Một là, tăng cường việc công nhận
UNCLOS 1982. UNCLOS 1982 là một
công ước tiến bộ, thể hiện sự thỏa hiệp mang
tính toàn cầu có tính đến lợi ích của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Công ước không
chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi phải tham gia
cả gói (package deal) theo nguyên tắc “nhất
trí” (consensus). Nếu phê chuẩn UNCLOS
1982, các quốc gia phải có trách nhiệm ràng
buộc và thực hiện toàn bộ các điều khoản
của Công ước. Việc công nhận rộng rãi
Công ước góp phần đảm bảo hòa bình và
ổn định trên biển. Tuy nhiên, cần nói rằng,
việc công nhận Công ước rộng rãi chưa giải
quyết được tất cả các vấn đề nhưng nó đã
đảm bảo rằng các quốc gia trong khu vực có
căn cứ pháp lý chung và là cơ sở cho hợp tác
khu vực.
Hai là, ký kết các điều ước quốc tế
song phương, đa phương dựa trên nguyên
tắc: công nhận rằng tài nguyên cần được
chia sẻ giữa các quốc gia tại vùng chồng
lấn; tôn trọng quyền khai thác của quốc gia
khác tại vùng chồng lấn không có hợp tác
khai thác chung; các quốc gia có nghĩa vụ
khai thác không gây hại cho tài nguyên cá
tại các khu vực chồng lấn; các quốc gia liên
quan có nghĩa vụ hợp tác một cách thiện chí
và tránh lạm quyền của mình theo Điều 300
UNCLOS 1982.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh bắt cá tại vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng dưới góc nhìn của luật quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH BẮT CÁ TẠI VÙNG BIỂN CHỒNG LẤN GIỮA VIỆT NAM
VÀ CÁC QUỐC GIA LÁNG GIỀNG DƯỚI GÓC NHÌN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Tóm tắt:
Việt Nam với bờ biển trải dài trên 3.260 km từ Bắc tới Nam có vùng
biển đối diện với nhiều quốc gia. Giữa Việt Nam và một số quốc gia
hình thành những chồng lấn về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa và phát sinh tranh chấp về các yêu sách chủ quyền, quyền chủ
quyền. Nhiều vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các nước đang chờ được
phân định như vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia, vùng
nước lịch sử thuộc chế độ nội thủy chung của hai nước Việt Nam và
Campuchia,... Nhằm thu hẹp và tiến đến giải quyết tranh chấp, cơ chế
giải quyết tranh chấp của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển quốc tế
năm 1982 (UNCLOS 1982) có thể được vận dụng. Trước mắt, một giải
pháp tạm thời như thỏa thuận khai thác chung chắc chắn sẽ được đề cập
đến để các quốc gia tạm thời gác tranh chấp hướng tới những lợi ích về
tài nguyên nhằm phát triển kinh tế.
Nguyễn Thị Thu Trang*
Hà Ngọc Hoàng**
* ThS. GV. Khoa Luật Kinh tế, ĐH Kinh tế - Luật.
** Sinh viên Khoa Luật Kinh tế, ĐH Kinh tế - Luật.
Abstract
The coastline of Vietnam is over 3,260 km long from the North to the
South with waters across with several countries. Among the countries,
it has formed an overlapping territorial sea, exclusive economic zones
and continental shelf, and disputes over sovereignty and sovereign rights.
There are overlapping areas among Vietnam and other countries waiting
to be identified such as the exclusive economic zone between Vietnam and
Indonesia, the common domestic regime of Vietnam and Cambodia, etc.
The resolution mechanism for disputes of the United Nations Convention
on the Law of the Sea 1982 (UNCLOS 1982) might be used to narrow the
disputes and then deal with the disputes. A temporary solution such as the
joint exploitation agreement will certainly be addressed so that countries
temporarily cancel disputant towards resource interests for immediate
economic development.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: vùng chồng lấn, hợp tác
nghề cá, khai thác chung
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/02/2019
Biên tập : 26/03/2019
Duyệt bài : 02/04/2019
Article Infomation:
Keywords: Overlapping areas,
fishery cooperation, joint
exploitation
Article History:
Received : 26 Feb. 2019
Edited : 26 Mar. 2019
Approved : 02 Apr. 2019
1. Vùng chồng lấn và thỏa thuận hợp tác
nghề cá dưới góc nhìn luật quốc tế
Vùng biển chồng lấn là khái niệm dùng
để chỉ các vùng biển mà yêu sách của các
quốc gia liên quan chồng lấn lên nhau. Về
nguyên tắc, các yêu sách này đưa ra phải phù
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 15(391) T8/2019
hợp với quy định của UNCLOS 1982. Việc
hoạch định các vùng biển của các quốc gia
hữu quan theo tinh thần của luật pháp quốc
tế vô hình chung đã tạo nên các vùng chồng
lấn. Ví dụ, Biển Đông - nằm ở một vị trí địa lý
đặc biệt quan trọng, là một trong những khu
vực chiến lược quan trọng bậc nhất thế giới,
đường bờ biển của nhiều quốc gia bao bọc
xung quanh. Hiện nay, dựa trên UNCLOS
1982, yêu sách của các quốc gia liên quan về
Biển Đông đã tạo nên nhiều vùng chồng lấn.
Bên cạnh đó, một yêu sách hoặc tất cả các
yêu sách được xem là không phù hợp hoặc
chưa thể xác định có phù hợp với UNCLOS
1982 hay không thì được coi là một vùng
tranh chấp. UNCLOS 1982 không điều chỉnh
những vùng tranh chấp này.
Từ phân tích trên đây, có thể hiểu,
“vùng chồng lấn là một khu vực biển mà
hai hay nhiều quốc gia đều có yêu sách hợp
pháp theo luật pháp quốc tế”.
Vùng chồng lấn thường xuất hiện
giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hoặc
đối diện nhau nhưng khoảng cách giữa bờ
biển các nước này không đủ để mỗi nước
xác lập chiều rộng tối đa cho các vùng biển.
Như vậy, các quốc gia ven biển nằm đối diện
hay kế cận nhau, khi xác định phạm vi các
vùng biển và thềm lục địa theo quy định của
UNCLOS 1982 và tùy theo khoảng cách bờ
biển của các nước nằm đối diện hay kế cận
nhau đã tạo ra vùng nội thủy chồng lấn, vùng
lãnh hải chồng lấn, vùng đặc quyền kinh tế
chồng lấn và vùng thềm lục địa chồng lấn1.
Việc phân định khu vực đánh bắt cá tại
vùng chồng lấn rất quan trọng. Nếu giữa hai
hay nhiều quốc gia có sự phân định rõ ràng
về một khu vực đánh bắt cá riêng biệt thì các
quốc gia đó sẽ không cần thiết lập một khu
1 Trần Hữu Duy Minh (2015) Nghĩa vụ trong vùng chồng lấn theo Điều 83(3) UNCLOS, phán quyết trong vụ phân định
biển giữa Ghana và Cote d’lvoire, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (325), tr. 5.
2 B.H. Oxman (1977), The Third United Nations Conference on the Law of the Sea: The 1976 New York Convention,
A.J.I.L. 71, PP. 261.
3 Đỗ Việt Cường, Nguyễn Quang Minh (2013), Hợp tác nghề cá trong các vùng đang có tranh chấp tại vịnh Thái Lan,
Bài viết nghiên cứu khoa học Học viện Ngoại giao, tr. 48.
vực đánh bắt cá chung. Bởi các quốc gia có
thể cho phép hoặc không cho phép công dân
hay tàu cá nước ngoài đánh bắt trong phạm
vi ranh giới đã được phân định thuộc về quốc
gia đó. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra
tranh chấp về vùng chồng lấn giữa các quốc
gia, hoạt động nghề cá trong khu vực sẽ trở
nên khó khăn, chưa kể vấn đề đánh bắt cá
không chỉ gây ra nhiều tình huống phức tạp
hơn bởi xuất phát từ truyền thống quen đánh
bắt cá tại các khu vực ranh giới đã có từ
hàng thế kỷ trước của các ngư dân dựa theo
những nguyên tắc về tự do biển cả2. Do vậy,
các quốc gia phải cùng bàn bạc để hướng tới
việc thiết lập một vùng đánh cá chung theo
một trong hai phương pháp sau : (i) Vùng
Trắng không cần có một sự quản lý nghiêm
ngặt nào đối với nguồn tài nguyên cá trong
khu vực; hoặc (ii) Vùng Xám phải có một
sự kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt mọi hoạt
động đánh bắt cá trong khu vực đó3.
Thỏa thuận hợp tác khai thác chung
giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Vịnh Bắc
Bộ có thể xem là một Vùng Xám điển hình
bởi đi kèm với đó là cơ chế kiểm soát số
lượng tàu được phép đánh bắt của cả hai bên.
Mặt khác, Hiệp định về Vùng nước lịch sử
giữa Việt Nam và Campuchia có quy định
về hoạt động đánh bắt cá là một Vùng Trắng
đúng nghĩa dựa trên đường ranh giới de facto.
2. Khung pháp lý về nghề cá tại các vùng
biển đang có tranh chấp theo Công ước về
Luật Biển năm 1982
Do sự không hoàn chỉnh của hệ thống
các điều ước quốc tế về đánh cá trên phạm vi
toàn cầu, khu vực, song phương đã nảy sinh
những vấn đề liên quan đến việc đánh bắt cá,
đặc biệt ở các khu vực chồng lấn, khi mà các
quốc gia vẫn chưa đưa ra được một cam kết
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 15(391) T8/2019
cuối cùng cho những tranh chấp vốn dĩ đã
dai dẳng nhiều thập kỷ. Bên cạnh đó còn đặt
ra vấn đề cho các quốc gia trong việc cùng
nhau hợp tác để bảo vệ tài nguyên sinh vật
biển, an ninh trên biển góp phần làm xoa dịu
những tranh chấp tiềm tàng giữa các quốc
gia khi chưa đưa ra được tiếng nói chung
cũng như góp phần bảo vệ môi trường sinh
thái trong bối cảnh suy giảm tài nguyên cá
và ô nhiễm môi trường.
Đối với vấn đề hợp tác nghề cá tại
các khu vực biển đang có tranh chấp thì
UNCLOS 1982 chưa đưa ra được quy định
cụ thể nào. Khoản 3 Điều 74 UNCLOS 1982
chỉ đề cập đến nghĩa vụ hợp tác của các quốc
gia đang trong giai đoạn chờ một thỏa thuận
phân định cuối cùng tại các khu vực chồng
lấn trong vùng đặc quyền kinh tế. Bởi vậy,
trong các vùng đặc quyền kinh tế đang có
tranh chấp, hợp tác nghề cá theo UNCLOS
là một nghĩa vụ quan trọng đối với các
quốc gia. Khoản 3 Điều 74 UNCLOS 1982
quy định: Trong khi chờ ký kết thỏa thuận
ở khoản 14 (phân định ranh giới vùng đặc
quyền kinh tế), các quốc gia hữu quan trên
tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức
mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính
chất thực tiễn và không phương hại hay cản
trở việc ký kết các thỏa thuận cuối cùng trong
giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời
không phương hại đến kết quả phân định
cuối cùng. Như vậy, Điều 74 đã đặt ra hai
nghĩa vụ chính cho các quốc gia liên quan
khi có vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn là:
(i) Nghĩa vụ làm hết sức mình để đi đến các
dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn; (ii)
Nghĩa vụ làm hết sức mình để không gây
phương hại hoặc cản trở việc ký kết các thỏa
4 Khoản 3 Điều 83 Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.
5 Xem Hiệp định Maritime Delimitation Treaty between Jamaica and the Republic of Colombia ký kết ngày 12/11/1993.
6 Thỏa thuận hợp tác nghề cá giữa Hàn Quốc và Trung Quốc, ký kết ngày 03/8/2000 (có hiệu lực từ ngày 30/7/2001);
Sun Pyo Kim (2004), Maritime Delimitation and Interim Agreements in North East Asia, Martinus Nijhoff Publishers,
The Netherlands, PP.347.
7 Xem Agreement between the Government of the Kingdom of Thailand and the Government of Malaysia on the
Constitution and Other Matters relating to the Establishment of the Malaysia-Thailand Joint Authority, ký kết ngày
30/5/1990.
thuận cuối cùng. Ngoài hai nghĩa vụ trên,
khoản 3 Điều 74 UNCLOS 1982 không
đưa ra một loại dàn xếp tạm thời cụ thể nào
mà thay vào đó nó để ngỏ cho các quốc gia
hữu quan quyết định. Trên thực tế, các dàn
xếp tạm thời có thể bao gồm: (i) thỏa thuận
tạm ngừng tất cả mọi hoạt động trong vùng
chồng lấn5; (ii) phát triển chung hoặc hợp
tác nghề cá6; (iii) thỏa thuận hợp tác về môi
trường; và (iv) thỏa thuận về quyền xét xử
hình sự và dân sự7 v.v..
Một loại tranh chấp điển hình khác là
vấn đề tài nguyên cá ở những khu vực biển
tranh chấp giữa các quốc gia ven biển tiếp
giáp hoặc đối diện khi các quốc gia này thiết
lập các khu vực đặc quyền kinh tế hay khu
vực đặc quyền đánh cá theo UNCLOS 1982.
Loại tranh chấp này chính là hệ quả của
tranh chấp các vùng biển chưa được phân
định. Nguyên nhân cơ bản của các tranh
chấp này là những hoạt động đánh bắt quá
mức của một quốc gia ở khu vực nằm dưới
quyền tài phán của quốc gia đó hoặc khu
vực mà quốc gia đó có quyền tự do đánh bắt
cá mang lại nhưng tác động bất lợi đối với
nguồn tài nguyên cá hoặc lợi ích về cá của
quốc gia khác. Ngoài ra, trong quá trình khai
thác, công dân của các quốc gia đã sử dụng
các biện pháp đánh bắt gây tổn hại và ảnh
hưởng xấu đến môi trường biển và hệ sinh
thái. Tác động trên ảnh hưởng đến mức làm
ảnh hưởng đến khả năng tái sinh sản của các
loài cá, sự đánh bắt tràn lan thiếu kiểm soát
đã dẫn đến sự tuyệt chủng của một số loài cá
nói riêng và sinh vật biển nói chung. Sự cạn
kiệt này đồng nghĩa với việc loại bỏ cơ hội
đánh bắt và lợi ích thu được từ các loài cá đó
của quốc gia khác.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 15(391) T8/2019
3. Thực trạng đánh bắt cá tại các vùng
biển chồng lấn giữa Việt Nam và các nước
Theo ước tính, kinh tế biển của chúng
ta đóng góp khoảng 47 - 48% GDP8, trong
số này các ngành chủ lực đóng góp lớn là
dầu khí 64%, hải sản 14%, vận tải biển
và dịch vụ biển 11%, du lịch biển khoảng
9%9. Về nguồn lợi hải sản, Việt Nam có mặt
trong danh sách 10 trung tâm đa dạng sinh
học biển và danh sách 20 vùng biển có lợi
ích kinh tế lớn nhất toàn cầu do hải sản đem
lại. Đến nay, ở vùng biển Việt Nam đã phát
hiện được chừng 12.000 loài sinh vật với
trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài
cá có giá trị kinh tế; trữ lượng cá biển của
toàn vùng khoảng 4,2 triệu tấn; sản lượng
cho phép khai thác chừng 1,7 triệu tấn/năm,
bao gồm 850 nghìn tấn cá đáy, 700 nghìn tấn
cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương10.
Với nguồn tài nguyên có trữ lượng lớn, giá
trị kinh tế cao nên sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình đàm phán phân định biển, hay
nói đúng hơn quá trình phân định biển theo
một cách công bằng khó đạt được do yêu
sách của các quốc gia liên quan là rất lớn,
khả năng nhượng bộ gần như là không cao.
Biểu hiện cụ thể:
Bản ghi nhớ về khai thác chung giữa
Việt Nam và Malaysia mới chỉ dừng lại ở
việc điều chỉnh hoạt động thăm dò và khai
thác dầu khí chung giữa các nước tại khu
vực chồng lấn thềm lục địa, chứ không hề đề
cập đến hoạt động nghề cá.
Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa
Việt Nam và Campuchia quy định khá sơ sài
về hoạt động đánh bắt cá: “việc đánh bắt hải
sản của nhân dân địa phương trong vùng này
8 Xem Nguyễn Ngọc Tuấn (2016), “Phát triển kinh tế biển ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí
Tài chính, kỳ 2 tháng 2/2016 đăng tại website: truy
cập ngày 4/7/2018.
9 Xem Vũ Văn Phái (2008), Biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lại, Kỷ yếu hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần 3 (Tiểu ban kinh tế Việt Nam), tr. 171.
10 Hà Thanh Biên (2017), “Phát triển kinh tế biển bền vững: Tiềm năng, thách thức và định hướng”, Bản tin chính sách
Tài nguyên – Môi trường – Phát triển bền vững, (25), tr.5.
11 Xem Điều 3, Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia năm 1979.
vẫn tiếp tục theo tập quán làm ăn từ trước
tới nay”11. Quy định này thể hiện mục đích
chính mà Hiệp định hướng không phải là
phát triển chung hay hợp tác nghề cá.
Việt Nam và Indonesia cũng mới chỉ
cam kết việc phân định thềm lục địa cũng
như các thỏa thuận về hợp tác dầu khí đối
với các mỏ dầu nằm trên đường phân định
giữa hai quốc gia. Vấn đề phân định vùng
đặc quyền kinh tế vẫn còn bỏ ngỏ. Bên cạnh
đó, Việt Nam và Indonesia vẫn chưa có thỏa
thuận khai thác chung trên vùng đặc quyền
kinh tế chồng lấn.
Đối với khu vực hợp tác khai thác
chung của Việt Nam và Trung Quốc, theo
báo cáo của Ủy ban Liên hợp Nghề cá Vịnh
Bắc Bộ của Việt Nam và Hiệp định Hợp tác
Nghề cá, hai bên thiết lập một vùng đánh
cá chung rộng 33.500km2, có phạm vi từ vĩ
tuyến 20 xuống đến đường đóng cửa Vịnh,
cách đường phân định 30,5 hải lý về mỗi
phía. Thời hạn của Vùng đánh cá chung là
15 năm (12 năm chính thức và 3 năm gia
hạn) và việc đánh cá chung được thực hiện
theo các nguyên tắc: mỗi bên có quyền kiểm
tra, kiểm soát khu vực đánh cá chung thuộc
vùng đặc quyền kinh tế của mình. Số tàu
thuyền của mỗi bên được phép vào khu vực
đánh cá chung của phía bên kia là tương
đương nhau. Muốn vào đánh bắt, khai thác
tại khu vực này tàu cá phải được cấp phép
khi đạt chuẩn công suất, mã lực theo quy
định, đảm bảo các cam kết về bảo vệ môi
trường biển v.v.. Tuy nhiên, tình trạng tàu
cá không được cấp phép vào khu vực này để
khai thác bất hợp pháp vẫn còn diễn ra.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 15(391) T8/2019
Thực trạng đánh bắt cá bất hợp pháp tại
các khu vực vùng đặc quyền kinh tế chồng
lấn diễn ra nhiều bởi các ngư dân không nắm
được các quy định của pháp luật quốc tế về
nghề cá. Việc mất đi quá nhiều lợi ích so với
trước đây khiến họ tiếp tục liều lĩnh đánh bắt
cá tại các vùng biển đã quen thuộc từ trước.
Vấn đề đánh cá bất hợp pháp dẫn đến nhiều
căng thẳng chính trị giữa các nước có liên
quan và đã trở thành một hiểm họa an ninh
phi truyền thống12, thậm chí có lúc đã dẫn
đến đụng độ nổ súng trên biển. Đây là những
nguyên nhân cơ bản làm cho hoạt động đánh
cá bất hợp pháp diễn ra ngày càng gia tăng
về số vụ, tính chất, vì thế cũng càng phức
tạp hơn khi các quốc gia hữu quan chưa đưa
ra được tiếng nói chung trong vấn đề phân
định, hợp tác khai thác cũng như quản lý,
đảm bảo an ninh trật tự.
Đối với các vùng biển chồng lấn,
chưa được phân định thì các quốc gia cần
thỏa thuận để thống nhất giải pháp tạm thời
để chờ đợi một sự phân định cuối cùng là
khai thác chung. Cho đến nay, Việt Nam và
Indonesia chưa có thỏa thuận nào về giải
pháp này nên đã dẫn đến việc bắt giữ tàu cá.
Tuy nhiên, về nguyên tắc, trên các vùng biển
chồng lấn thì các bên liên quan đều có quyền
khai thác tài nguyên biển, trong đó có hoạt
động đánh bắt hải sản của ngư dân. Như vậy,
ngay cả trong trường hợp ngư dân Việt Nam
đánh bắt trên vùng đặc quyền kinh tế chồng
lấn chưa phân định giữa hai nước thì lực
lượng tuần duyên của Indonesia cũng không
có quyền bắt giữ, điều tra, truy tố và xét xử
đối với ngư dân Việt Nam. Từ những phân
tích ở trên, việc các cơ quan có thẩm quyền
12 N. Ganesan (2001), Illegal fishing and illegal migration in Thailand'sbilateral relations with Malaysia and Myanmar,
Non-Traditional Security Issues inSoutheast Asia, ed. A.T.H. Tan and J.D.K Boutin (Singapore: Institute of Defenceand
Strategic Studies), PP. 507-528.
13 Ngô Hữu Phước (2017), Bắt ngư dân trong vùng biển chồng lấn là trái luật quốc tế, Báo Tuổi trẻ Online, truy
cập ngày 7/7/2018 tại website https://tuoitre.vn/bat-ngu-dan-trong-vung-bien-chong-lan-la-trai-luat-quoc-
te-20171216150449446.htm .
14 Khoản 2 Điều 73 Công ước của Liên hiệp quốc tế về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
của Indonesia bắt giữ, điều tra, truy tố và xét
xử công dân Việt Nam khi họ đang đánh bắt
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
và kể cả trong vùng đặc quyền kinh tế chồng
lấn giữa hai nước chưa được phân định là
trái với UNCLOS 1982 và thỏa thuận của
lãnh đạo hai nước13.
Điều 73 của UNCLOS 1982 quy định:
“trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ
quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và
quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng
đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có
thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả
việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố
tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật
và quy định mà mình đã ban hành theo đúng
Công ước” nhưng, “các chế tài do quốc gia
ven biển trù định đối với những vụ vi phạm
các luật và quy định về mặt đánh bắt trong
vùng đặc quyền về kinh tế không được bao
gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc
gia hữu quan có thỏa thuận khác, và không
bao gồm một hình phạt thân thể nào khác”.
Trong trường hợp “khi có một sự bảo lãnh
hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả
ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho
đoàn thủy thủ của chiếc tàu này”14. Luật pháp
quốc tế dường như không hỗ trợ Indonesia
đánh chìm tàu cá nước ngoài nếu đánh bắt
bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế,
cũng như các vùng biển mà các bên chưa
đưa ra được cam kết cuối cùng cho việc
phân định. Chính sách đánh chìm tàu cá láng
giềng có thể là một cách tốt với Indonesia để
tạo ra hiệu ứng răn đe, nhưng thủ tục pháp lý
ở cả cấp độ quốc gia cũng như quốc tế cần
phải được tôn trọng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 15(391) T8/2019
4. Những giải pháp cho các quốc gia có
vùng biển chồng lấn nhằm mục đích khai
thác hiệu quả tài nguyên cá
Các tranh chấp quốc tế về đánh cá và
sự suy giảm tài nguyên cá trên biển có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Các tranh chấp
quốc tế về đánh cá gián tiếp góp phần làm
suy giảm tài nguyên cá, đặc biệt là sự suy
giảm của các loài cá di cư cũng góp phần
làm tăng khả năng dẫn đến các tranh chấp
tiềm tàng về đánh cá, nhất là ở các khu vực
chưa được phân định.
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, cần
thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tăng cường việc công nhận
UNCLOS 1982. UNCLOS 1982 là một
công ước tiến bộ, thể hiện sự thỏa hiệp mang
tính toàn cầu có tính đến lợi ích của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Công ước không
chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi phải tham gia
cả gói (package deal) theo nguyên tắc “nhất
trí” (consensus). Nếu phê chuẩn UNCLOS
1982, các quốc gia phải có trách nhiệm ràng
buộc và thực hiện toàn bộ các điều khoản
của Công ước. Việc công nhận rộng rãi
Công ước góp phần đảm bảo hòa bình và
ổn định trên biển. Tuy nhiên, cần nói rằng,
việc công nhận Công ước rộng rãi chưa giải
quyết được tất cả các vấn đề nhưng nó đã
đảm bảo rằng các quốc gia trong khu vực có
căn cứ pháp lý chung và là cơ sở cho hợp tác
khu vực.
Hai là, ký kết các điều ước quốc tế
song phương, đa phương dựa trên nguyên
tắc: công nhận rằng tài nguyên cần được
chia sẻ giữa các quốc gia tại vùng chồng
lấn; tôn trọng quyền khai thác của quốc gia
khác tại vùng chồng lấn không có hợp tác
khai thác chung; các quốc gia có nghĩa vụ
khai thác không gây hại cho tài nguyên cá
tại các khu vực chồng lấn; các quốc gia liên
15 Alberto Szekely (1986), Ministry of Foreign Affairs Mexico city, Mexico, Tuna in the Eastern Tropical Pacific, Clingan,
PP. 179 - 180.
quan có nghĩa vụ hợp tác một cách thiện chí
và tránh lạm quyền của mình theo Điều 300
UNCLOS 1982.
Ba là, khuyến khích thủ tục thả nhanh
thuyền viên và tàu cá bị bắt. Việc chấp nhận
thủ tục thả nhanh những tàu cá này được
xem là động thái tích cực có vai trò nhất định
trong việc ngăn chặn các tranh chấp về đánh
cá. Sự căng thẳng giữa các quốc gia trong
thời điểm gần đây được cho là xuất phát từ
việc đánh chìm và bắt giữ công dân của các
quốc gia láng giềng khi công dân của họ
hoạt động tại khu vực được cho là chồng lấn
chưa được phân định hay thỏa thuận hợp tác
cùng khai thác. Việc thả nhanh tàu cá giúp
phần nào giảm bớt được căng thẳng tại khu
vực. Thủ tục này chỉ có thể được tiến hành
trên nguyên tắc có đi có lại15.
Bốn là, xây dựng định chế có cấu trúc
hoàn chỉnh nhằm quản lý về khai thác, bảo
tồn tài nguyên cá nói riêng và tài nguyên
sinh vật biển nói chung. Một khu vực nên
bao gồm hai loại định chế ở phạm vi quốc
gia và phạm vi khu vực với chức năng khác
nhau. Định chế khu vực sẽ chịu trách nhiệm
phối hợp với các quốc gia thành viên hình
thành nên chính sách chung về đánh cá ở
phạm vi khu vực, tiến hành tạo nên các tiêu
chuẩn riêng, đưa ra các khuyến nghị về bảo
tồn tài nguyên cá đặc biệt là tại khu vực
chồng lấn giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia
thành viên có trách nhiệm thành lập một cơ
quan quốc gia với chức năng là cầu nối giữa
định chế khu vực và chính phủ của quốc gia
đó. Ben cạnh đó, cơ quan này nên được trao
chức năng phối hợp hoạt động với các cơ
quan liên quan trong vấn đề thực hiện các
cam kết quốc tế khu vực và toàn cầu.
Năm là, khai thác chung ra đời như
một giải pháp hữu hiệu để dàn xếp tạm thời
các tranh chấp trong phân định ranh giới
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 15(391) T8/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agreement between the Government of the Kingdom of Thailand and the Government of Malaysia on
the Constitution and Other Matters relating to the Establishment of the Malaysia-Thailand Joint Authority, ký
kết ngày 30/5/1990.
2. Hà Thanh Biên (2017), “Phát triển kinh tế biển bền vững: Tiềm năng, thách thức và định hướng”, Bản tin
chính sách Tài nguyên – Môi trường – Phát triển bền vững, (25).
3. Báo cáo của Hội nghề cá Thành phố Rạch Giá ngày 20/4/2017 về “Tàu cá của ngư dân bị tàu có vũ trang
của Indonesia bắt giữ khi đang đánh bắt hải sản trong vùng biển Việt Nam”.
4. Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.
5. Đỗ Việt Cường, Nguyễn Quang Minh (2013), “Hợp tác nghề cá trong các vùng đang có tranh chấp tại
vịnh Thái Lan”, Bài viết nghiên cứu khoa học Học viện Ngoại giao.
6. N. Ganesan (2001), Illegal fishing and illegal migration in Thailand'sbilateral relations with Malaysia
and Myanmar, Non-Traditional Security Issues inSoutheast Asia, ed. A.T.H. Tan and J.D.K Boutin (Singapore:
Institute of Defenceand Strategic Studies).
7. Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia năm 1979.
8. Fishery Law in Indonesia No.45, 2009 (Amendment to law No.31, 2004).
9. Sun Pyo Kim (2004), Maritime Delimitation and Interim Agreements in North East Asia, Martinus
Nijhoff Publishers, The Netherlands.
10. Trần Hữu Duy Minh (2015) “Nghĩa vụ trong vùng chồng lấn theo Điều 83(3) UNCLOS, phán quyết
trong vụ phân định biển giữa Ghana và Cote d’lvoire”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5(325).
11. Maritime Delimitation Treaty between Jamaica and the Republic of Colombia ký kết ngày 12/11/1993.
12. B.H. Oxman (1977), “The Third United Nations Conference on the Law of the Sea: The 1976 New York
Convention”, A.J.I.L. 71.
13. Vũ Văn Phái (2008), “Biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lại”, Kỷ
yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3 (Tiểu ban kinh tế Việt Nam).
14. Ngô Hữu Phước (2017), “Bắt ngư dân trong vùng biển chồng lấn là trái luật quốc tế”, Báo Tuổi trẻ
Online, truy cập lần cuối lúc 7/7/2018 tại website https://tuoitre.vn/bat-ngu-dan-trong-vung-bien-chong-lan-la-
trai-luat-quoc-te-20171216150449446.htm.
15. Alberto Szekely (1986), Ministry of Foreign Affairs Mexico city, Mexico, Tuna in the Eastern Tropical
Pacific, Clingan.
16. Thỏa thuận hợp tác nghề cá giữa Hàn Quốc và Trung Quốc, ký kết ngày 03/8/2000 (có hiệu lực từ ngày
30/7/2001).
17. Nguyễn Ngọc Tuấn (2016), “Phát triển kinh tế biển ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”, Tạp chí tài chính, Kỳ 2 tháng 2/2016 đăng tại website:
trao-doi-binh-luan/ truy cập lần cuối 4/7/2018.
trên biển cũng như tạo ra cơ hội cho các
quốc gia cùng nhau thăm dò và khai thác
các nguồn tài nguyên. Tuy nhiên, các quốc
gia cần nhận thức được rằng đây chỉ là một
giải pháp mang tính tạm thời. Trong dài hạn,
nhằm tránh xảy ra xung đột hay thực hiện tốt
công tác quản lý đối với hoạt động khai thác
nguồn lợi thủy sản, an ninh trên biển, các
quốc gia hữu quan cần đi đến một sự phân
định cuối cùng cho vùng chồng lấn.
Sáu là, ký kết các điều ước quốc tế về
phân định vùng chồng lấn. Đây là một giải
pháp tối ưu nhất để giải quyết các vấn đề
phát sinh tại vùng chồng lấn và hầu như các
quốc gia đều muốn hướng tới để an tâm khai
thác các nguồn lợi từ biển cũng như thuận
tiện hơn cho công tác quản lý
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 15(391) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_bat_ca_tai_vung_bien_chong_lan_giua_viet_nam_va_cac_quo.pdf