Chế độ sóng tại vùng ven bờ vịnh Nha
Trang cho thấy vào mùa gió đông bắc, ở tất
cả các vùng, sóng đều xuất hiện chủ yếu tại
hướng bắc (điểm N-17,2%; M-17,1%; S-
5,8%) và hướng đông bắc (điểm N-14,2%;
M-14,4%; S-4,6%). Trong khi đó mùa gió
tây nam, hướng đông nam (điểm N-15,1%;
M-15,7%; S-15,8%) và đông đông nam
(điểm N-7,3%; M-7,4%; S-7,9%) lại xuất
hiện tần suất cao. Ở mùa gió chuyển tiếp
đông bắc sang tây nam, hướng đông bắc
(của điểm M- 11,9%) có tần suất xuất hiện
sóng cao hơn hướng đông nam (của điểm M
-10,6%). Vào mùa gió chuyển tiếp tây nam
sang đông bắc tần suất xuất hiện sóng ở hai
hướng đông bắc và đông nam cũng chiếm
tần suất cao. Tổng thể theo năm, các hướng
N, NE, SE chiếm tần suất xuất hiện cao.
Tần suất không có sóng rất cao trong tất
cả các mùa với hơn 75% trên tất cả các
điểm.
Trong mùa gió tây nam, sóng đông nam
thường chiếm ưu thế với tần suất xuất hiện
cao (điểm N-15,1%; M-15,7%; S-15,8%).
Trong khi đó hướng tây nam chỉ chiếm tần
suất rất nhỏ (điểm N-0,4%; M-0,3%; S-
0,6%).
Dự báo độ cao sóng cực đại tương ứng
với hoàn kỳ khác nhau: 5 năm, 10 năm, 20
năm, 50 năm và 100 năm cho các hướng
cho thấy các hướng NE, SE, E luôn xuất
hiện sóng có độ cao lớn, cao trên 6 m xảy ra
một lần cho hoàn kỳ 100 năm ở điểm M.32
Đặc điểm của sóng trong các mùa và số
liệu dự báo trong các hoàn kỳ khác nhau là
những thông tin quan trọng về chế độ sóng
ở vùng vịnh Nha Trang, các kết quả này là
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
phòng chống, cảnh báo, bảo vệ công trình
biển, đánh bắt thủy hải sản, du lịch và
nghiên cứu khoa học.
12 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 591 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc trưng sóng do gió ở khu vực gần bờ vịnh Nha Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 2: 21-32
ĐẶC TRƯNG SÓNG DO GIÓ Ở KHU VỰC GẦN BỜ VỊNH NHA TRANG
Phạm Xuân Dương
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt Sử dụng phương pháp SPM (Shore Protection Manual) tính toán sóng từ gió
cho vùng nước có độ sâu hạn chế. Đó là khu vực gần bờ vịnh Nha Trang
trong thời gian 29 năm. Các kết quả phân tích thống kê của sóng cho thấy:
Sóng có độ cao lớn chỉ có ở bốn hướng - đông bắc, đông đông bắc, đông và
đông nam. Mùa gió đông bắc, xuất hiện với tần suất cao có hướng bắc
(17,1%) và hướng đông bắc (14,4%). Trong khi đó vào mùa gió tây nam,
sóng xuất hiện với tần suất cao có hướng đông nam (15,7%) và đông đông
nam (7,4%). Ở mùa gió chuyển tiếp đông bắc sang tây nam, hướng đông bắc
(11,9%) có tần suất xuất hiện sóng cao hơn hướng đông nam (10,6%). Vào
mùa gió chuyển tiếp tây nam sang đông bắc tần suất xuất hiện sóng ở hai
hướng đông bắc và đông nam chiếm tần suất cao.
Từ các kết quả tính sóng từ số liệu gió, cho phép xác định được độ cao sóng
cực đại xảy ra trong các hoàn kỳ 5 năm, 10 năm, 20 năm, 50 năm và 100
năm vào các mùa gió theo năm của khu vực nghiên cứu. Đáng chú ý trong
hoàn kỳ 100 năm theo hướng đông bắc sóng có độ cao có thể xấp xỉ 6 mét.
CHARACTERISTICS OF WIND WAVES IN THE NEAR SHORE AREA
OF NHA TRANG BAY
Pham Xuan Duong
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
Abstract Shore Protection Manual (SPM) method is used for calculating wind waves
in shallow waters of Nha Trang bay for the period of 29 years. The study
results indicate that the maximum wave height occurs at four directions:
northeast, east-northeast, east and southeast. In northeast monsoon, wave
direction occurs in north (17.1%) and northeast (14.4%), while in southwest
monsoon wave direction occurs mainly in southeast (15.7%) and east-
southeast (7.4%). In transitional monsoon from northeast to southwest, wave
direction occurs in the northeast (11.9%) and southeast (10.6%). This is
similar in transitional monsoon from southwest to northeast.
From wind data, we can identify that the maximum wave height occurs in
the period of 5 years, 10 years, 20 years, 50 years and 100 years at study
area. Noticeable in 100 years period, wave height is highest (6 m) in
northeast direction.
22
I. MỞ ĐẦU
Vịnh Nha Trang là một trong những vịnh
lớn và sâu của tỉnh Khánh Hòa, vịnh nối
với biển khơi qua hai cửa ở phía bắc và
nam Hòn Tre, bởi vậy khả năng trao đổi
nước với Biển Đông tương đối tốt. Vịnh là
một trong 29 vịnh đẹp của thế giới.
Bãi biển Nha Trang trải dài hàng chục
km dọc theo khu vực tập trung dân cư và
các khách sạn. Trong chục năm trở lại đây
do yêu cầu phát triển kinh tế và biến đổi khí
hậu các công trình bảo vệ bờ và lấn biển
hiện diện ngày càng nhiều khong khu vực
vịnh. Như chúng ta đã biết trong các yếu tố
động lực thì sóng biển là yếu tố chủ yếu gây
nên hiện tượng xói lở, bồi tụ bờ và tác động
lên các công trình này. Cho đến nay các tài
liệu, số liệu đo đạc về thủy thạch động lực
trong khu vực mặc dù đã có khá nhiều,
nhưng vẫn còn rời rạc, chưa có trạm quan
trắc sóng dài ngày ở vùng biển này.
Do điều kiện hạn chế về số liệu đo đạc
sóng như vậy nên việc có được chuỗi số
liệu sóng liên tục từng giờ theo chuỗi thời
gian hàng chục năm thì chúng tôi sử dụng
giải pháp tính toán sóng biển từ số liệu gió
(thường được áp dụng bằng các công thức
kinh nghiệm). Có khá nhiều công thức tính
sóng từ gió của Sverdrup và Munk (1946,
1947); Zakharov và Zaslavskii (1983);
Donelan và cs. (1985, 1992); Hasselmann
và cs. (1973). Trong đó công thức SPM
phiên bản năm 1984 (SPM 1984) dựa trên
cơ sở công thức JONSWAP được giới thiệu
trong Shore Protection Manual (CERC,
1984) đã và đang được sử dụng một cách
rộng rãi. Tài liệu này trình bày phương
pháp SPM 1984 và cách áp dụng trong tính
toán các điều kiện sóng nước sâu và sóng ở
độ sâu nước hạn chế.
Phương pháp SPM đã được Nghiêm
Tiến Lam, khoa Kỹ thuật biển, Đại học
Thủy lợi đã sử dụng để tính các đặc trưng
sóng nước sâu và sóng ở độ sâu nước hạn
chế từ gió. Vũ Thanh Ca đã giới thiệu
phương pháp SPM cho việc tính toán,
nghiên cứu sóng gió phục vụ cho việc khai
thác và bảo vệ nguồn lợi biển (Vũ Thanh
Ca, 2005). Phạm Xuân Dương, Nguyễn
Văn Tuân dùng phương pháp SPM để tính
toán về các đặc trưng sóng từ gió của vùng
biển ngoài khơi Bình Định trong các tháng
có gió mùa theo số liệu đo gió 21 năm tại
trạm khí tượng Bình Định (Phạm Xuân
Dương và Nguyễn Văn Tuân, 2013).
Sự biến đổi của trường gió trên biển,
cũng như sự biến đổi độ sâu của vùng
nghiên cứu đã ảnh hưởng quyết định đến sự
hình thành và biến đổi của các đặc trưng
sóng trong khu vực biển có độ sâu hạn chế.
Để có các kết quả về sóng trong vùng vịnh
Nha Trang có độ sâu hạn chế, chúng tôi đã
sử dụng phương pháp SPM dựa trên cơ sở
sử dụng công thức JONSWAP để tính các
đặc trưng của trường sóng tại ba điểm ở
khu vực gần bờ vịnh Nha Trang trong thời
gian 29 năm (Hình 1). Điểm phía bắc
(N, 12o16'40’’N - 109o11'51’’E) có độ
sâu 4,0 m, điểm giữa (M, 12o14'52’’N -
109o11'20’’E), điểm có độ sâu 7 m, cách bờ
khoảng 1,2 km, điểm phía nam (S,
12o11'11’’ N - 109o12'13’’ E ) có độ sâu 3,5
m. Từ việc phân tích các đặc trưng thống kê
của chuỗi số liệu sóng được tính từ gió
trong khoảng thời gian 29 năm ở Nha
Trang, đã cho phép xác định được các đặc
trưng cần thiết của sóng ở vịnh Nha Trang.
Do các hạn chế của phương pháp chúng
tôi đã nêu ra một số chỉ dẫn khi tham khảo
kết quả bài báo trong phần thảo luận.
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Tài liệu
Đã sử dụng chuỗi số liệu gió 29 năm (từ
năm 1986 đến năm 2014) của trạm đo khí
tượng thủy văn Nha Trang. Số liệu gió một
ngày đo bốn đợt, các lần đo chính là 1h, 7h,
13h, 19h. Tốc độ gió tính theo m/s và
hướng chia thành 16 hướng (N, NNE, NE,
ENE, E, ESE, SE, SSE, S, SSW, SW,
WSW, W, WNW, NW, NNW).
23
Hình 1. Sơ đồ vị trí điểm tính sóng do gió
Fig. 1. The points for calculation of the wave
2. Phương pháp
2.1. Phương pháp tính sóng từ gió cho
vùng biển có độ sâu hạn chế
Trong trường hợp khu vực tính toán sóng
có độ sâu hạn chế, công thức tính toán sóng
theo SPM (CERC, 1984), đà gió sử dụng là
giá trị trung bình số học của các đà gió
trong khoảng hướng ± 150 như công thức
(1). Hình 1 minh họa đà gió của điểm M và
hình 2 minh họa đà gió theo lý thuyết SPM.
∑=
n
iF
n
F
1
1
(1)
Trong đó: F - đà gió, n - tổng số số đà
gió được tính, i chạy 1 tới n
Vận tốc gió đo đạc được chuyển về độ
cao 10 m (U10) so với bề mặt sử dụng bởi
công thức:
7
1
10
10
=
Z
UU Z (2)
với: Z là độ sâu ( m)
Ngoài ra, vận tốc gió cũng được hiệu
chỉnh bằng 2 hệ số hiệu chỉnh – hệ số RL để
hiệu chỉnh sự khác biệt giữa vận tốc gió
thổi qua mặt đất UL và qua mặt nước UW
(xác định RL). Hệ số RT cho ảnh hưởng ổn
định của chênh lệch nhiệt độ nước và không
khí (khi không có số liệu RT = 1,1).
Với các giả thiết là sự phát triển của
sóng bị giới hạn về đà gió quan hệ chặt chẽ
với vận tốc ma sát US hơn là vận tốc gió đo
đạc U khi đó mối quan hệ giữa US và U cho
vùng biển hở được áp dụng trực tiếp cho
điều kiện đà gió giới hạn, công thức SPM
sử dụng đại lượng vận tốc gió hiệu chỉnh
UA để hiệu chỉnh quan hệ phi tuyến thực đo
giữa ứng suất và vận tốc gió có dạng:
23,171,0 −= UU A (3)
với: U = RTRLU10
Để thuận lợi cho việc tính toán, sử dụng
các đại lượng phi thứ nguyên sau:
N
M
S
24
- Độ cao sóng phi thứ nguyên:
2
*
A
Z
U
gH
H =
(4)
- Chu kỳ sóng phi thứ nguyên:
A
Z
U
gT
T =*
(5)
- Đà sóng phi thứ nguyên:
2
*
AU
gFF =
(6)
- Thời gian phát triển phi thứ nguyên:
AU
gtT =*
(7)
- Độ sâu phi thứ nguyên: 2
*
AU
gZD =
(8)
Nếu thời gian gió thổi nhỏ hơn Tlim thì
sóng bị hạn chế về thời gian gió thổi và các
giá trị chiều cao và chu kỳ sóng cần phải
tính toán dựa vào đà gió hiệu chỉnh. Các
bước tính toán các đặc trưng sóng khi độ
sâu nước bị hạn chế theo phương pháp SPM
được thể hiện theo sơ đồ thuật toán tính
sóng bởi phương pháp SPM khi độ sâu
nước bị hạn chế như sau:
(9)
Hình 2. Tính đà gió theo phương pháp SPM
Fig. 2. Calculation of the wind fetch according to SPM method
Tìm d, U10, F, t Tính UA = 0,71(RT U10 )1,23
Tính : D* = gZ/UA2
: T* = gT/UA
: F* = gF/UA2
Tính: d1 = tanh(0,53 D* ¾)
d2 = tanh(0,833 D* 3/8) Tính: F
*
eff ={tanh-1[(T*/537)3/7/(7,54d2)](d2/0,0379)}3
SO SÁNH F* và F*eff
Khi F* F*eff thì cho F* = F*eff
H*s = 0,283d1 tanh(0,00565F* 1/2/d1)
T*P = 7,54d2 tanh(0,0379F* 1/2/d2)
Hs = H*sUA2/g
TP = T*sUA/g
25
2.2. Phương pháp tính tần suất
Trên cơ sở chuỗi số liệu sóng, chúng tôi
tiến hành tính toán các đặc trưng thống kê
về tần suất xuất hiện độ cao sóng theo 16
hướng và theo các khoảng độ cao sóng là
0,05 m < = hs < 0,1 m , 0,1 m < = hs < 0,25
m, 0,25 m < = hs < 0,75 m, 0,75 m < = hs <
1,0 m, 1,0 m < = hs < 1,25 m, 1,25 m < = hs
1,5 m.
Tần suất từng cấp độ của độ cao sóng
theo từng hướng được tính theo công thức:
Aj =
N
n
iS
i
j
i∑
=1 (10)
i = 1,2,3, , Si
j = 1,2,3, , 16
Aj là tần suất sóng xuất hiện theo hướng
j
Si là số số liệu có trong cấp độ i theo
hướng j
N là tổng số số liệu của chuỗi số liệu
2.3. Phương pháp tính toán độ cao sóng
cao nhất xảy ra trong các hoàn kỳ
Phân bố Gumbell (Harald, 1969) thường
dùng để nghiên cứu đến các đặc trưng của
các đại lượng xác định giá trị các cực trị
(cực đại và cực tiểu) trong một khoảng thời
gian nào đó (hoàn kỳ). Lý thuyết về phân
bố các đại lượng cực trị chỉ ra rằng, nếu các
quan trắc là độc lập và có cùng phân bố xác
suất F(x) = P(xi<x), i=1, , n thì phân bố
xác suất của các đại lượng cực trị sẽ có
dạng sau:
- Đối với các đại lượng cực đại:
P ( ){ } ( )[ ]nn xFxx =< ;
- Đối với các đại lượng cực tiểu:
P ( ){ } ( )[ ]nx xFxx −=< 1 .
Ở đây n là dung lượng mẫu (tổng số số
liệu)
Năm 1928, Fisher và Tippett đã tìm ra 3
dạng phân bố có thể áp dụng cho bất kỳ đại
lượng ngẫu nhiên cực trị X nào đó và
Gumbell đã nghiên cứu, khảo sát tỉ mỉ dạng
phân bố F(y) = Exp(-e-y), phân bố này được
mang tên ông (phân bố xác suất Gumbell
còn gọi là phân bố xác suất Fisher – Tippett
loại I hay phân bố xác suất log – Weibull).
Phân bố Gumbell được ứng dụng hết sức
rộng rãi trong khí hậu, hàm phân bố F(y) =
Exp(-e-y) là hàm của biến chuẩn hóa y:
577.0283.1 +
−=
−
xx
S
y
x
(11)
Với: ( )∑
=
−
−
=
n
i
ix xx
n
S
1
2
1
1
, ∑
=
=
n
i
ix
n
x
1
1
x là biến ngẫu nhiên nhận giá trị cực trị
của X, xi là những giá trị mẫu của x.
Người ta đã chứng minh được rằng, khi
n ∞⇒n thì:
M[y] = y = 0.57721 và được gọi là hằng
số Euler.
D[y] = 6
2
2 piσ =y , từ đó 28254.1=yσ
Thông thường phân bố Gumbell được
dùng để tính các giá trị cực đại hoặc cực
tiểu của các đặc trưng khí tượng, thủy văn
khí hậu. Xác suất để đại lượng đó đạt cực
đại x nhận giá trị vượt quá một giá trị x0 nào
đó xác định bởi:
pM = P(x ≥ x0) = 1 – Exp(-e-y) (12)
Xác suất để đại lượng khí tượng, thủy
văn khí hậu cực tiểu x nhận giá trị nhỏ hơn
x0 sẽ là:
pm = P(x < x0) = Exp(-e-y) (13)
III. KẾT QUẢ
Trên cơ sở chuỗi số liệu gió 29 năm của
trạm Khí tượng – Thủy văn Nha Trang,
chúng tôi sử dụng phương pháp SPM cho
trường hợp tính sóng trong vùng biển có độ
sâu hạn chế được lập trình trên phần mềm
Visual Basic theo các bước tính của sơ đồ
khối công thức (9). Để nghiên cứu các đặc
trưng của sóng cho dải ven bờ vịnh Nha
Trang, chúng tôi tiến hành tính cho ba điểm
phía bắc (N), giữa (M) và phía nam (S) như
hình 1. Từ các kết quả phân tích, thống kê
cho thấy vùng nước có độ sâu hạn chế trong
vịnh Nha Trang có các đặc điểm sau:
- Mùa gió đông bắc (tháng 11, 12 và
tháng 1, 2 năm sau):
Vùng ở điểm M: Tần suất xuất hiện
sóng cao nhất trong khoảng 0,1 - 0,25 m
chiếm khoảng 30%, khoảng 1,0 m chiếm
tới 5,8% và khoảng độ cao sóng 1,5 m
26
chiếm tới 4%. Lấy sóng có độ cao 1 m trở
lên thì tần suất xuất hiện chiếm 11,7% và
như vậy trung bình một năm có khoảng 335
giờ ở vùng nước gần bờ vịnh Nha Trang
sóng có độ cao từ 1 m trở lên xuất hiện. Độ
cao sóng từ 0,5 m trở lên chỉ có hướng xuất
hiện ở cung hướng từ bắc tới đông nam (N-
SE, hình 3). Trong mùa gió đông bắc, độ
cao sóng cao nhất do tính toán có thể lên
đến 4,8 m (gió 28 m/s – bão cấp 10, 11) và
tần suất lặng sóng chiếm 41,7% tức là trung
bình một năm vào mùa gió đông bắc vùng
nước gần bờ vịnh Nha Trang có khoảng
1210 giờ sóng lặng (dưới 0,1 m). Các kết
quả phân tích thống kê độ cao sóng của
vùng trong mùa gió đông bắc chỉ ra rằng;
độ cao sóng cực đại là 4,2 m, độ cao sóng
trung bình 0,3 m, như vậy vào mùa gió
đông bắc vịnh Nha Trang thường có sóng.
Vùng ở điểm N: Sóng xuất hiện ở các
hướng SSE, SW, WSW, W, WNW rất ít,
trong chu kỳ 29 năm chỉ vài lần đến vài
chục lần xuất hiện ở các hướng đó. Ở đây
sóng cao nhất có thể đạt 2,1 m, độ cao sóng
trung bình rất thấp chỉ khoảng 0,2 m.
Vùng ở điểm S: Tần suất lặng sóng ở
vùng này rất cao tới 77,5 %. Sóng hầu như
không xuất hiện ở cung hướng từ SE cho
đến WSW. Độ cao sóng cao nhất ở hướng
SE có thể đạt 1,3 m.
- Mùa gió tây nam (tháng 5, 6, 7, 8):
Tại vùng M: Độ cao sóng 1,0 m có tần
suất xuất hiện (6,0%). Chúng ta thấy
khoảng độ cao từ 0,75 - 1,0 m tần suất
chiếm tới 6,2% tức là ở mùa tây nam sóng
cao cũng tồn tại khoảng 175 giờ. Tuy nhiên
độ cao sóng lớn hơn 1,0 m có tần suất xuất
hiện chỉ chiếm 7,6% (khoảng 220 giờ) thấp
hơn so với mùa gió đông bắc (11,7% - 335
giờ). Tương tự như trong mùa gió đông bắc,
mùa gió tây nam hướng sóng mà ở đó xuất
hiện độ cao sóng từ 0,5 m trở lên cũng chỉ
nằm cung hướng từ tây tây bắc tới đông
nam (Hình 4). Vào mùa gió tây nam, độ cao
sóng cao nhất do tính toán chỉ lên tới 1,8 m
(hướng ENE) và tần suất lặng sóng chiếm
rất cao khoảng 60% tức là trung bình một
năm vào mùa gió tây nam có khoảng 1745
giờ sóng lặng trong vịnh Nha Trang. Theo
phân tích thống kê cho thấy, trong khoảng
độ cao thấp dưới 0,25 m chiếm tần suất cao
25,5% tức là hơn ¼ thời gian sóng có
khoảng độ cao thấp. Nếu cộng tần suất
không có sóng và tần suất sóng có độ cao
thấp thì có tần suất sẽ chiến hơn 85%.
Trong mùa gió tây nam nhưng hướng
sóng đông nam lại chiếm ưu thế hơn và có
tần suất xuất hiện lớn nhất tới 15,7%. Trong
khi đó hướng tây nam chỉ chiếm tần suất rất
nhỏ 0,3% tức là trong mùa gió tây nam
hướng sóng tây nam chỉ xuất hiện khoảng 8
giờ và độ cao sóng thì rất nhỏ dưới 0,2 m.
Tại vùng N: Sóng xuất hiện hướng đông
nam chiếm tỷ lệ cao tới 15,7%. Vùng này
sóng cao nhất có thể đạt 1,4 m, độ cao sóng
trung bình rất thấp chỉ khoảng 0,1 m.
Tại vùng S: Hướng SE chiếm tần suất
cao nhất và độ cao sóng cao nhất cũng nằm
trong hướng này cao 0,9 m.
Hình 3. Sơ đồ hoa sóng vào mùa gió
đông bắc ở vịnh Nha Trang của điểm M
Fig. 3. Wave rose diagram in northeast
monsoon in the Nhatrang bay at M point
Hình 4. Sơ đồ hoa sóng vào mùa gió
tây nam ở vịnh Nha Trang của điểm M
Fig. 4. Waves rose diagram in southwest
monsoon in the Nhatrang bay at M point
27
- Mùa gió chuyển tiếp đông bắc sang
tây nam (tháng 3, 4):
Tại vùng M: Đặc trưng nổi bật trong
mùa gió chuyển tiếp là nếu có sóng thì phân
bố tần suất xuất hiện trong các khoảng độ
cao sóng không khác nhau nhiều từ 2,6 đến
12,3%. Độ lệch chuẩn tần suất trong các
khoảng độ cao này là 3,2% cũng nói lên
được điều đó. Theo sơ đồ hoa sóng (Hình 5)
cho thấy rằng, vào mùa gió này hướng sóng
bao gồm tất cả các hướng sóng ở mùa gió
đông bắc và mùa gió tây nam nhưng mức
độ tần suất ở các hướng này là khác nhau.
Hướng NE tần suất xuất hiện chiếm tới
11,9%. Độ cao sóng 1,25 m vẫn chiếm tần
suất cao 2,8% (khoảng 40 giờ xuất hiện vào
mùa chuyển tiếp). Các hướng đông bắc và
đông nam chiếm ưu thế hơn các hướng
khác và hai hướng này tần suất xuất hiện
gần tương đương nhau (đông bắc – 11,9%,
đông nam – 10,6%). Xét về thời gian tồn
tại, hướng đông bắc xuất hiện khoảng 345
giờ và hướng đông nam sóng xuất hiện
khoảng 305 giờ trong mùa chuyển tiếp. So
sánh độ cao sóng xuất hiện theo hướng
đông bắc và hướng đông nam cho thấy, độ
cao sóng cao có tần suất xuất hiện ở hướng
đông bắc lớn hơn tần suất xuất hiện độ cao
sóng cao theo hướng đông nam.
Tại vùng N: Sóng xuất hiện ở 16 hướng,
tuy nhiên hướng SSW, SW, WSW có tần
suất sóng rất thấp, trong chu kỳ 29 năm chỉ
vài lần đến vài chục lần xuất hiện ở các
hướng đó. Vào mùa gió chuyển tiếp đông
bắc sang tây nam, độ cao sóng cao nhất có
thể đạt 1,7 m, độ cao sóng trung bình rất
thấp chỉ khoảng 0,2 m.
Tại vùng S: Mùa chuyển tiếp sóng
hướng đông và đông nam có độ cao sóng
cao nhất 0,7 m. Cung hướng có sóng xuất
hiện với tần suất cao là cung có hướng từ N
đến SE. Trong mùa, độ cao sóng cao nhất là
0,9 m, độ cao sóng trung bình rất thấp chỉ
khoảng 0,15 m.
- Mùa gió chuyển tiếp tây nam sang
đông bắc (tháng 9, 10):
Trong mùa gió chuyển tiếp, sóng xuất
hiện trên khắp các hướng nhưng phân bố
không đều (Hình 6). Hướng tây - tây nam
chỉ có 0,1% và có độ cao sóng rất thấp 2,5
cm. Trong khi đó hướng đông bắc chiếm
9,3% và độ cao sóng từ 1,25 đến 1,5 m
chiếm 1,3%. Độ cao sóng từ 0,5 m trở lên
có tần suất xuất hiện 14,5% tức là ở sóng
cao trên 0,5 m cũng xuất hiện trong mùa
gió chuyển tiếp từ tây nam sang đông bắc
khoảng 415 giờ. Trong mùa gió này độ cao
sóng cao nhất lên tới 2,1 m (hướng NE) và
tần suất lặng sóng chiếm rất cao trên 62%
tức là trung bình một năm vào mùa gió tây
nam có khoảng 900 giờ sóng lặng trong
vịnh Nha Trang.
Hình 5. Sơ đồ hoa sóng vào mùa gió
chuyển tiếp đông bắc sang tây nam ở vịnh
Nha Trang của điểm M
Fig. 5. Wave rose diagram in transitional
monsoon from northeast to southwest
in the Nhatrang bay at M point
Hình 6. Sơ đồ hoa sóng vào mùa gió
chuyển tiếp từ tây nam sang đông bắc ở
vịnh Nha Trang của điểm M
Fig. 6. Wave rose diagram in transitional
monsoon from southwest to northeast
in the Nhatrang bay at M point
28
Tại vùng N: Sóng xuất hiện ở đông bắc
và đông nam có tần suất cao, các hướng còn
lại đều xuất hiện sóng trong chu kỳ 29 năm.
Trong mùa, độ cao sóng cao nhất có thể đạt
2,3 m, độ cao sóng trung bình rất thấp chỉ
khoảng 0,1 m.
Tại vùng S: Sóng xuất hiện ở hầu khắp
các hướng nhưng các hướng NE-8,5%, SE-
6,5%, WNW-3,8% có tần suất cao. Độ cao
sóng cao nhất có thể đạt 1,1 m, độ cao sóng
trung bình rất thấp chỉ khoảng 0,1 m.
Trung bình năm:
Đặc trưng sóng ở vùng M: Các kết quả
phân tích thống kê của sóng cho thấy: Sóng
có độ cao lớn chỉ có ở bốn hướng - đông
bắc, đông - đông bắc, đông và đông nam.
Vịnh Nha Trang sóng có tần suất cao chỉ ở
ba hướng, hướng bắc – 7,6%, hướng đông
bắc 10,9%, hướng đông nam 12,6% (Hình
7, bảng 1). Như vậy sóng có hướng đông
nam xuất hiện trong năm nhiều hơn hướng
đông bắc (gần 2%).
Hình 7. Sơ đồ hoa sóng nhiều năm ở vịnh Nha Trang của điểm M
Fig. 7. Wave rose diagram in many years in the Nhatrang bay at M point
Bảng 1. Tần suất xuất hiện sóng của 29 năm (1986 – 2014) của điểm M
Table 1. Appearance frequency of waves during 29 years (1986 – 2014) at M point
Khoảng
độ cao
sóng (m)
N
NNE
NE
ENE
E
ESE
SE
SSE
S
SSW
SW
WSW
W
WNW
NW
NNW
Calm
Tổng
0,05 1,2 0,1 0,9 0,2 0,6 0,2 2 0,1 0,1 . 0,1 . 0,1 0,1 0,8 0,3 . 6,8
0,1 3,7 0,3 . . . 0,8 . 0,5 0,3 . . . . . 0,2 0,7 . 6,5
0,25 2,7 1,2 1,8 0,2 0,8 0,4 2,4 0,3 . . . . . . . . . 9,8
0,5 . 0,4 0,6 0,2 0,4 . 0,9 . . . . . . . . . . 2,5
0,75 . . 2,1 0,7 1,1 . 2,8 . . . . . . . . . . 6,7
1,0 . . 3,5 0,2 0,8 . 3,7 . . . . . . . . . . 8,2
1,25 . . 0,7 0,1 0,1 . 0,5 . . . . . . . . . . 1,4
1,5 . . 1,3 0,1 0,2 . 0,3 . . . . . . . . . . 1,9
> 1,5 . . . . . . . . . . . . . . . . . .
% => 7,6 2 10,9 1,7 4 1,4 12,6 0,9 0,4 . 0,1 . 0,1 0,1 1 1 55,5 99,9
H_trung
bình 0,2 0,3 0,9 0,8 0,7 0,2 0,7 0,2 0,1 0,1 . . . . . 0,1
H_cao 0,8 0,9 4,8 2,4 2,6 0,3 1,6 0,4 0,2 0,2 0,2 0,1 0,1 0,2 0,2 0,2
Độ cao sóng khoảng 1,0 m có tần suất
xuất hiện 8,2% và độ cao sóng 1,5 m chiếm
tần suất 1,9%. Độ cao sóng khoảng 0,25 m
có tần suất xuất hiện cao nhất 9,8%. Sóng
có độ cao thấp dưới 0,25 m chiếm tần suất
cao 23,1% và tần suất không có sóng xuất
hiện khoảng 55,5 %. Như vậy tần suất của
sóng có độ cao rất thấp và không sóng
chiếm tới 78,6%. Do vậy có thể nói hàng
29
năm ở vịnh Nha Trang biển êm chiếm gần
80% thời gian.
Từ chuỗi số liệu sóng có được từ gió,
cho phép xác định được độ cao sóng cực
đại xảy ra trong các hoàn kỳ 5 năm, 10
năm, 20 năm, 50 năm và 100 năm vào các
mùa gió và cho hàng năm của khu vực
nghiên cứu. Đáng chú ý trong hoàn kỳ 100
năm theo hướng đông bắc sóng có độ cao
có thể lên tới hơn 6 mét.
Độ cao sóng cực đại lớn nhất tính được
nằm ở hướng NE cho các tháng có gió mùa
đông bắc thường đạt rất cao có khi tới 6,4
m còn các hướng chính khác độ cao sóng
cũng có độ cao sóng xuất hiện tới 3,9 m.
Các hướng khác như các hướng SSW, SW,
WSW, W, WNW trong các hoàn kỳ này độ
cao sóng rất nhỏ dưới 0,2 m. Ngược lại các
hướng NE, ENE, E, SE luôn xuất hiện sóng
có độ cao lớn có thể lên tới trên 3 m xảy ra
một lần trong 100 năm (Bảng 2). Để thấy rõ
hơn về độ cao sóng cực đại xảy ra trong các
hoàn kỳ trên, chúng ta tham khảo vào bảng
2, bảng giá trị tối cao dự báo xảy ra cho các
hoàn kỳ vào mùa gió đông bắc.
Trong mùa gió tây nam, các hướng có độ
cao sóng tối cao xảy ra trong các hoàn kỳ 5
năm, 10 năm, 20 năm, 50 năm và 100 năm
cũng chỉ xảy ra ở các hướng NE, ENE, E,
SE như ở mùa gió đông bắc nhưng độ cao
sóng thấp hơn nhiều, cao nhất 3,0 m ở
hướng NE (Bảng 3).
Đến mùa gió chuyển tiếp đông bắc sang
tây nam và chuyển tiếp tây nam sang đông
bắc cũng xảy ra tương tự như vào mùa gió
đông bắc hoặc tây nam cũng chỉ xảy ra ở
các hướng NE, ENE, E, SE (Bảng 4, 5).
Tại vùng N: Các hướng SSW, SW,
WSW có tần suất sóng rất thấp, trong hàng
chục ngàn số liệu chỉ có hàng chục số liệu
có sóng xuất hiện và độ cao sóng rất thấp.
Độ cao sóng cao nhất trong năm chỉ khoảng
2,3 m và độ cao sóng trung bình của năm
chỉ khoảng 0,1 m.
Tại vùng S: Sóng thường ít xuất hiện ở
các hướng SSW và WSW. Độ cao sóng cao
nhất trong năm chỉ khoảng 1,0 m và độ cao
sóng trung bình 0,12 m.
Bảng 2. Các giá trị tối cao xảy ra trong các hoàn kỳ xuất hiện của sóng
trong mùa gió đông bắc của điểm M
Table 2. Maximum wave height values occur in periods in northeast monsoon at M point
Năm
Hướng
5
(m)
10
(m)
20
(m)
30
(m)
50
(m)
100
(m)
N 0,9 0,9 1 1 1,1 1,1
NNE 1 1,1 1,2 1,2 1,3 1,4
NE 5,2 5,5 5,8 5,9 6,1 6,4
ENE 2,9 3,1 3,4 3,5 3,7 3,9
E 2,2 2,5 2,7 2,8 3 3,2
ESE 0,5 0,5 0,6 0,6 0,6 0,7
SE 2,6 2,8 3 3,2 3,3 3,5
SSE 0,6 0,7 0,8 0,8 0,9 0,9
S 0,2 0,2 0,2 0,2 0,3 0,3
SSW 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1
SW 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,2
WSW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
W 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
WNW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
NW 0,2 0,3 0,3 0,3 0,3 0,3
NNW 0,3 0,3 0,4 0,4 0,4 0,4
30
Bảng 3. Các giá trị tối cao xảy ra trong các hoàn kỳ xuất hiện của sóng
trong mùa gió tây nam của điểm M
Table 3. Maximum wave height values occurs in periods in southwest monsoon at M point
Năm
Hướng
5
(m)
10
(m)
20
(m)
30
(m)
50
(m)
100
(m)
N 0,5 0,6 0,6 0,7 0,7 0,8
NNE 0,7 0,8 0,8 0,9 0,9 1
NE 2,3 2,4 2,6 2,7 2,8 3,0
ENE 2,1 2,2 2,3 2,5 2,7 2,8
E 1,8 2 2,2 2,4 2,5 2,7
ESE 0,5 0,5 0,5 0,6 0,6 0,6
SE 1,9 2,2 2,4 2,5 2,7 2,9
SSE 0,5 0,5 0,6 0,6 0,7 0,7
S 0,3 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4
SSW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,3 0,3
SW 0,3 0,4 0,4 0,4 0,4 0,4
WSW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,3 0,3
W 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
WNW 0,4 0,4 0,4 0,4 0,4 0,4
NW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,3 0,3
NNW 0,3 0,3 0,3 0,3 0,3 0,4
Bảng 4. Các giá trị tối cao xảy ra trong các hoàn kỳ xuất hiện của sóng
trong mùa gió chuyển tiếp đông bắc sang tây nam của điểm M
Table 4. Maximum wave height values occurs in periods in transitional monsoon
from the northeast to southwest at M point
Năm
Hướng
5
(m)
10
(m)
20
(m)
30
(m)
50
(m)
100
(m)
N 0,6 0,7 0,7 0,8 0,8 0,9
NNE 0,9 1 1,1 1,1 1,1 1,2
NE 2,9 3,2 3,4 3,6 3,8 4
ENE 2,2 2,5 2,7 2,8 3 3,2
E 2,1 2,3 2,5 2,7 2,8 3,1
ESE 0,5 0,5 0,5 0,6 0,6 0,6
SE 1,9 2,2 2,4 2,6 2,8 3
SSE 0,5 0,5 0,6 0,6 0,6 0,7
S 0,3 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4
SSW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,3 0,3
SW 0 0 0,1 0,1 0,1 0,1
WSW 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1
W 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1
WNW 0,4 0,4 0,4 0,4 0,4 0,5
NW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
NNW 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4 0,4
31
Bảng 5. Các giá trị tối cao xảy ra trong các hoàn kỳ xuất hiện của sóng
trong mùa gió chuyển tiếp đông bắc sang tây nam của điểm M
Table 5. Maximum wave height values occur in periods in transitional monsoon
from the northeast to southwest at M point
Năm
Hướng
5
(m)
10
(m)
20
(m)
30
(m)
50
(m)
100
(m)
N 0,6 0,7 0,7 0,8 0,8 0,9
NNE 1 1 1,1 1,2 1,2 1,3
NE 3,1 3,4 3,7 3,8 4 4,3
ENE 2,3 2,5 2,8 2,9 3,1 3,3
E 2,9 3,1 3,4 3,5 3,7 3,9
ESE 0,4 0,4 0,5 0,5 0,5 0,6
SE 1,9 2,1 2,3 2,5 2,6 2,8
SSE 0,5 0,5 0,6 0,6 0,6 0,7
S 0,2 0,2 0,3 0,3 0,3 0,3
SSW 0,3 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4
SW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
WSW 0,1 0,1 0,1 0,1 0,2 0,2
W 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
WNW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
NW 0,2 0,2 0,3 0,3 0,3 0,3
NNW 0,2 0,2 0,2 0,2 0,3 0,3
IV. THẢO LUẬN
Phương pháp tính sóng mà chúng tôi sử
dụng trong bài báo này là phương pháp tính
sóng đơn giản, với khu vực tính toán có địa
hình đáy và đường bờ không phức tạp,
trường sóng nhiễu xạ, giao thoa (do ảnh
hưởng của các đảo trong vùng vịnh chưa
xét tới) chính vì vậy các kết quả tính sóng
cho các điểm ở giữa vịnh (M) và phía nam
vịnh (S) chúng tôi đề nghị chỉ dừng ở mức
độ tham khảo.
Một chú ý nữa là các kết quả trong bài
báo này chưa tính tới sóng lừng (sóng dài
khi không có gió và truyền từ xa tới).
V. KẾT LUẬN
Chế độ sóng tại vùng ven bờ vịnh Nha
Trang cho thấy vào mùa gió đông bắc, ở tất
cả các vùng, sóng đều xuất hiện chủ yếu tại
hướng bắc (điểm N-17,2%; M-17,1%; S-
5,8%) và hướng đông bắc (điểm N-14,2%;
M-14,4%; S-4,6%). Trong khi đó mùa gió
tây nam, hướng đông nam (điểm N-15,1%;
M-15,7%; S-15,8%) và đông đông nam
(điểm N-7,3%; M-7,4%; S-7,9%) lại xuất
hiện tần suất cao. Ở mùa gió chuyển tiếp
đông bắc sang tây nam, hướng đông bắc
(của điểm M- 11,9%) có tần suất xuất hiện
sóng cao hơn hướng đông nam (của điểm M
-10,6%). Vào mùa gió chuyển tiếp tây nam
sang đông bắc tần suất xuất hiện sóng ở hai
hướng đông bắc và đông nam cũng chiếm
tần suất cao. Tổng thể theo năm, các hướng
N, NE, SE chiếm tần suất xuất hiện cao.
Tần suất không có sóng rất cao trong tất
cả các mùa với hơn 75% trên tất cả các
điểm.
Trong mùa gió tây nam, sóng đông nam
thường chiếm ưu thế với tần suất xuất hiện
cao (điểm N-15,1%; M-15,7%; S-15,8%).
Trong khi đó hướng tây nam chỉ chiếm tần
suất rất nhỏ (điểm N-0,4%; M-0,3%; S-
0,6%).
Dự báo độ cao sóng cực đại tương ứng
với hoàn kỳ khác nhau: 5 năm, 10 năm, 20
năm, 50 năm và 100 năm cho các hướng
cho thấy các hướng NE, SE, E luôn xuất
hiện sóng có độ cao lớn, cao trên 6 m xảy ra
một lần cho hoàn kỳ 100 năm ở điểm M.
32
Đặc điểm của sóng trong các mùa và số
liệu dự báo trong các hoàn kỳ khác nhau là
những thông tin quan trọng về chế độ sóng
ở vùng vịnh Nha Trang, các kết quả này là
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
phòng chống, cảnh báo, bảo vệ công trình
biển, đánh bắt thủy hải sản, du lịch và
nghiên cứu khoa học.
Lời cảm ơn. Cảm ơn tập thể phòng Vật Lý
Biển và chủ nhiệm đề tài hợp đồng với
Công ty TNHH Khu nghỉ dưỡng vịnh Cam
Ranh: “Khảo sát điều kiện thủy thạch động
lực và môi trường tại vùng biển khu nghỉ
dưỡng vịnh Cam Ranh” đã cung cấp tài liệu
và nhận xét góp ý để hoàn thành bài báo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CERC, 1984. Shore protection manual. 4th
ed., U.S. Army Engineer Waterways
Experiment Station, U.S. Government
Printing Office, Washington, D.C., vol.
2: 1 - 88.
Donelan M., J. Hamilton and W. H. Hui,
1985, Directional spectra of wind–
generated waves. Philos. Trans. R. Soc.
Lond., A 315, 509-562.
Donelan M., M. Skafel, H. Graber, P. Liu,
D. Schwab and S. Venkatesh, 1992. On
the growth rate of wind–generated
waves. Atmosphere–Ocean, 30: 457-
478.
Harald Crame’r, 1969. Phương pháp toán
học trong thống kê (Nguyễn Khắc Phúc,
Nguyễn Duy Tiến, Đào Hữu Hồ dịch).
NXB Khoa học, Hà Nội.
Hasselmann K., 1973. Measurements of
wind–wave growth and swell decay
during the Joint North Sea Wave Project
(JONSWAP). Dtsch. Hydrogh. Z.,
Suppl., A 8, 12, 95.
Phạm Xuân Dương, Nguyễn Văn Tuân,
2013. Tính toán một số đặc trưng thống
kê của sóng do gió ở vùng biển ngoài
khơi tỉnh Bình Định trong mùa gió đông
bắc. Tuyển tập Nghiên cứu Biển. NXB
Khoa học và Kỹ thuật, XIX: 26-34.
Sverdrup H. U. and W. H. Munk, 1946.
Empirical and theoretical relations
between wind, sea, and swell. Trans.
Amer. Geophys. Union, 27: 823-827.
Sverdrup H. U. and W. H. Munk, 1947.
Wind, sea, and swell: Theory of relations
for forecasting. Hydrographic Office,
U.S. Navy, Publ. No. 601. Wiegel R. L.
An analysis of data from wave recorders
on the Pacific Coast of the United States.
Trans. Amer. Geophys. Union, 30: 700-
770.
Vũ Thanh Ca, 2005. Giáo trình sóng gió.
Đại học Thủy lợi, 245 trang.
Zakharov V. and M. Zaslavskii, 1983.
Dependence of wave parameters on the
wind velocity, duration of its action and
fetch in the weak-turbulence theory of
water waves. Izv. Atm. Ocean. Physics,
19(4): 300-306.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 04_phamxuanduong_21_32_7578_2070853.pdf