Như vậy, vô hình trung, quy định
khoản 2 Điều 325 và khoản 2 Điều 326
của BLDS năm 2015 đã tước bỏ quyền và
đã xâm phạm đến lợi ích của chủ thể trong
một hợp đồng đã được thiết lập và tồn tại
trước đó. Giải pháp phải có sự đồng ý của
chủ thể còn lại cũng đã được thiết kế tại
Thông tư 17/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài
nguyên và Môi trường5. Theo đó, sự đồng
ý cho chuyển nhượng, tặng cho tài sản gắn
liền với đất phải được thể hiện bằng văn bản
có công chứng hoặc có chứng thực. Đối với
trường hợp ngược lại, chủ thể của QSDĐ
chuyển nhượng cho người khác thì có cần
sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản gắn liền
với đất hay không thì lại chưa được quy định
trong Thông tư này cũng như trong quy định
của pháp luật hiện hành. Theo chúng tôi,
về nguyên tắc thì khi định đoạt (xử lý tài
sản thế chấp) trong cả hai trường hợp trên
đều cần có sự đồng ý của chủ thể còn lại và
đều cần có sự đồng ý bằng văn bản có công
chứng. Văn bản chuyển giao hợp đồng thuê,
góp vốn, hợp tác kinh doanh của ba bên (bên
thế chấp, bên mua tài sản thế chấp và chủ thể
đang thực hiện hợp đồng thuê, góp vốn, hợp
tác kinh doanh với bên thế chấp) là lựa chọn
an toàn và phù hợp cho bối cảnh này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đăng ký thế chấp tài sản hình thành trong tương lai - Những vấn đề cần hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP TÀI SẢN HÌNH THÀNH 
TRONG TƯƠNG LAI - NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN HOÀN THIỆN
Tóm tắt: 
Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai và Bộ luật 
Dân sự hiện hành còn có những quy định chưa thống nhất về bất 
động sản hình thành trong tương lai; điều này đã khiến cho hoạt 
động thực hiện và áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn, đặc biệt 
là hoạt động đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền 
với đất hình thành trong tương lai. 
Vũ Thị Hồng Yến*
* PGS. TS. Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract 
The Law on Housing, the Law on Real Estate Business, the Law 
on Land and the Civil Code contain inconsistent provisions on real 
estate formed in the future, which has been providing inconveniences 
for enforcement and application of the applicable laws, especially 
the registration of mortgage of land use rights and assets associated 
with land to be formed in the future. 
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền sử dụng đất, tài sản 
hình thành trong tương lai
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/09/2018
Biên tập : 02/10/2018
Duyệt bài : 05/10/2018
Article Infomation:
Keywords: land use rights; properties in 
the future 
Article History:
Received : 14 Sep. 2018
Edited : 02 Oct. 2018
Approved : 05 Oct. 2018
1. Một số khái niệm cần được thống nhất 
giữa các văn bản pháp luật hiện hành
Khái niệm bất động sản hình thành 
trong tương lai (HTTTL) được hiểu trên cơ 
sở quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS 
năm 2015) về tài sản hình thành trong tương 
lai. Phạm vi các loại tài sản thuộc bất động 
sản bao gồm: quyền sử dụng đất (QSDĐ), 
nhà ở, các công trình xây dựng khác và các 
tài sản khác gắn liền với các tài sản này1. 
1 Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015.
 Khoản 2 Điều 108 BLDS năm 2015 
quy định: “Tài sản hình thành trong tương 
lai bao gồm: a) Tài sản chưa hình thành; b) 
Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập 
quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập 
giao dịch”.
Từ quy định trên, chúng ta có thể rút 
ra nhận xét: có hai yếu tố xác định tài sản 
HTTTL, gồm: 1) Yếu tố vật chất: đó là tài 
sản chưa hình thành theo đúng tính chất, 
tính năng, công dụng của loại tài sản đó; 2) 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 7(383) T4/2019
Yếu tố pháp lý: ngay cả khi tài sản đã hình 
thành nhưng chưa xác lập quyền sở hữu cho 
chủ thể vào thời điểm xác lập giao dịch. Có 
thể nói đây là 2 yếu tố cần và đủ để xác định 
đó là tài sản hiện có hay tài sản HTTTL. 
Tuy nhiên, nếu so sánh khái niệm này với 
quy định của Luật Kinh doanh bất động sản 
(KDBĐS) năm 2014 và Luật Nhà ở năm 
2014 thì có sự khác biệt sau: (2)
- Khoản 19 Điều 3 Luật Nhà ở năm 
2014 quy định: “Nhà ở hình thành trong 
tương lai là nhà ở đang trong quá trình đầu 
tư xây dựng và chưa được nghiệm thu đưa 
vào sử dụng”. 
- Khoản 4 Điều 3 Luật KDBĐS năm 
2014 quy định: “Nhà, công trình xây dựng 
hình thành trong tương lai là nhà, công trình 
xây dựng đang trong quá trình xây dựng và 
chưa được nghiệm thu đưa vào sử dụng”. 
Như vậy, tài sản HTTTL quy định của 
theo Luật Nhà ở năm 2014 và Luật KDBĐS 
năm 2014 chỉ tương ứng với loại tài sản 
HTTTL được quy định tại điểm a khoản 2 
mà bỏ sót loại tài sản HTTTL được quy định 
tại điểm b khoản 2 Điều 108 BLDS năm 
2015. Nói cách khác, Luật Nhà ở và Luật 
KDBĐS định nghĩa loại nhà ở và bất động 
sản HTTTL dựa trên yếu tố vật chất, vật lý 
của tài sản, mà bỏ qua yếu tố pháp lý của tài 
sản. Vì vậy, theo quy định của Luật Nhà ở 
năm 2014, Luật KDBĐS năm 2014, các loại 
bất động sản sau đây không được quy định 
là tài sản HTTTL: 
Thứ nhất, nhà ở đã xây dựng xong, 
đã được nghiệm thu đưa vào sử dụng, hồ sơ 
đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu 
đang được cơ quan nhà nước có thẩm quyền 
xem xét. 
Chúng tôi cho rằng, sự minh bạch về 
nguồn gốc quyền sở hữu là một trong các 
tiêu chí của tài sản bảo đảm: đó là sự rõ ràng 
về căn cứ xác lập quyền sở hữu của tài sản 
2 Khoản 18 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014 và khoản 3, 4 Điều 3 Luật KDBĐS năm 2014.
(có chứng cứ để chứng minh sự hình thành 
quyền sở hữu hoặc sẽ được sở hữu của bên 
thế chấp đối với tài sản thế chấp) và tính khả 
thi trong xử lý tài sản (đã hiện hữu và có thể 
xử lý được). Như vậy, đối với nhà ở chưa 
xây, đang xây vẫn được pháp luật ghi nhận 
là tài sản thế chấp (theo cơ chế của tài sản 
HTTTL) thì tại sao nhà ở đã xây dựng xong, 
đã bàn giao cho bên mua (độ an toàn đã cao 
hơn) lại không được thế chấp (chỉ vì lý do 
chưa có giấy chứng nhận sở hữu)? Hồ sơ 
pháp lý đối với nhà ở HTTTL được thế chấp 
là: hợp đồng mua bán căn hộ với chủ đầu tư, 
với các hoá đơn chứng minh hoàn thành các 
đợt đóng tiền thì tại sao khi hồ sơ căn hộ đã 
hoàn tất để xin cấp giấy chứng nhận quyền 
sở hữu đã được nộp cho cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền (sự an toàn về pháp lý cho bên 
mua đã được bảo đảm) thì lại không được coi 
là tài sản HTTTL để thế chấp theo các điều 
kiện mà Luật Nhà ở năm 2014 quy định? 
Luật Nhà ở năm 2014 quy định nhà ở 
HTTTL được thế chấp để trả tiền mua chính 
nhà ở đó nên vào thời điểm bên mua đã nộp 
hồ sơ để xin cấp giấy chứng nhận quyền sở 
hữu thì tiền nhà đã thanh toán xong (hoặc 
chỉ còn 5% theo quy định), do đó, việc tiếp 
tục cho phép loại nhà ở này dùng để thế chấp 
là không cần thiết. Chúng tôi cho rằng, loại 
nhà ở HTTTL không được dùng để thế chấp 
bảo đảm cho khoản vay để thanh toán tiền 
mua chính ngôi nhà đó nữa (vì tiền nhà đã 
thanh toán xong), nhưng có thể dùng để thế 
chấp bảo đảm cho các khoản vay với các 
mục đích khác của bên thế chấp mà vẫn đáp 
ứng được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 
108 BLDS năm 2015.
Thứ hai, QSDĐ chưa được cấp giấy 
chứng nhận nhưng đã có quyết định giao 
đất, cho thuê đất. 
Đất đai là tài sản đã hình thành, đã 
tồn tại nên yếu tố “hình thành trong tương 
lai” chỉ được xét ở khía cạnh pháp lý. Theo 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 7(383) T4/2019
quy định của điểm a khoản 1 Điều 188 Luật 
Đất đai năm 2013, QSDĐ phải được cấp 
giấy chứng nhận thì mới trở thành đối tượng 
của các giao dịch. Do đó, đối với các dự án 
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất mà 
chưa có giấy chứng nhận (do thủ tục cấp 
giấy chứng nhận mất nhiều thời gian), các 
tổ chức tín dụng cũng không thể nhận làm 
tài sản bảo đảm vì hợp đồng thế chấp không 
công chứng và đăng ký được3. Khoản 2 Điều 
1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính 
phủ ngày 22/2/2012 sửa đổi, bổ sung một 
số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP 
của Chính phủ ngày 29/12/2006 về giao 
dịch bảo đảm khẳng định: “Tài sản HTTTL 
không bao gồm QSDĐ”. Như vậy, theo quy 
định của pháp luật hiện hành, có tài sản gắn 
liền với đất (trong đó có nhà ở) HTTTL, 
không có QSDĐ HTTTL. Khi mua biệt thự, 
căn hộ liền kề, bên mua sẽ được sở hữu biệt 
thự, căn hộ và được cấp giấy chứng nhận 
QSDĐ riêng; còn khi mua căn hộ chung 
cư, bên mua chỉ được cấp giấy chứng nhận 
quyền sở hữu căn hộ và QSDĐ chung. Cách 
hiểu không có QSDĐ HTTTL đã làm phát 
sinh những vấn đề sau khi chủ đầu tư bán 
biệt thự, căn hộ liền kề: 
Một là, khi mô tả đối tượng của hợp 
đồng: các hợp đồng này chỉ ghi là nhà ở 
HTTTL mà không ghi QSDĐ (vì lúc này chủ 
đầu tư vẫn đang đứng tên trên giấy chứng 
nhận QSDĐ và giấy đó chưa được tách sổ 
cho từng biệt thự, căn hộ liền kề), trong 
khi giá mua bao gồm cả giá trị của QSDĐ 
và giá trị xây dựng nhà. Trên thực tế, các 
bên thường mô tả đối tượng mua bán là căn 
hộ, nhà ở liền kề mà không mô tả bao gồm 
QSDĐ; nhưng thực chất người mua phải trả 
cả giá trị QSDĐ. Nếu việc mua bán suôn sẻ, 
chủ đầu tư giữ chữ tín thì sau khi thanh toán 
đủ tiền, người mua sẽ được cấp giấy chứng 
nhận QSDĐ và quyền sở hữu nhà liền kề, 
3 Đỗ Văn Đại (chủ biên), “Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về QSDĐ”, (sách chuyên khảo), Nxb. Lao động, 
2012, tr. 262.
biệt thự. Nếu sau này có tranh chấp về hợp 
đồng mua bán, chủ đầu tư sẽ căn cứ vào điều 
khoản về đối tượng: chỉ có nhà chứ không 
có QSDĐ để chối bỏ trách nhiệm của mình; 
Hai là, có khả năng sau khi bán cho 
khách hàng thì chủ đầu tư lại thế chấp QSDĐ 
của toàn bộ dự án cho ngân hàng để vay tiền. 
Xét dưới khía cạnh pháp lý thì QSDĐ vẫn 
thuộc quyền của chủ đầu tư nên vẫn đáp ứng 
được các điều kiện của một tài sản thế chấp. 
Khi định giá biệt thự, căn hộ liền kề thì giá 
thành bao gồm không chỉ giá xây dựng mà 
còn cả giá của QSDĐ của biệt thự, căn hộ 
đó. Do đó, nếu chủ đầu tư thế chấp QSDĐ 
của các biệt thự, căn hộ đã bán thì xâm phạm 
đến quyền lợi của người mua. Điều này là 
một sự cảnh báo cho các ngân hàng khi nhận 
thế chấp cần kiểm tra dự án thế chấp đã được 
bán cho khách hàng chưa và ngay cả các cơ 
quan quản lý, đăng ký đất đai cũng cần phải 
từ chối đăng ký cho những quan hệ thế chấp 
này. Do đó, việc Nghị định số 11/2012/NĐ-
CP khẳng định không có QSDĐ HTTTL đã 
làm phát sinh những khó khăn, vướng mắc 
cho các chủ thể khi xác lập thực hiện các 
giao dịch có đối tượng là biệt thự, căn hộ 
HTTTL từ các dự án. 
Như vậy, để khắc phục những bất 
cập nêu trên, Luật Nhà ở năm 2014, Luật 
KDBĐS năm 2014, Luật Đất đai năm 2013 
cần có những quy định bổ sung về bất động 
sản HTTTL (tương ứng với lĩnh vực và thẩm 
quyền quản lý) trên cơ sở quy định tại điểm 
b khoản 2 Điều 108 BLDS năm 2015.
2. Thủ tục chuyển tiếp đăng ký đối với thế 
chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng 
mua bán nhà ở hình thành trong tương lai 
Trường hợp thế chấp quyền tài sản phát 
sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL thì 
các bên có thể thực hiện việc đăng ký chuyển 
tiếp nếu trước đó đã đăng ký thế chấp quyền 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 7(383) T4/2019
tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở 
HTTTL và nay có yêu cầu chuyển tiếp sang 
đăng ký thế chấp nhà ở HTTTL hoặc sang 
đăng ký thế chấp nhà ở mà đến thời điểm 
chuyển tiếp các bên chưa xoá đăng ký thế 
chấp quyền tài sản đó. Chuyển tiếp đăng ký 
thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng 
mua bán nhà ở HTTTL là việc cơ quan có 
thẩm quyền xác nhận chuyển tiếp đăng ký 
thế chấp vào sổ địa chính, giấy chứng nhận 
QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác 
gắn liền với đất và đơn yêu cầu chuyển tiếp 
đăng ký thế chấp.
Có hai trường hợp chuyển tiếp đăng 
ký: khi tài sản thế chấp là quyền tài sản phát 
sinh trong hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL 
có sự thay đổi thành nhà ở HTTTL hoặc khi 
tài sản thế chấp có sự thay đổi từ quyền tài 
sản HTTTL sang nhà ở hiện có. 
- Đối với trường hợp chuyển tiếp đăng 
ký thứ nhất: Đối tượng của hợp đồng thế chấp 
được thay đổi từ quyền tài sản sang nhà ở 
HTTTL. Khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền 
tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở 
HTTTL thì các bên lập hợp đồng bằng văn bản 
(thủ tục công chứng hợp đồng là tự nguyện 
chứ không bắt buộc; đăng ký thế chấp cũng 
tự nguyện tại trung tâm đăng ký giao dịch, tài 
sản theo phương thức đăng ký công bố). Hồ 
sơ yêu cầu khi công chứng và đăng ký chỉ cần 
hợp đồng mua bán với chủ đầu tư. Trường 
hợp ký kết hợp đồng thế chấp có đối tượng là 
nhà ở HTTTL thì hợp đồng được công chứng 
và được đăng ký thế chấp tại văn phòng đăng 
ký đất đai theo phương thức xác minh. Hồ sơ 
đăng ký thế chấp theo quy định tại khoản 2 
Điều 23 Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-
BTP-BTNMT của Bộ Tư pháp và Bộ Tài 
nguyên - Môi trường như sau:
+ Hợp đồng thế chấp hoặc hợp đồng 
thế chấp có công chứng, chứng thực trong 
trường hợp pháp luật có quy định;
+ Hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL 
được ký giữa bên thế chấp với chủ đầu tư phù 
hợp với quy định của pháp luật về nhà ở.
Trường hợp bên thế chấp là bên nhận 
chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở 
HTTTL thì phải nộp thêm văn bản chuyển 
nhượng hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL 
phù hợp với quy định của pháp luật về nhà ở.
+ Có giấy tờ chứng minh đã đóng 
tiền mua nhà ở cho chủ đầu tư theo tiến 
độ thoả thuận trong hợp đồng mua bán và 
không thuộc diện đang có khiếu nại, khiếu 
kiện, tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà 
ở HTTTL hoặc về việc chuyển nhượng hợp 
đồng mua bán nhà ở HTTTL này.
Thông thường, khi công chứng hợp 
đồng thế chấp nhà ở HTTTL, cơ quan công 
chứng yêu cầu các bên cung cấp các giấy tờ 
sau để chứng minh cho tính hợp pháp của 
hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL: hồ sơ 
dự án; thiết kế kỹ thuật của dự án được phê 
duyệt và đã có giấy chứng nhận hoặc quyết 
định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền; nhà ở thế chấp phải 
thuộc diện đã xây dựng xong phần móng 
theo quy định của pháp luật về xây dựng và 
không nằm trong phần dự án hoặc toàn bộ 
dự án mà chủ đầu tư đã thế chấp; hợp đồng 
bảo lãnh của ngân hàng thương mại về nghĩa 
vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách 
hàng mua nhà ở. 
Rõ ràng là hồ sơ của hai hợp đồng thế 
chấp trên là khác nhau vì xác định đối tượng 
của hợp đồng thế chấp là khác nhau nên quy 
định của khoản 3 Điều 12 của Thông tư liên 
tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT về việc 
các bên không phải ký lại hợp đồng thế chấp 
khi yêu cầu chuyển tiếp là không hợp lý. 
Bên cạnh đó, trong quy định về đăng ký các 
biện pháp bảo đảm của Nghị định 102/2017 
của Chính phủ không yêu cầu hồ sơ đăng ký 
chuyển tiếp cho trường hợp này cần phải bổ 
sung hợp đồng thế chấp có mô tả đối tượng 
là nhà ở HTTTL. Chúng tôi cho rằng, trong 
trường hợp này, pháp luật cần yêu cầu các 
bên phải ký lại hợp đồng thế chấp mới và là 
tài liệu cần có trong hồ sơ chuyển tiếp đăng 
ký mới phù hợp với bản chất của quan hệ này. 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 7(383) T4/2019
- Đối với trường hợp chuyển tiếp đăng 
ký thứ hai: Ở đây có sự thay đổi không chỉ là 
trạng thái vật chất mà cả là trạng thái pháp lý 
của tài sản. Nếu là tài sản thế chấp là quyền 
tài sản thì quyền này chỉ giới hạn trong hợp 
đồng và là một loại tài sản vô hình; nếu tài 
sản thế chấp là nhà ở hiện có thì tài sản này 
tồn tại độc lập và đã xác lập quyền sở hữu 
cho bên thế chấp thông qua thủ tục cấp giấy 
chứng nhận đăng ký sở hữu nhà. Khi thế 
chấp quyền tài sản thì hợp đồng không cần 
tuân thủ quy định về công chứng hay đăng 
ký mà do các chủ thể tự lựa chọn, quyết 
định; trường hợp muốn tài sản thế chấp là 
nhà ở hiện có (có căn cứ để bên nhận thế 
chấp có quyền xử lý nhà ở đó) thì các bên 
phải ký kết hợp đồng bằng văn bản có công 
chứng và phải đăng ký tại văn phòng đăng 
ký đất đai. Hồ sơ pháp lý của từng hợp đồng 
và cơ quan đăng ký có thẩm quyền thực hiện 
việc đăng ký là khác nhau. Trong Nghị định 
102/2017 có quy định về việc bổ sung hợp 
đồng này. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, 
việc ghi nhận chuyển tiếp thời điểm đăng 
ký để hưởng thứ tự ưu tiên thanh toán là giải 
pháp chưa phù hợp. Hệ quả này tương tự 
như trường hợp đăng ký thay đổi từ thế chấp 
nhà ở HTTTL sang nhà ở đã hình thành vì 
thứ tự đăng ký cũng được bảo lưu. Nếu so 
sánh, chúng ta thấy rằng, xuất phát điểm các 
chủ thể lựa chọn hai loại tài sản thế chấp 
với hai tên gọi khác nhau (quyền tài sản phát 
sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL, và 
nhà ở HTTTL) với hai yêu cầu khác nhau về 
hình thức hợp đồng và thủ tục công chứng 
nhưng cuối cùng thì hệ quả pháp lý lại giống 
nhau khi nhà ở đã hình thành (bên nhận thế 
chấp đều có quyền xử lý và đều có thứ tự 
ưu tiên ban đầu). Đây là điều không hợp 
lý bởi quy định của pháp luật đã đồng nhất 
giải pháp cho các dữ kiện khác nhau của các 
tình huống khác nhau với các điều kiện cũng 
khác nhau.
3. Về các trường hợp từ chối đăng ký
Các thông tin trong hợp đồng thế 
chấp, trong đơn yêu cầu không trùng khớp 
với thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng 
ký do thay đổi theo văn bản của cơ quan có 
thẩm quyền thì người yêu cầu đăng ký thực 
hiện đồng thời thực hiện thủ tục đăng ký 
biện pháp bảo đảm và thủ tục đăng ký biến 
động đất đai, tài sản gắn liền với đất, xác 
nhận sự thay đổi theo quy định của Bộ Tài 
nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, thực tế là 
thông tin trong hợp đồng thế chấp và thông 
tin trên giấy chứng nhận hoặc thông tin được 
lưu trữ tại cơ quan đăng ký lại không trùng 
khớp do quy định của pháp luật có sự thay 
đổi. Cụ thể:
- BLDS năm 2015 quy định mới về 
chủ thể của quan hệ dân sự chỉ có cá nhân và 
pháp nhân. Do đó, doanh nghiệp tư nhân, hộ 
gia đình đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ 
trước đây thì thông tin trên giấy chứng nhận 
chỉ ghi tên chủ hộ (với QSDĐ cấp cho hộ gia 
đình) và ghi tên doanh nghiệp tư nhân (với 
QSDĐ cấp cho hộ gia đình) sẽ không trùng 
khớp với thông tin ghi trong hợp đồng thế 
chấp. Vì trong hợp đồng thế chấp sẽ là các 
cá nhân (chủ thể thế chấp là các thành viên 
của hộ gia đình có QSDĐ) hoặc là cá nhân 
(chủ doanh nghiệp tư nhân). 
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 
quy định những tài sản đăng ký quyền sở 
hữu chỉ ghi tên vợ hoặc chồng nhưng là 
tài sản chung của vợ chồng thì cả vợ và 
chồng đều đồng sở hữu. Do đó, khi thế chấp 
QSDĐ, chủ thể trong hợp đồng ghi tên cả 
hai vợ chồng nhưng thông tin trên giấy chỉ 
ghi tên có một người. Đây cũng là lý do để 
Văn phòng đăng ký cho rằng các thông tin 
trong hợp đồng thế chấp không trùng khớp 
với thông tin trên giấy chứng nhận.
Giải pháp cho các trường hợp trên 
cần được bổ sung trong nội dung của các 
văn bản pháp luật hiện hành theo hướng: cơ 
quan đăng ký hướng dẫn chủ thể thế chấp 
làm phiếu yêu cầu đính chính thông tin về 
chủ thể đồng thời với thủ tục đăng ký biện 
pháp thế chấp. Điều này còn tạo sự thuận lợi 
cho các chủ thể nếu phải xử lý tài sản thế 
chấp sau này.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 7(383) T4/2019
4. Về đăng ký đồng thời (đăng ký cấp giấy 
chứng nhận và đăng ký thế chấp đối với 
tài sản gắn liền với đất - không phải là 
nhà ở - đã hình thành nhưng chưa được 
cấp giấy chứng nhận)
Loại tài sản gắn liền với đất - không 
phải là nhà ở - đã hình thành nhưng chưa 
được cấp giấy chứng nhận như nhà xưởng, 
khách sạn, nhà tiền chế, nhà kho đông lạnh, 
trạm biến áp, bể bơi, nhà kính trồng hoa 
Đây là những loại tài sản không bắt buộc phải 
có giấy chứng nhận đăng ký sở hữu mới có 
thể là đối tượng trong giao dịch (trong đó có 
giao dịch thế chấp). Do đó, việc ký kết hợp 
đồng những loại tài sản này không đòi hỏi 
phải có giấy chứng nhận sở hữu; khi đăng 
ký thế chấp cũng như dịch chuyển quyền sở 
hữu sau này cũng không cần phải có giấy 
chứng nhận sở hữu. Việc đòi hỏi thiết kế, 
bản vẽ thi công của các công trình xây dựng 
mà không phải là nhà ở cũng chỉ giúp cho 
việc xác định chất lượng công trình, giá cả 
của công trình. Do đó, chúng tôi cho rằng, 
quy định tại Điều 41 NĐ số 102/2017/NĐ-
CP của Chính phủ là không cần thiết đối với 
loại tài sản này.
Bất cập đang cần được tháo gỡ hiện 
nay là: thế chấp nhà ở đã hình thành nhưng 
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở 
hữu (theo quy định của Luật Nhà ở năm 
2015, loại tài sản này phải có giấy chứng 
nhận mới được thế chấp, chuyển nhượng). 
Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều 
nhà đã được xây dựng, đã hình thành nhiều 
năm nhưng chưa được cấp giấy (vì có thể 
khi xây dựng nhà đó chủ nhà không được 
cấp phép nên không đủ điều kiện về hồ sơ 
để cấp giấy chứng nhận sở hữu) trên nền đất 
đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Do đó, 
khi thế chấp cả nhà và đất thì hợp đồng chỉ 
ghi tài sản thế chấp là QSDĐ mà không ghi 
nhà ở trên đất. Điều này khiến cho Nhà nước 
bị thất thu một khoản thuế (vì giá cả ghi 
trong hợp đồng không phản ánh đúng giá trị 
của tài sản chuyển nhượng). Mặt khác, điều 
này còn tiềm ẩn tranh chấp giữa các bên bởi 
có khả năng bên bán kiện ngược lại đòi nhà 
vì nhà không được mô tả trong hợp đồng 
chuyển nhượng giữa các bên.
Những bất cập này xuất phát từ Luật 
Nhà ở - quy định cho nhà ở một chế độ pháp 
lý riêng biệt so với các công trình xây dựng 
khác. Về nguyên lý, nhà ở không bắt buộc 
phải đăng ký sở hữu nhưng khi giao dịch đến 
nhà ở thì phải có giấy chứng nhận sở hữu. 
Do đó, quy định bắt buộc phải có giấy chứng 
nhận sở hữu đối với nhà ở cần được huỷ bỏ 
để thống nhất với quy định của pháp luật đất 
đai và phù hợp với bản chất của quan hệ. 
Việc yêu cầu cấp giấy chứng nhận đối với 
nhà ở chỉ tạo ra các thủ tục hành chính rườm 
rà, cản trở sự lưu thông của các giao dịch 
liên quan đến nhà ở. 
Khoản 2 của Điều 325, khoản 2 của 
Điều 326 BLDS năm 2015 thiết kế giải pháp 
cho trường hợp này là: bên mua tài sản thế 
chấp được quyền tiếp tục kế thừa quyền và 
nghĩa vụ của bên thế chấp trong quan hệ với 
chủ thể còn lại của hợp đồng thuê, mượn, 
góp vốn, hợp tác kinh doanh; chỉ trừ trường 
hợp các bên có thỏa thuận khác. Chúng tôi 
cho rằng, giải pháp được thiết kế nên đi theo 
hướng ngược lại, đó là: chỉ khi nào có sự 
đồng ý của chủ thể còn lại thì bên mua tài 
sản thế chấp mới được thế vị trí của bên thế 
chấp trong hợp đồng đang tồn tại giữa họ vì 
đây chính là một hình thức của chuyển giao 
hợp đồng. Hợp đồng mượn, thuê, góp vốn, 
hợp tác kinh doanh đang tồn tại giữa A và 
B; nay bên mua tài sản thế chấp sẽ thế vị trí 
của A để tiếp tục thực hiện hợp đồng với B 
(nếu tài sản thế chấp là quyền sử dụng của 
A) thì phải có sự đồng ý của B hoặc sẽ thế vị 
trí của B để tiếp tục thực hiện hợp đồng với 
A (nếu tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với 
đất thuộc quyền sở hữu của B) thì phải có 
sự đồng ý của A. Bản chất của quan hệ hợp 
đồng là quan hệ có tính đối nhân - có nghĩa 
sự thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ tất 
yếu ảnh hưởng đến lợi ích của bên có quyền: 
tính cách, khả năng tài chính, trình độ, sự 
thiện cảm là những yếu tố mà chủ thể có 
quyền cân nhắc khi đồng ý về sự thay thế 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 7(383) T4/2019
người có nghĩa vụ mới. Do đó, nếu không có 
sự đồng ý của chủ thể còn lại trong hợp đồng 
thuê, mượn, góp vốn, hợp tác kinh doanh về 
việc chuyển giao hợp đồng cho chủ thể mới 
(người mua tài sản thế chấp) thì không thể 
xử lý được tài sản thế chấp. 
Có thể nói rằng, giải pháp được thiết 
kế trong khoản 2 Điều 325 và khoản 2 Điều 
326 BLDS năm 2015 chỉ phù hợp duy nhất 
với trường hợp: chủ thể có QSDĐ là Nhà 
nước, còn chủ thể của tài sản gắn liền với 
đất là người thuê đất có thời hạn của Nhà 
nước và là người thuê đất trả tiền thuê đất 
hàng năm. Theo đó, khi phải xử lý tài sản 
gắn liền với đất thì chủ thể mua tài sản này 
được tiếp tục thuê đất của Nhà nước cho đến 
hết thời hạn nhưng phải đáp ứng các quy 
trình: (i) sau khi hợp đồng mua bán tài sản 
gắn liền với đất có hiệu lực thì chủ thể có 
QSDĐ (tức bên thế chấp, tức người thuê đất 
của Nhà nước) phải làm văn bản tự nguyện 
trả lại đất thuê; (ii) Nhà nước ra quyết định 
thu hồi đất thuê và sau đó ra quyết định cho 
thuê đối với chủ thể mua tài sản gắn liền với 
đất đối với thời hạn thuê còn lại4. Đối với 
các trường hợp khác như: người có QSDĐ 
là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức khác có 
QSDĐ và cho thuê, góp vốn, hợp tác kinh 
doanh bằng QSDĐ với chủ thể khác và cho 
phép họ được xây dựng nhà ở, công trình 
xây dựng trên đất thì giải pháp này hoàn 
toàn không phù hợp. 
Như vậy, vô hình trung, quy định 
khoản 2 Điều 325 và khoản 2 Điều 326 
4 Khoản 4 Điều 16 Nghị định số 43/2013/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Đất đai năm 2013: Trường hợp diện tích đất thực 
hiện dự án sản xuất, kinh doanh có phần diện tích đất mà người đang sử dụng đất không có quyền chuyển nhượng, cho 
thuê, góp vốn bằng QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai thì chủ đầu tư được phép thỏa thuận mua tài sản gắn 
liền với đất của người đang sử dụng đất, Nhà nước thực hiện thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và cho chủ đầu 
tư thuê đất để thực hiện dự án. Nội dung hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với đất phải thể hiện rõ người bán tài sản 
tự nguyện trả lại đất để Nhà nước thu hồi đất và cho người mua tài sản thuê đất.
5 Khoản c Điều 1 Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT (hiện nay thông tư này đã hết hiệu lực) hướng dẫn Nghị định 
88/2009/NĐ-CP về cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất quy địn-
h:"Trường hợp bên chuyển nhượng, tặng cho là chủ sở hữu tài sản không đồng thời là người sử dụng đất thì phải có văn 
bản của người sử dụng đất đồng ý cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển nhượng, tặng cho tài sản gắn 
liền với đất đã có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện theo quy định 
của pháp luật".
của BLDS năm 2015 đã tước bỏ quyền và 
đã xâm phạm đến lợi ích của chủ thể trong 
một hợp đồng đã được thiết lập và tồn tại 
trước đó. Giải pháp phải có sự đồng ý của 
chủ thể còn lại cũng đã được thiết kế tại 
Thông tư 17/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài 
nguyên và Môi trường5. Theo đó, sự đồng 
ý cho chuyển nhượng, tặng cho tài sản gắn 
liền với đất phải được thể hiện bằng văn bản 
có công chứng hoặc có chứng thực. Đối với 
trường hợp ngược lại, chủ thể của QSDĐ 
chuyển nhượng cho người khác thì có cần 
sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản gắn liền 
với đất hay không thì lại chưa được quy định 
trong Thông tư này cũng như trong quy định 
của pháp luật hiện hành. Theo chúng tôi, 
về nguyên tắc thì khi định đoạt (xử lý tài 
sản thế chấp) trong cả hai trường hợp trên 
đều cần có sự đồng ý của chủ thể còn lại và 
đều cần có sự đồng ý bằng văn bản có công 
chứng. Văn bản chuyển giao hợp đồng thuê, 
góp vốn, hợp tác kinh doanh của ba bên (bên 
thế chấp, bên mua tài sản thế chấp và chủ thể 
đang thực hiện hợp đồng thuê, góp vốn, hợp 
tác kinh doanh với bên thế chấp) là lựa chọn 
an toàn và phù hợp cho bối cảnh này.
Do đó, quy định của Nghị định số 
102/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký 
các biện pháp bảo đảm về hồ sơ đăng ký thế 
chấp nên bổ sung thêm văn bản đồng ý xử lý 
tài sản thế chấp khi chỉ thế chấp QSDĐ mà 
không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc 
ngược lại
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 7(383) T4/2019
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dang_ky_the_chap_tai_san_hinh_thanh_trong_tuong_lai_nhung_va.pdf dang_ky_the_chap_tai_san_hinh_thanh_trong_tuong_lai_nhung_va.pdf