Đăng ký vi bằng tại sở tư pháp - Một trong những thủ tục lập vi bằng của thừa phát lại

Đề xuất một số giải pháp Thứ nhất, theo quy định của Nghị định 135 và Nghị định 61 thì Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để lập vi bằng. Vi bằng do Thừa phát lại lập có giá trị ”chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”, trường hợp có tranh chấp về vi bằng thì “các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, về bản chất, việc lập vi bằng chính là tạo lập chứng cứ. Chỉ có Tòa án mới có quyền ra phán quyết về vi bằng của Thừa phát lại. Do vậy, phải nhìn nhận đúng bản chất của hoạt động lập vi bằng, đảm bảo giá trị chứng cứ của vi bằng, không nên tự giới hạn phạm vi lập vi bằng trái với quy định của Nghị định 135 và Nghị định 61 khi thực hiện thủ tục đăng ký vi bằng của Thừa phát lại tại Sở Tư pháp. Thứ hai, thừa phát lại là người được Nhà nước giao quyền để lập vi bằng tạo lập chứng cứ, Thừa phát lại chịu trách nhiệm về vi bằng mình lập, Văn phòng Thừa phát lại không mong muốn và không yêu cầu Sở Tư pháp phải chia sẻ bất kỳ trách nhiệm gì khi đăng ký vi bằng của Thừa phát lại theo quy định của Nghị định 135 và Nghị định 61. Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật, để đảm bảo tính thống, cũng là tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong quá trình xem xét, đánh giá chứng cứ, cũng như đảm bảo quyền lợi của người yêu cầu lập vi bằng. Tác giả kiến nghị sửa đổi nội dung quy định tại Khoản 5 Điều 26 của Nghị định hiện nay, theo hướng như sau: “Vi bằng được coi là hợp lệ khi được Sở Tư pháp đăng ký và đóng dấu “Đã Đăng ký” lên tất cả bản chính vi bằng”.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đăng ký vi bằng tại sở tư pháp - Một trong những thủ tục lập vi bằng của thừa phát lại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 76 ĐĂNG KÝ VI BẰNG TẠI SỞ TƯ PHÁP - MỘT TRONG NHỮNG THỦ TỤC LẬP VI BẰNG CỦA THỪA PHÁT LẠI Võ Trung Hậu1 Tóm tắt: Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại góp phần quan trọng trong việc giữ vững ổn định, trật tự các hoạt động giao dịch về dân sự, kinh tế, thương mại. Thông qua việc lập vi bằng, các cá nhân, tổ chức trở nên chủ động, tự tin hơn khi tham gia các giao dịch dân sự, xây dựng các chứng cứ có liên quan cũng như làm phong phú nguồn chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình khi phải giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp thương lượng, giải pháp trọng tài hoặc thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Với ý nghĩa như trên, tác giả trao đổi một số vấn đề trong thủ tục lập vi bằng của Thừa phát lại và một số giải pháp hoàn thiện, góp phần trong công tác quản lý nhà nước và hoạt động xã hội. Từ khóa: Tòa án; Thừa phát lại; lập vi bằng; Sở Tư pháp. Ngày nhận bài: 06/3/2017; Ngày hoàn thành biên tập: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 1/6/2017. Abstract: Activity of making statement of facts of bailiff plays an important role in keeping stability, order of civil, economic, commercial transaction. Through making statement of facts, individuals, organizations become more active, confident in taking part in civil transaction, building related evidence as well as diversifying source of evidence to protect their rights and interests when solving disputes by negotiation, arbitration or via hearing activities of the court. With above meaning, the author discusses some issues of making statement of facts and recommendations for finalization contributing to the state management and social activities. Keywords: Court; bailiff; making statement of facts; Provincial Department of Law. Date of receipt: 06/3/2017; Date of revision: 10/5/2017; Date of approval: 1/6/2017 Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại cho thấy hoạt động lập vi bằng là một trong những hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực, có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, vượt qua giá trị đơn thuần là một “bằng chứng” như nhiều người vẫn nghĩ khi đề cập đến vai trò của Thừa phát lại. Vì vậy, việc lập vi bằng đã khẳng định vị trí, vai trò pháp lý và nhận được sự tin tưởng tích cực của người dân qua thời gian thực hiện thí điểm, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và được chính thức áp dụng rộng rãi trong cả nước từ 01/01/2016 trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ cuối năm 2013 đến nay. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí là trái ngược về nội dung quy định của pháp luật hiện hành trong hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại như: Thẩm quyền, thủ tục lập vi bằng của Thừa phát lại; vấn đề đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp đã tạo nên nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại và hoạt động đăng ký vi bằng của Sở Tư pháp mà nguyên nhân trực tiếp chính là từ nội dung các quy định có liên quan đến hoạt động lập vi bằng của pháp luật còn chưa thật sự phù hợp, chưa đồng bộ và việc sửa đổi, bổ sung các quy định này đang là một nhu cầu cần thiết hiện nay. 1. Quy định của pháp luật về việc đăng ký vi bằng Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác“.2 Trước khi “vi bằng” được định nghĩa như nêu trên, đã có nhiều quan điểm về tên gọi và nội hàm của thuật ngữ này. Có quan điểm cho rằng nên sử dụng tên gọi là “vi bằng” vì nó đã từng được sử 1 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Hành chính Luật Đại học Thủ Dầu Một 2 Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP của Chính phủ). Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 77 3 Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được vi bằng, Sở Tư pháp phải vào sổ đăng ký vi bằng Thừa phát lại. 4 Khoản 5 Điều 26 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP) dụng trước đây, với nội hàm là biên bản được lập bởi Thừa phát lại để mô tả, truyền tải sự thật về sự kiện, hành vi xảy ra trong xã hội. Có quan điểm cho rằng nên gọi là “biên bản ghi nhận sự kiện pháp lý” hoặc “công chứng thư” nhằm thể hiện đầy đủ ý nghĩa, mục đích của văn bản. Với quan điểm riêng của mình, tác giả hoàn toàn đồng tình với việc sử dụng tên gọi và nội hàm của “vi bằng” như hiện nay do: Phù hợp với tên gọi và nội hàm của thuật ngữ này, cũng như theo quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc gia đang áp dụng mô hình Thừa phát lại. Trong khi đó, tên gọi “Biên bản ghi nhận sự kiện pháp lý” hay “Công chứng thư” chưa thật sư rõ nghĩa, cũng như chưa toát lên được giá trị của nó, đặc biệt là giá trị chứng cứ như tên gọi vi bằng. Từ định nghĩa về vi bằng và các quy định của pháp luật, vi bằng có những đặc điểm cơ bản, như sau: - Vi bằng là biên bản được lập bởi Thừa phát lại, nó chứa đựng nội dung thể hiện sự ghi nhận, mô tả, phản ánh một cách khách quan, trung thực các sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến. - Vi bằng là biên bản theo mẫu, được lập bởi Thừa phát lại và trực tiếp ký tên vào vi bằng mà không được ủy quyền cho người khác ký thay. - Việc lập vi bằng phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung của vi bằng. - Vi bằng có thể được xem là chứng cứ và có giá trị chứng minh khi đáp ứng đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục lập vi bằng. - Vi bằng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong sự kiện, hành vi được ghi nhận, phản ánh, mô tả trong nội dung vi bằng. Qua các đặc điểm như nêu trên, có thể thấy hoạt động lập vi bằng có nhiều nét tương đồng với hoạt động công chứng, chứng thực của Công chứng viên. Tuy nhiên, khác với hoạt động công chứng, vi bằng không chứng nhận, không bảo đảm tính xác thực về nội dung giao dịch, hợp đồng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên như văn bản công chứng của công chứng của công chứng viên hay văn bản chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và không có giá trị bắt buộc thực hiện. Vi bằng chỉ được coi là hợp lệ khi được đăng ký tại Sở Tư pháp cấp tỉnh3. Đăng ký vi bằng vốn là vấn đề tranh luận dai dẳng từ những ngày đầu thí điểm chế định Thừa phát lại. Có một số luồng quan điểm sau: (1) Bỏ quy định đăng ký vi bằng; (2) Chỉ đăng ký vi bằng về hình thức, Sở tư pháp không kiểm tra nội dung và không có quyền từ chối đăng ký; (3) giữ nguyên như hiện nay. Vấn đề tìm hiểu quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về việc đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp được quy định: “Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được vi bằng, Sở Tư pháp phải vào sổ đăng ký vi bằng Thừa phát lại. Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký nếu phát hiện thấy việc lập vi bằng không đúng thẩm quyền, không thuộc phạm vi lập vi bằng theo quy định tại Điều 25 của Nghị định này; vi bằng không được gửi đúng thời hạn để đăng ký theo quy định tại khoản 4, Điều 26 của Nghị định này. Việc từ chối phải được thông báo ngay bằng văn bản cho Văn phòng Thừa phát lại và người yêu cầu lập vi bằng trong đó nêu rõ lý do từ chối đăng ký. Vi bằng được coi là hợp lệ khi được đăng ký tại Sở Tư pháp”4. Có nghĩa là, vi bằng phải được đăng ký tại Sở Tư pháp với được xem là hợp lệ; Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng khi vi bằng đó có vi phạm về thời hạn gửi vi bằng; về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng của Thừa phát lại nhưng phải nêu rõ lý do và thông báo bằng văn bản. Vậy khi vi bằng có nội dung không đảm bảo theo quy định, Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký hay không hoặc Sở Tư pháp đã đăng ký, nhưng vi bằng bị Tòa án từ chối sử dụng để làm chứng cứ thì hậu quả pháp lý thế nào. Trong trường hợp vi bằng đã giao cho đương sự, nhưng Sở Tư pháp từ chối đăng ký và sau đó Thừa phát lại có điều chỉnh nội dung để đăng ký tại Sở Tư pháp, thì xử lý như thế nào khi nội dung được ghi trong các bản chính của cùng một vi bằng lại có sự khác biệt và đâu là cơ sở, là dấu hiệu để phân biệt vi bằng đã được và chưa được đăng ký là một vấn đề vướng mắc hiện nay. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 78 5 Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19 tháng 9 năm 2014 của Bộ Tư pháp 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật Vấn đề thứ nhất, có được từ chối đăng ký vi bằng khi vi bằng có nội dung chưa phù hợp hay không. Theo quy định hiện hành, Sở Tư pháp chỉ có quyền từ chối đăng ký nếu phát hiện thấy việc lập vi bằng không đúng phạm vi, thẩm quyền; không được gửi đến Sở Tư pháp đúng thời hạn. Nhưng đối với những trường hợp vi bằng có nội dung không thể hiện rõ nội dung sự kiện, hành vi hoặc có cơ sở xác định nội dung ghi nhận trong vi bằng không đảm bảo nguyên tắc khách quan, trung thực thì Sở Tư pháp lại không có quyền từ chối đăng ký vi bằng, do theo hướng dẫn tại Công văn5 ghi rõ: Sở Tư pháp kiểm tra về thẩm quyền, phạm vi và thời hạn gửi đăng ký vi bằng. Như vậy, Sở Tư pháp chỉ được từ chối đăng ký khi vi bằng có vi phạm về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng và thời hạn gửi đăng ký vi bằng. Trong thực tiễn đăng ký vi bằng, có nhiều trường hợp Sở Tư pháp buộc phải đăng ký, dù nội dung vi bằng chưa đảm bảo theo quy định, cụ thể: Với trường hợp Vi bằng số 11/BB-TPL ngày 06 tháng 5 năm 2015 của Văn phòng Thừa phát lại Tiền Giang Về vấn đề ghi nhận xe cuốc có tại địa chỉ ấp 1, xã Thiện Trí, Huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang. Theo đó, Thừa phát lại N.T.T đã lập vi bằng với nội dung: Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 06 tháng 3 năm 2015, tại địa chỉ, xã Thiện Trí, Huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang, Thừa phát lại trực tiếp ghi nhận: Có tồn tại 01 (một) xe cuốc hiệu KOBELCO tại địa chỉ: ấp 1, xã Thiện Trí, Huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang. Thừa phát lại có chụp hình và quay phim để ghi nhận. Thừa phát lại cam kết ghi nhận trung thực, khách quan sự kiện, hành vi nêu trên trong vi bằng này. Qua xem hình ảnh, bằng đĩa kèm theo vi bằng, có 01 xe cuốc hiệu KOBELCO nằm giữa sân rộng, nhưng không biết nơi đó là nơi nào, vì chưa có cơ sở như: Nhà ở có gắn biển số nhà của người có quyền sử dụng bãi đất, có sự liên kết về bối cảnh để chỉ rõ địa danh trong ảnh là địa phương nào hoặc có người làm chứng khẳng định địa danh của địa phương nơi lập vi bằng. Trường hợp này, Sở Tư pháp không thể từ chối đăng ký vi bằng này, vì theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, thì Sở Tư pháp không có quyền từ chối trong trường hợp nội dung được ghi trong vi bằng chưa phản ánh đầy đủ sự kiện, hành vi hoặc tính khách quan, trung thực, cụ thể của sự kiện, hành vi được lập vi bằng chưa được đảm bảo. Nhưng sau khi “buộc phải” đăng ký, thì việc sử dụng vi bằng này như thế nào thì có thể đoán trước được. Quan điểm cá nhân của tác giả, cần phải cho phép Sở Tư pháp từ chối đăng ký những vi bằng có nội dung như vi bằng số 11/BB-TPL này, do: Nội dung vi bằng chưa đảm bảo tính logic; nội dung của sự kiện, hành vi được ghi nhận một cách cụ thể theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 27 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP). Nội dung vi bằng chưa thể hiện căn cứ để xác định chiếc xe KOBELCO được ghi nhận trong vi bằng thuộc sở hữu của ai, hiện trạng như thế nào và cơ sở để xác định nó đang thật sự hiện hữu tại địa điểm chỉ ấp 1, xã Thiện Trí, Huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang vào thời điểm lập vi bằng. Với trường hợp vi bằng số 20/BB-TPL ngày 03 tháng 6 năm 2016 của Văn phòng Thừa phát lại Mỹ Tho Tiền Giang về việc Bà trình bày trước Thừa phát lại và cam kết tự chịu trách nhiệm trước pháp luật những nội dung đã nêu. Theo đó, Thừa phát lại N.T.T đã lập vi bằng với nội dung: Bà T.T.H và những người được bà H thuê di chuyển tài sản ra khỏi nhà tọa lạc tại địa chỉ số: 33/6 đường MT, phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang và yêu cầu Thừa phát lại ghi nhận Bà liệt kê một số loại tài sản như: 03 máy lạnh (không nhìn rõ ký hiệu của máy); 02 tivi (không nhìn rõ ký hiệu của máy); 01 tủ làm mát. Nội dung của sự kiện, hành vi lập vi bằng nêu trên được Thừa phát lại quay phim và chụp hình để ghi nhận. Tuy nhiên, khi xem hình ảnh đính kèm theo vi bằng, thì các hình ảnh này không thể hiện các loại máy như Thừa phát lại đã nêu trong vi bằng. Sau khi Sở Tư pháp đề nghị Thừa phát lại xem xét lại nội dung, vì Thừa phát lại ghi nhận việc đương sự yêu cầu Thừa phát lại chứng kiến đương sự liệt kê một số tài sản được đương sự nêu tên vào vi bằng nhưng không thể hiện việc kiểm đếm được thực hiện tại đâu, để làm gì là chưa đảm bảo tính khách Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 79 quan và vì hình ảnh đính kèm không phù hợp với nội dung vi bằng. Sau khi Thừa phát lại thay đổi hình ảnh kèm theo vi bằng, thì lại có thể nhìn thấy nhãn hiệu của máy, nhưng không biết việc kiểm đếm tài sản được thực hiện tại đâu. Thế nhưng, Sở Tư pháp cũng không thể từ chối đăng ký vi bằng này, dù Thừa phát lại không điều chỉnh nội dung, do: Phải thực hiện đúng hướng dẫn tại Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19 tháng 9 năm 2014 của Bộ Tư pháp. Quan điểm của tác giả, là từ chối đăng ký những vi bằng có nội dung tương tự nội dung đã thể hiện trong vi bằng số 20/BB-TPL này, do có đủ cơ sở để khẳng định: Vi bằng này không đảm bảo tính khách quan theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP). Vấn đề thứ hai, Sở Tư pháp có phải liên đới chịu trách nhiệm với Thừa phát lại về giá trị pháp lý của vi bằng, trong trường hợp vi bằng đã được Sở Tư pháp đăng ký, lại bị cơ quan Tòa án bác bỏ, do có nội dung trái quy định của pháp luật không. Trong giai đoạn hiện nay, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP của Chính phủ) chỉ quy định theo phương pháp loại trừ, tức là trừ những trường hợp theo quy định không được hoặc chưa được lập vi bằng, Thừa phát lại được quyền lập vi bằng những trường hợp còn lại. Tuy nhiên, nội dung quy định những trường hợp này còn chung chung, chưa rõ ràng; lại được hướng dẫn bởi hai văn bản hướng dẫn thực hiện là văn bản hành chính của Bộ Tư pháp. Do đó, vấn đề liên đới trách nhiệm của Sở Tư pháp với Thừa phát lại về giá trị của vi bằng khi cơ quan Tòa án không chấp nhận sử dụng làm chứng cứ, do có nội dung trái pháp luật là chưa phù hợp. Tuy nhiên, khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định hiện nay theo hướng cụ thể hóa, rõ ràng và giao trách nhiệm Sở Tư pháp được quyền kiểm tra nội dung của vi bằng được lập bởi Thừa phát lại là có cơ sở để tổ chức thực hiện. Vấn đề thứ ba, việc giao bản chính vi bằng cho người yêu cầu trước khi đăng ký tại Sở Tư pháp. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, có trường hợp Thừa phát lại thực hiện việc điều chỉnh nội dung vi bằng hoặc hình ảnh, băng đĩa kèm theo vi bằng sau khi tiếp thu ý kiến của Sở Tư pháp. Như vậy, sẽ có sự không trùng khớp về nội dung hoặc hình ảnh kèm theo vi bằng giữa bản được đăng ký tại Sở Tư pháp và bản đã giao cho bên yêu cầu lập vi bằng. Do đó, vấn đề phân biệt bản chính vi bằng được coi là hợp lệ do được đăng ký tại Sở Tư pháp với bản chính ban đầu, đã được giao cho đương sự là không dễ thực hiện và sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá chứng cứ của Tòa án trong quá trình xem xét, đánh giá chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trước khi sử dụng làm chứng cứ. Trong thời gian thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh như: Vĩnh Long, Tiền Giang, Bình Dương, việc đăng ký vi bằng được thực hiện theo hướng: Sau khi lập vi bằng, Thừa phát lại chuyển cả 03 bản chính đến Phòng Bổ trợ tư pháp thuộc Sở Tư pháp để xem xét trước khi quyết định đăng ký hay không đăng ký. Khi phát hiện nội dung hoặc hình ảnh kèm theo vi bằng chưa phù hợp, Sở Tư pháp đề nghị Thừa phát lại xem xét lại để có hướng điều chỉnh. Sau khi xác định nội dung, hình ảnh kèm theo vi bằng là phù hợp với quy định, Sở Tư pháp mới đóng dấu “Đã đăng ký” lên cả 03 bản chính vi bằng, vào sổ đăng ký và giao trả cho Thừa phát lại 02 bản chính. Quan điểm của tác giả cho rằng: Đây là phương pháp thực hiện việc đăng ký vi bằng có thể đảm bảo tính thống nhất giữa các bản chính của một vi bằng và góp phần nâng cao chất lượng, giá trị của vi bằng được lập bởi Thừa phát lại. 3. Đề xuất một số giải pháp Thứ nhất, theo quy định của Nghị định 135 và Nghị định 61 thì Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để lập vi bằng. Vi bằng do Thừa phát lại lập có giá trị ”chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”, trường hợp có tranh chấp về vi bằng thì “các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, về bản chất, việc lập vi bằng chính là tạo lập chứng cứ. Chỉ có Tòa án mới có quyền ra phán quyết về vi bằng của Thừa phát lại. Do vậy, phải nhìn nhận đúng bản chất của hoạt động lập vi bằng, đảm bảo giá trị chứng cứ của vi bằng, không nên tự giới hạn phạm vi lập vi bằng trái với quy định của Nghị định 135 và Nghị định 61 khi thực hiện thủ tục đăng ký vi bằng của Thừa phát lại tại Sở Tư pháp. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 80 Thứ hai, thừa phát lại là người được Nhà nước giao quyền để lập vi bằng tạo lập chứng cứ, Thừa phát lại chịu trách nhiệm về vi bằng mình lập, Văn phòng Thừa phát lại không mong muốn và không yêu cầu Sở Tư pháp phải chia sẻ bất kỳ trách nhiệm gì khi đăng ký vi bằng của Thừa phát lại theo quy định của Nghị định 135 và Nghị định 61. Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật, để đảm bảo tính thống, cũng là tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong quá trình xem xét, đánh giá chứng cứ, cũng như đảm bảo quyền lợi của người yêu cầu lập vi bằng. Tác giả kiến nghị sửa đổi nội dung quy định tại Khoản 5 Điều 26 của Nghị định hiện nay, theo hướng như sau: “Vi bằng được coi là hợp lệ khi được Sở Tư pháp đăng ký và đóng dấu “Đã Đăng ký” lên tất cả bản chính vi bằng”. Kết luận Trên đây là kết quả phân tích một trong những nội dung quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại đó là việc đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp; kết quả đánh giá sự phù hợp của nội dung quy định với thực tiễn áp dụng pháp luật vào các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội và thực tiễn các vi bằng đã được lập bởi Thừa phát lại trong giai đoạn áp dụng rộng rãi trong phạm vi cả nước. Cùng với việc chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đang tiến hành cải cách mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là cải cách tư pháp, hoàn thiện thể chế và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc tổ chức thực hiện rộng rãi chế định Thừa phát lại với nhiều chức năng, trong đó có chức năng lập vi bằng là một chủ trương mang tính đột phá của Đảng và Nhà nước ta./. Tài liệu tham khảo 1. Vi bằng số 11/BB-TPL ngày 06 tháng 5 năm 2015 của Văn phòng Thừa phát lại Tiền Giang Về vấn đề ghi nhận xe cuốc có tại địa chỉ ấp 1, xã Thiện Trí, Huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang. 2. Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19 tháng 9 năm 2014 của Bộ Tư pháp 3. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP). Các quy định về tội danh tham nhũng và các chế tài xử phạt nghiêm minh phải được quy định bằng luật. Thứ hai, trong tiến trình thực thi pháp luật, các biện pháp bảo đảm việc thực thi cần cụ thể hóa nhiệm vụ xét xử, độc lập trong xét xử và loại bỏ các can thiệp vào công tác xét xử. Ở tầm vi mô: Nhà nước cần quyết tâm thực hiện và kiên quyết xử lý tham nhũng. Cụ thể: Một là: Cần quán triệt việc lựa chọn người tham gia vào công tác quản lý của bộ máy công quyền; Hai là: Bổ nhiệm tất cả các chức vụ không quá hai nhiệm kỳ; Ba là: Thực hiện chế độ giám sát đặc biệt trong quản lý nhà nước; Bốn là: Được hưởng chế độ đãi ngộ xứng đáng; Năm là: Tinh giản bộ máy quản lý; Sáu là: Chế tài đủ mạnh khi công chức, viên chức vi phạm, phạm tội; Bảy là: Cơ quan xét xử tội tham nhũng độc lập do trung ương quản lý; Tám là: Thiết lập các cơ quan truyền thông quản lý thông tin kịp thời về phòng chống và xử lý tham nhũng từ trung ương đến địa phương. Nghiên cứu pháp luật về phòng chống và xử lý tham nhũng thời phong kiến trong tiến trình lịch sử Việt Nam cho chúng ta những nhận định chính trị và kế thừa trong xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật. Từ đó có thể đưa ra những bài học kinh nghiệm quý giá để xây dựng nhà nước văn minh hiện đại, xây dựng chính phủ liêm chính, bảo đảm quyền công dân và quyền con người, từng bước hội nhập quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa./. Tài liệu tham khảo 1. Quốc triều Hình luật (1991), bản dịch Viện sử học, Nxb Pháp Lý Hà Nội. 2. Hoàng Việt Luật Lệ (1996) Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 3. Kinh thư (2004), Nxb Văn hóa Thông tin. 4. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1994), Hàn Phi Tử: Pháp trị Ngũ đố, Nxb Văn hóa TT 5. Đại Việt Sử ký Toàn thư (1992), Tập 2, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 6. Phan Huy Chú (1992), Tập 1,2,3 Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội. 7. Minh Mệnh chính yếu (1994), Tập 1, Nxb Thuận Hóa. Quốc triều Hình luật, Những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,(2008) Nxb Tư pháp. PHÒNG CHỐNG VÀ XỬ LÝ THAM NHŨNG TRONG PHÁP LUẬT ... (Tiếp theo trang 64)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdang_ky_vi_bang_tai_so_tu_phap_mot_trong_nhung_thu_tuc_lap_v.pdf
Tài liệu liên quan