.9
Tràn dịch màng phổi 3.7
Nhu mô bình thường 7.4
Kết quả vi sinh
Bảng 3: Kết quả vi sinh
Tần số (n=54) Tỷ lệ (%)
BK (+)
BK (-)
2
52
3,70
96,3
PCR (+)
PCR (-)
Không làm
1
35
18
1,85
64,82
33,33
HIV (+) 1 1,85
Cấy đàm 31 57,41
Trong số 54 trường hợp VPKD có AFB (‐)
được chuyển từ BVNĐ 2 sang BVPNT chỉ có 2
trẻ được xét nghiệm lại AFB (+) chiếm tỷ lệ 3,7%.
Có 1 trường hợp xét nghiệm PCR dịch dạ dày
dương tính nhưng AFB (‐) tại BVNĐ 2, đây cũng
chính là 1 trong 2 ca sau khi qua BVPNT xét
nghiệm lại có AFB (+).
Đặc điểm điều trị
Trong số 54 bệnh nhân được chuyển từ
BVNĐ 2 sang BVPNT có 50 bệnh nhân được
điều trị kháng lao chiếm tỷ lệ 92,59%.
Bảng 4: Kết quả điều trị kháng lao
Kết quả điều trị kháng lao Tần số (N=50) Tỷ lệ (%)
Đáp ứng 22 44
Không đáp ứng 13 26
Bệnh nặng tử vong, xin về,
chuyển BVND 1
6 12
Mất dấu 9 18
Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng
của hai nhóm có và không đáp ứng với
thuốc kháng lao
Đặc điểm dịch tễ
Phân bố tuổi ở 2 nhóm
Bảng 5: Phân bố tuổi ở hai nhóm
Không đáp ứng Đáp ứng p
N=13 Tỷ lệ N=22 Tỷ lệ
Tuổi
< 12 tháng
12 tháng-5 tuổi
> 5 tuổi
11
2
0
84,62
15,38
0
11
10
1
50
45,45
4,55
0,091
0,142
1
Bảng phân bố độ tuổi ở hai nhóm có và
không đáp ứng với thuốc kháng lao cho thấy:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 310
hầu hết những trẻ trong nhóm không đáp ứng
đều nằm trong độ tuổi < 12 tháng.
Triệu chứng lâm sàng
Bảng 6: Triệu chứng lâm sàng
Không đáp ứng Đáp ứng p
N=13 Tỷ lệ N=22 Tỷ lệ
Khò khè
Thở nhanh
Sốt
Hỗ trợ HH
Co lõm LN
Ran ngáy
Ran ẩm
12
2
5
3
9
3
7
92.31
15.38
38.46
23.08
69.23
23.08
53.85
17
4
6
5
15
7
10
77.27
18.18
27.27
22.73
68.18
31.82
45.45
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
>0.05
Không đáp ứng Đáp ứng p
N=13 Tỷ lệ N=22 Tỷ lệ
Ran nổ
Ho
0
11
0
84.62
3
19
13.64
86.36
>0.05
>0.05
So sánh diễn tiến cân nặng trung bình theo
tuổi < 12 tháng và ≥ 12 tháng tuổi ở hai nhóm
đáp ứng và không đáp ứng trong 6 tháng sau
điều trị kháng lao cho thấy nhóm trẻ đáp ứng
với thuốc kháng lao có sự gia tăng cân nặng
trung bình qua 6 tháng cao hơn so với nhóm
không đáp ứng mặc. Nhưng sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê.
Biểu đồ 1: Phân bố diễn tiến cân nặng theo lứa tuổi của 2 nhóm có và không đáp ứng
Đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 7: Tổn thương trên CT ngực của hai nhóm
Tổn thương
trên CT
Không đáp
ứng
Đáp ứng p
N=13 Tỷ lệ N=22 Tỷ lệ
Hạch
Viêm
Xẹp
Ứ khí
Kén khí
Tràn dịch
Abcess
Bất thường
cấu trúc
10
12
2
0
0
1
0
2
76,92
92,31
15,39
0
0
7,69
0
15,39
16
20
0
0
0
1
1
2
72,73
90,91
0
0
0
4,55
4,55
9,07
1
1
0,253
1
1
0,987
Bảng 8: Đặc điểm vi sinh hai nhóm
Không đáp
ứng
Đáp ứng p
N=13 Tỷ lệ N=22 Tỷ lệ
BK dịch dạ
dày/đàm
Dương
Âm
1
12
7,69
92,31
1
21
4,55
95,45
1
1
PCR dịch dạ
dày/đàm
Dương
Âm
1
12
7,69
92,31
0
22
0
100
0,7872
0,7872
IDR
≤ 5 mm
5-10 mm
≥ 10mm
7
0
1
53,85
0
7,69
11
5
1
50
22,73
4,55
1
0,174
1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 311
Đặc điểm điều trị
Bảng 9: Thời gian sốt, số loại kháng sinh và số ngày
nằm viện của 2 nhóm
Nhóm đáp ứng Nhóm không đáp ứng
Số ngày sốt tại BVNĐ2 13,0 ± 13,38 15,61 ± 15,14
Số ngày sốt tại BVPNT 1,81 ± 7,42 1,46 ± 2,93
Số loại kháng sinh sử
dụng tại BVNĐ2 4,86 ± 2,11 5,54 ± 3,12
Số loại kháng sinh sử
dụng tại BVPNT 1,5 ± 2,5 2,42 ± 2,05
Thời gian điều trị tại
BVNĐ2 39,59 ± 11,05 39,69 ± 11,72
Thời gian điều trị tại
BVPNT 15,36 ± 10,64 24,31 ± 18,39
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 54
trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Trong 54
ệnh nhi có 4 trẻ không được điều trị thuốc kháng
lao, 22 trường hợp đạt tiêu chuẩn đáp ứng và 13
trường hợp không đáp ứng với thuốc kháng lao,
6 trường hợp nặng xin về, tử vong và chuyển
BVNĐ1, 9 trường hợp mất dấu không theo dõi
được kết quả điều trị lao.
Nhóm tuổi nhiều nhất là < 12 tháng có tỷ lệ
là 36/54 (66,67%), ít nhất là trên 5 tuổi có tỷ lệ
2/54 (3,7%). Theo nghiên cứu của Trần Thị Lan
Khanh thì đa số là trẻ lớn từ 11 – 15 tuổi chiếm
46,3%(13). Theo Salazar GE, tỷ lệ các nhóm tuổi
trong nhóm bệnh nhi có thể bị lao chủ yếu ở trẻ
nhỏ bao gồm 19% trẻ < 12 tháng, 52% trẻ từ 2 – 4
tuổi(9). Theo nghiên cứu của Lin YS ở bắc Đài
Loan thì lại có đến 57 % trẻ lớn hơn 12 tuổi (4).
Theo nghiên cứu của Lê Phước Truyền và
Nguyễn Thể Tần về VPKD cũng ghi nhận tỷ lệ
trẻ 2 tháng đến 1 tuổi tương tự nghiên cứu
chúng tôi là 50,2% và 76,3%(3,6). Sở dĩ có sự tương
đồng trên do dân số chọn mẫu của của chúng tôi
và Salazar GE đều bao gồm những trẻ không
cần AFB (+). Còn theo nghiên cứu của Trần Thị
Lan Khanh và Lin YS mẫu lấy vào phải có kết
quả (+) về mặt vi trùng học. Mà theo y văn
chúng tôi ghi nhận ở trẻ nhỏ lao phổi chủ yếu là
AFB (‐), chỉ có 10% AFB (+) và thường xuất hiện
ở trẻ lớn(11) nên tạo ra sự khác biệt này. Bên cạnh
đó nghiên cứu chúng tôi còn bao gồm những trẻ
VPKD nên có phân bố tuổi tương tự như nghiên
cứu về VPKD của Lê Phước Truyền và Nguyễn
Thể Tần đều có số lượng trẻ < 12 tháng chiếm ưu
thế do trẻ càng nhỏ hệ miễn dịch và sức đề
kháng yếu nên dễ bị viêm phổi nặng và kéo dài
hơn trẻ lớn.
Chúng tôi ghi nhận phân bố giới tính nam
chiếm ưu thế với tỷ lệ nam/nữ (36/18) là 2:1.
Tương tự theo nghiên cứu của Lê Phước Truyền
và Nguyễn Thể Tần cũng cho kết quả nam nhiều
hơn(6). Nhưng theo nghiên cứu của Trần Thị Lan
Khanh, Lin YS và Starke JR thì nam chiếm tỷ lệ
thấp hơn nữ(13). Sự khác biệt trên là do ba nghiên
cứu của Trần Thị Lan Khanh, Lin YS và Starke
JR nêu trên chủ yếu thực hiện trên trẻ có AFB (+)
bao gồm tỷ lệ cao ở nhóm tuổi thanh thiếu niên
10 – 14 tuổi mà theo y văn lao ở trẻ nhỏ không
có sự khác biệt về giới nhưng ở lứa tuổi dậy thì
tỷ lệ nữ sẽ cao hơn nam(12). Hơn nữa trong
nghiên cứu của Nguyễn Thể Tần, Lê Phước
Truyền và chúng tôi bao gồm những bệnh nhi
VPKD với tỷ lệ cao trẻ < 12 tháng, ở lứa tuổi này
trẻ nam thường mắc bệnh nhiều hơn trẻ nữ nên
tỷ lệ phân bố giới tính bị ảnh hưởng bởi yếu tố
trên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi số trẻ suy
dinh dưỡng là 24 chiếm tỷ lệ 24/54 (44,44%)
trong đó suy dinh dưỡng nặng là 17/54 (31,48%).
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thể Tần, Trần Thị
Lan Khanh, Lê Phước Truyền và Salazar GE thì
tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng lần lượt là là 77,3%,
40,3%, 21,5% và 20%(3,6,13,9). Chúng tôi nhận thấy
tỷ lệ bệnh nền tương quan thuận với tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng đã tạo ra sự khác biệt giữa các
nghiên cứu. Số trẻ sanh non trong nghiên cứu
này là 6/54 (11,11%), bệnh nền chiếm hơn một
nửa với tỷ lệ 31/54 (57,41%). Theo nghiên cứu về
VPKD của Nguyễn Thể Tần thì tỷ lệ trẻ nhẹ cân
26/97 (26,8%), bệnh nền 74/97 (76,3%)(6). Nghiên
cứu của Lê Phước Truyền thì số trẻ sanh non
15/265 (15%), nhẹ cân lúc sanh 45/265 (17%)
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi nhưng
có tỷ lệ bệnh nền lại thấp hơn 74/265 (27,9%)(3).
Theo nghiên cứu của Lodha R về VPTP tỷ lệ trẻ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 312
có bệnh nền chiếm hơn 80%(5). Từ các nghiên
cứu trên cho thấy sanh non, nhẹ cân và bệnh
nền là những yếu tố ảnh hưởng đến VPKD ở trẻ
em.
Trong nghiên cứu chúng tôi tiền căn tiếp xúc
lao 5/54 (9,26%) trong đó từ cha mẹ chiếm 4/5
(80%), số trẻ chủng ngừa BCG khá cao 46/54
(85,19%). Theo nghiên cứu của Trần Thị Lan
Khanh, Phan Hữu Nguyệt Diễm tỷ lệ trẻ có tiền
căn tiếp xúc lao 37,3% chủ yếu từ cha mẹ chiếm
80%, chủng ngừa BCG cũng chiếm tỷ lệ khá cao
77,6%(13). Trong nghiên cứu của chúng tôi tiền
căn tiếp xúc lao ít hơn nghiên cứu của Tran Thị
Lan Khanh do chúng tôi chọn những trẻ có AFB
(‐) khác với dân số của Trần Thị Lan Khanh có tỷ
lệ cao AFB (+) là 74,6%(13), cả hai nghiên cứu đều
ghi nhận cha mẹ là nguồn lây chủ yếu. Qua các
nghiên cứu trên cho ta thấy tỷ lệ chủng ngừa ở
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển
khá cao trong số các trẻ bị lao phổi đồng thời
cũng phản ánh cho thấy chủng ngừa có chỉ thể
ngăn ngừa hiệu quả được một số thể lao nặng
như lao kê và lao màng não ở trẻ em.
Sau khi điều trị kháng sinh một thời gian ≥
28 ngày thì triệu chứng của bệnh nhi cải thiện
rõ đáng kể tỷ lệ sốt và thở nhanh tuy nhiên ho
và khò khè vẫn tồn tại dai dẳng. Từ đó cho
thấy đa số các bệnh nhi đáp ứng với điều trị
kháng sinh ban đầu thể hiện qua giảm rõ rệt
thời gian sốt, số ngày nằm viện, tỷ lệ sốt, thở
nhanh và tỷ lệ trẻ phải hỗ trợ hô hấp tuy nhiên
triệu chứng ho, khò khè vẫn tồn tại dai dẳng ở
hầu hết các trường hợp sau khi được điều trị
kháng sinh và chuyển BVPNT.
Các loại sang thương trên CT scan ngực
trong nghiên cứu của chúng tôi bao gồm bất
thường về cấu trúc giải phẫu (khí phế quản hay
mạch máu lớn) chiếm tỷ lệ 7/54 (12,96%), tỷ lệ
hạch là 37/54 (68,52%) trong đó hạch cạnh khí
quản nhiều nhất và bên phải nhiều hơn bên trái.
Tổn thương viêm chiếm 47/52 (87,04%) trong đó
dạng đông đặc có số lượng lớn nhất là 30 trường
hợp, vị trí thường gặp nhất là thùy trên phổi
phải. Ngoài ra còn có các sang thương khác như
xẹp 6/54 (11,11%), ứ khí 1/54 (1,85%), abcess 1/54
(1,85%), tràn dịch 2/85 (3,7%) và nhu mô phổi
bình thường là 4/54 (7,41%), không có tổn
thương dạng hang. Chúng tôi nhận thấy rằng
phần lớn các bệnh nhi đều có hạch và tổn
thương viêm trên CT phù hợp với đặc điểm
hình ảnh học của lao nguyên phát đặc trưng của
hạch phì đại (không tương xứng với tổn thương
nhỏ trên nhu mô) có thể gây chèn ép tạo nên các
hình ảnh thứ phát ứ khí và xẹp phổi (12). Đây là
những hình ảnh đặc trưng gợi ý lao mà đôi khi
trên X quang ngực không phát hiện được. Ngoài
ra cũng ghi nhận một tỷ lệ nhỏ ứ khí và xẹp phổi
tuy nhiên tỷ lệ viêm trên CT khá nhiều chiếm
đến 87,04% phần nào cho thấy còn có tổn
thương do vi trùng thường gây ra.
Tuy tỷ lệ chích ngừa BCG khá cao chiếm tỷ
lệ 85,19% nhưng hiệu quả (IDR từ 5 ‐ 10 mm) chỉ
có 14,81%, điều này có thể do trong số các trẻ có
IDR < 5mm tỷ lệ trẻ < 6 tháng chiếm 15/27
(55,56%), trẻ suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ cao đặc
biệt suy dinh dưỡng nặng và bệnh nặng mạn
tính kéo dài ảnh hưởng đến kết quả IDR. Qua
các số liệu trên cho thấy kết quả IDR chủ yếu <
10mm, kết quả phụ thuộc vào nhiều yếu tố do
đó dễ bị sai số âm tính giả, hơn nữa trẻ nhỏ hệ
thống miễn dịch chưa ổn định nên kết quả IDR
không có giá trị nhiều trong chẩn đoán lao ở trẻ
em đặc biệt IDR âm tính không thể loại trừ được
lao. Đây cũng có thể là lý do tại BVPNT không
thử IDR cho bất kỳ trẻ nào được chuyển qua. Ở
trẻ nhỏ tỷ lệ bảo vệ hiệu quả lao màng não, lao
kê của vaccine BCG dao động từ 52 % đến 100%
và 2% đến 80% đối với lao phổi(8,7).
Sau khi chuyển qua BVPNT được xét
nghiệm lại BK đàm một lần nữa thì phát hiện 2
trường hợp có AFB (+) chiếm tỷ lệ 2/54 (3,7%) có
tuổi là 1,83 tháng và 14 tuổi, cả hai trẻ đều có mẹ
bị lao. Do đó càng khẳng định tiền căn tiếp xúc
lao đặc biệt người thân trong gia đình là yếu tố
rất quan trọng trong chẩn đoán lao ở trẻ em.
Trong số 54 bệnh nhân được chuyển từ
BVNĐ 2 sang BVPNT có 50 bệnh nhân được
điều trị kháng lao chiếm tỷ lệ 50/54 (92,59%).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 313
Trong 50 trẻ được điều trị kháng lao có 6/50
(12%) trẻ bệnh nặng xin về, tử vong hoặc chuyển
qua BVNĐ1 do suy hô hấp nặng, có 9/50 (18%)
ca mất theo dõi chúng tôi không biết được kết
quả điều trị kháng lao cuối cùng. 35 trẻ còn lại
được điều trị nhưng với tổng thời gian điều trị
khác nhau. Chúng tôi chia 35 trẻ thành hai
nhóm, một nhóm kết thúc điều trị đúng thời
gian 6 tháng được bác sĩ BVPNT ghi nhận lâm
sàng và X quang cải thiện được xếp vào nhóm
đáp ứng điều trị với tổng số ca là 22 chiếm tỷ lệ
22/50 (44%), nhóm còn lại sau 6 tháng điều trị
các triệu chứng về hô hấp và tổn thương trên
Xquang vẫn còn nên kéo dài thời gian điều trị
được xếp vào nhóm không đáp ứng có tổng số
ca là 13 chiếm tỷ lệ 13/50 (26%). Bốn bệnh nhân
không điều trị kháng lao, chỉ điều trị kháng sinh
thông thường và xuất viện. Các bệnh nhân này
có tuổi lần lượt là 2 tháng, 6 tháng, 17 tháng và 6
tuổi, không có nhiều đặc điểm nổi bật khác biệt
so với các nhóm khác ngoại trừ chỉ có 1 trẻ có
hạch trên CT ngực ít hơn so với dân số nhóm
điều trị kháng lao. Qua kết quả điều trị chúng ta
nhận thấy hầu hết các trẻ chuyển qua BVPNT
đều được điều trị thuốc kháng lao. Đặc biệt khi
nước ta ở vùng dịch tễ nhiễm lao cao các bác sĩ
lâm sàng nên nghĩ đến lao và tầm soát ở những
trẻ VPKD đáp ứng không hoàn toàn với kháng
sinh thông thường. Tỷ lệ tuân thủ điều trị khá
cao, trong số ca chúng tôi theo dõi chỉ có 1/50
ca bỏ trị, các ca còn lại đều lãnh thuốc và đến
khám đều đặn chứng tỏ công tác tuyên truyền
giáo dục về lao cho người dân khá tốt tuy
nhiên vẫn còn một tỷ lệ 9/50 mất theo dõi khi
về tuyến cơ sở.
Đặc điểm hai nhóm đáp ứng và không đáp
ứng với thuốc kháng lao
Hầu hết những trẻ trong nhóm không đáp
ứng đều nằm trong độ tuổi < 12 tháng với 11/13
(84,6%), không ghi nhận những trẻ không đáp
ứng ở nhóm tuổi trên 5 tuổi. Mặt khác số trẻ
trong nhóm đáp ứng với thuốc kháng lao phân
bố đều ở cả 2 lớp tuổi < 12 tháng 11/22 (50%) và
từ 1 đến 5 tuổi 10/22 (45,5%). Điều này có thể lý
giải do hệ miễn dịch của những trẻ < 1 tuổi chưa
hoàn thiện, do vậy khả năng bảo vệ cơ thể yếu
dẫn tới khó kiểm soát bệnh cũng như dễ mắc lao
hơn. Một trong những yếu tố quan trọng trong
chẩn đoán và theo dõi đáp ứng điều trị lao chính
yếu tố về tình trạng dinh dưỡng mà đặc biệt là
cân nặng. Giảm cân nặng hay không tăng cân là
1 trong những triệu chứng điển hình của lao ở
trẻ em(2). Chúng tôi ghi nhận cân năng trong 6
tháng của những trẻ ở hai nhóm (biểu đồ) do
cân nặng khác nhau theo độ tuổi do vậy chúng
tôi tính cân nặng trung bình từng tháng của 2
nhóm theo 2 nhóm tuổi khác nhau từ < 1 tuổi và
> 1 tuổi. Chúng tôi nhận thấy nhóm trẻ đáp ứng
với thuốc kháng lao có sự gia tăng cân nặng
trung bình qua 6 tháng cao hơn so với nhóm
không đáp ứng mặc dù ở tháng thứ 1 cân nặng
trung bình ở 2 nhóm khá tương đồng nhau, điều
này thể hiện yếu tố về cân nặng thật sự là 1 yếu
tố quan trọng trong quá trình theo dõi đáp ứng
của thuôc kháng lao đối với trẻ em. Tóm lại về
đặc điểm dịch tễ học ta có thể rút ra kết luận tỷ
lệ trẻ < 1 tuổi ưu thế ở nhóm không đáp ứng hơn
nhóm đáp ứng, tỷ lệ sanh non, nhẹ cân, suy dinh
dưỡng và bệnh nền ở nhóm không đáp ứng cao
hơn nhóm đáp ứng. Tuy nhiên sự khác biệt đều
không có ý nghĩa thống kê.
Triệu chứng biểu hiện nhiều nhất là sốt, ho
và khò khè, trong đó triệu chứng khò khè ở
nhóm không đáp ứng chiếm tỷ lệ rất cao 12/13
(92,31 %). Tuy nhiên sự khác biệt đều không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Các kết quả CLS
khác nhìn chung khá tương đồng ở cả hai nhóm
ngoài trừ tỷ lệ IDR 5‐10 mm ở nhóm đáp ứng
chiếm ưu thế có thể phản ánh một phần giá trị
bảo vệ của chủng ngừa BCG. Triệu chứng của cả
hai nhóm cải thiện rõ khi sang BVPNT qua số
ngày điều trị cũng như sốt giảm rõ rệt, tuy nhiên
ở nhóm không đáp ứng kéo dài hơn tuy không
nhiều. Tuy nhiên tất cả các sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê.
KẾT LUẬN
VPKD là bệnh gặp khá nhiều ở trẻ em đặc
biệt trẻ nhũ nhi. Trong đó lao là một trong các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 314
nguyên nhân cần chý ý. Nên tầm soát lao sớm
ở những trẻ VPKD, đặc biệt trẻ có tiền căn tiếp
xúc lao và có hạch phì đại trong lồng ngực.
Nên chỉ định các phương pháp tầm soát vi
trùng lao có độ nhạy cao đối với các trường
hợp lao phổi AFB (‐), có thể gửi bệnh phẩm
sang BVPNT để thực hiện lại các xét nghiệm
tìm vi trùng lao. Thực hiện nghiên cứu tiền
cứu với cở mẫu lớn hơn để xác định rõ hơn
đặc điểm khác nhau giữa hai nhóm VPKD có
và không đáp ứng với điều trị lao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dennis LM, Chita SM (2009) ʺPrinciple and practice of
pediatric infectious diseaseʺ. 37, 257 ‐265.
2. International Union Against Tuberculosis and Lung Disease
(2010). ʺDesk guide for diagnosis and management of TB in
children 2010ʺ. 7‐8
3. Lê Phước Truyền, Phạm Thị Minh Hồng (2010) ʺĐặc điểm
viêm phổi kéo dài tại khoa hô hấp Bệnh viện nhi Đồng 2ʺ.
luận văn tốt nghiệp BS đa khoa
4. Lin YS, Huang YC, Chang LY, et al (2005) ʺClinical
characteristics of tuberculosis in children in the north of
Taiwanʺ. J Microbiol Immunol Infect, 38 (1): 41‐6.
5. Lodha R, Puranik M, Natchu UCM, Kabra SK (2009).
ʺRecurrent pneumonia in children: clinical profile and
underlying causesʺ. Acta Paediatr. 91(11): 1170‐1173
6. Nguyễn Thế Tần (2009) ʺĐặc điểm viêm phổi nằm trên 2 tuần
tại khoa hô hấp bệnh viện Nhi đồng Iʺ. luận văn thạc sỹ y học,
Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
7. Padungchan S, Konjanart S, Kasiratta S, Daramas S, ten Dam
HG (1986) ʺThe effectiveness of BCG vaccination of the
newborn against childhood tuberculosis in Bangkok. ʺ. Bull
World Health Organ 64: 247‐258
8. Romanus V (1987). “Tuberculosis in Bacillus Calmette‐
Guérin– immunized and unimmunized children in Sweden: a
ten‐year evaluation following the cessation of general Bacillus
Calmette‐Guérin immunization of the newborn in 1975.
Pediatr Infect Dis 1987”. Pediatr Infect Dis, 6: 272 – 280
9. Salazar GE, Schmitz TL, Cama R, et al (2001) ʺPulmonary
tuberculosis in children in a developing countryʺ. Pediatrics,
108 (2): 448‐53
10. Shingadia, Delane (2003) ʺdiagnosis and treatment of
tuberculosis in childrenʺ. the Lancet infectious Disease, 3:
624 – 631
11. Starke JR (2003) ʺPediatric tuberculosis: time for a new
approachʺ. Tuberculosis (Edinb), 83 (1‐3): 208‐12
12. Starke JR (2012) Principles and Practice of Pediatric Infectious
Diseases. IN 4 (Ed.) Mycobacterium tuberculosis. 773
13. Trần Thị Lan Khanh, Phan Hữu Nguyệt Diễm (2009) ʺĐặc
điểm lao phổi‐ màng phổi ở trẻ em tại bệnh viện Nhi đồng I
và bệnh viện Phạm Ngọc Thạchʺ. Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, 13 (1): 69‐73
14. WHO (2006) ʺGuidance for national tuberculosis programmes
on the management of tuberculosis in chidrenʺ. 5‐7.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_viem_phoi_keo_dai_tai_benh_vien_pham_ngoc_thach_duo.pdf