Các ngưỡng cảm nhận trực tràng (FS, ND, MTV) của
các đối tượng nghiên cứu có giá trị trung vị lần lượt là 30,
70 và 120 (ml) ở nữ, và 30, 85 và 140 (ml) ở nam, không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới. Ngưỡng
dung nạp tối đa ở nhóm có triệu chứng táo bón đơn thuần
(155 ml) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tiêu chảy
đơn thuần (120 ml). Một số nghiên cứu đã ghi nhận sự tăng
ngưỡng cảm nhận trực tràng gặp tỷ lệ cao ở nhóm bệnh nhân
có táo bón mạn tính (16-68%), và nhóm hội chứng ruột kích
thích táo bón ưu thế (17%) [15, 16].
Trong 68 bệnh nhân được đánh giá phản xạ rặn trên đo
HRAM, 77,9% bệnh nhân được ghi nhận có rối loạn đồng
vận phản xạ rặn, trong đó type I chiếm tỷ lệ 45,6%. Không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ các triệu chứng
lâm sàng, chiều dài ống hậu môn, các giá trị áp lực cơ thắt
hậu môn và các ngưỡng cảm nhận trực tràng giữa hai nhóm
phản xạ rặn bình thường và nhóm có rối loạn đồng vận.
Trong nghiên cứu trước đây của T. Yu và cs (2017) [17],
Y. Zhao và cs (2019) [12], type I cũng là rối loạn đồng vận
thường gặp nhất. Tỷ lệ cao bệnh nhân có rối loạn đồng vận
trên đo HRAM trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Videlock và cs (2013) [18],
Y. Zhao và cs (2019) [12], với tỷ lệ rối loạn đồng vận ở
đối tượng táo bón mạn tính là 47,7-73,2%, tỷ lệ này trong
nghiên cứu của Grossi và cs (2016) [19] ở đối tượng táo
bón chức năng là 93,7% và ở nhóm chứng khỏe mạnh là
86,1%. Mặc dù HRAM là phương pháp rất hữu ích trong
việc dễ dàng quan sát và phân loại được các phân nhóm rối
loạn đồng vận phản xạ rặn khác nhau, tuy nhiên trong một
nghiên cứu áp dụng kỹ thuật HRAM trên nhóm đối tượng
có táo bón chức năng và nhóm chứng khỏe mạnh thì tỷ lệ rối
loạn đồng vận chung giữa hai nhóm không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê [19]. Do đó, để tiếp cận và đánh giá sự
phối hợp hậu môn - trực tràng trong phản xạ rặn hiệu quả,
việc kết hợp HRAM với các kỹ thuật thăm dò chẩn đoán
khác là rất cần thiết
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá áp lực cơ thắt hậu môn, ngưỡng cảm nhận trực tràng và phản xạ rặn ở những bệnh nhân có rối loạn về đại tiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2062(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề
Rối loạn thói quen đại tiện và tính chất phân là một trong
những biểu hiện lâm sàng thường gặp của người bệnh đến
khám tại chuyên khoa tiêu hóa, bao gồm các triệu chứng
như táo bón, tiêu chảy, són phân, phân nhầy, phân sống
Các rối loạn này ở tần suất thường xuyên, kéo dài hoặc
mức độ nặng có thể ảnh hưởng đến đời sống tâm sinh lý và
chất lượng cuộc sống của người bệnh [1, 2]. Khi tiếp cận
nhóm đối tượng này cần tìm các triệu chứng báo động và
loại trừ tổn thương thực thể. Nội soi đại trực tràng toàn bộ
là một trong những thăm dò phổ biến trong thực hành lâm
sàng trên những bệnh nhân có rối loạn thói quen đại tiện,
rối loạn phân dai dẳng. Bên cạnh đó, hiện nay trên thế giới
ngày càng có nhiều phương pháp thăm dò chức năng hậu
môn - trực tràng được phát triển và ứng dụng, như chụp
X-quang baryt hay cộng hưởng từ động học quá trình tống
phân (defecography), test sổ bóng (balloon expulsive test),
điện cơ vùng cơ thắt hậu môn hay đo áp lực hậu môn - trực
tràng... HRAM là kỹ thuật đánh giá khả năng co bóp, phối
hợp trong các phản xạ của nhóm cơ thắt hậu môn trong và
ngoài cũng như các ngưỡng cảm nhận của vùng trực tràng
thông qua catheter có các thụ cảm áp lực được đặt trực tiếp
vào ống hậu môn. Một số nghiên cứu trước đây tại Việt Nam
đã áp dụng phương pháp đo truyền thống sử dụng catheter
có 6 thụ thể áp lực để đánh giá một số rối loạn chức năng
và bệnh lý thần kinh tại hậu môn - trực tràng trên đối tượng
ở trẻ em. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào sử dụng
phương pháp đo HRAM trên đối tượng người trưởng thành
có các triệu chứng rối loạn thói quen đại tiện và rối loạn
phân kéo dài. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
nhằm đánh giá áp lực cơ thắt hậu môn, các ngưỡng cảm
nhận trực tràng và phản xạ rặn bằng kỹ thuật HRAM trên
những bệnh nhân có các rối loạn về thói quen đại tiện và
tính chất phân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
Có 73 bệnh nhân được thu tuyển vào nghiên cứu với các
tiêu chuẩn lựa chọn: từ 18 tuổi trở lên; có các triệu chứng rối
loạn thói quen đại tiện và tính chất phân bao gồm táo bón,
tiêu chảy, phân sống, phân nhầy/nát, són phân và được tiến
hành kỹ thuật HRAM từ tháng 7/2018 đến tháng 7/2019 tại
Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật. Nghiên cứu
Đánh giá áp lực cơ thắt hậu môn, ngưỡng cảm nhận trực tràng
và phản xạ rặn ở những bệnh nhân có rối loạn về đại tiện
Đào Việt Hằng1, 2, 3*, Lưu Thị Minh Huế1, Đào Văn Long1, 2, 3
1Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
3Trường Đại học Y Hà Nội
Ngày nhận bài 2/7/2020; ngày chuyển phản biện 6/7/2020; ngày nhận phản biện 3/8/2020; ngày chấp nhận đăng 18/8/2020
Tóm tắt:
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá áp lực cơ thắt hậu môn, các ngưỡng cảm nhận trực tràng và phản xạ rặn bằng
kỹ thuật đo áp lực hậu môn - trực tràng độ phân giải cao (HRAM) trên những bệnh nhân có các rối loạn về đại
tiện. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu hồi cứu trên 73 đối tượng ≥18 tuổi có rối loạn thói quen, phản xạ đại
tiện, rối loạn tính chất phân được tiến hành kỹ thuật HRAM từ tháng 7/2018 đến tháng 7/2019. Kết quả: đối tượng
nghiên cứu bao gồm 28 nam và 45 nữ, tuổi trung bình là 46,2±15,5. Các triệu chứng liên quan đến rối loạn thói quen
đại tiện chiếm 74%, rối loạn tính chất phân chiếm 26%, són phân chiếm 9,6%. Áp lực cơ thắt hậu môn cả khi nghỉ
cao hơn ở nam giới, và tương quan nghịch với tuổi. Không có sự khác biệt về các ngưỡng cảm nhận trực tràng giữa
hai giới. 77,9% bệnh nhân có rối loạn đồng vận phản xạ rặn, trong đó phổ biến nhất là type I (45,6%). Không có sự
khác biệt về các giá trị trên đo HRAM giữa hai nhóm có phản xạ rặn bình thường và rối loạn đồng vận. Kết luận:
tuổi có liên quan đến áp lực cơ thắt hậu môn; rối loạn đồng vận phản xạ rặn có tỷ lệ cao, trong đó type I chiếm đa số.
Từ khóa: cơ thắt hậu môn, đo áp lực hậu môn - trực tràng độ phân giải cao (HRAM), rối loạn đại tiện.
Chỉ số phân loại: 3.2
* Tác giả liên hệ: Email: hangdao.fsh@gmail.com
2162(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
loại trừ các trường hợp bệnh nhân có khối u và/hoặc polyp
vùng hậu môn - trực tràng, nứt kẽ hậu môn, bệnh nhân có
các tổn thương đang chảy máu, trĩ nội độ IV, trĩ ngoại, trĩ
đang có biến chứng kèm theo, các bệnh nhân giảm thính
lực, có các rối loạn về tâm thần kinh, không hợp tác trong
quá trình thực hiện kỹ thuật.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thu thập các thông tin về triệu chứng lâm
sàng, kết quả nội soi đại trực tràng và kết quả đo HRAM
của người bệnh.
Tiến hành kỹ thuật: kỹ thuật sử dụng hệ thống máy MMS
với catheter bơm nước (water-perfused) 20 kênh. Quy trình
kỹ thuật đo HRAM được thực hiện theo hướng dẫn của Hội
Sinh lý hậu môn - trực tràng quốc tế (IAPWG) năm 2019
[3]. Các bước được tiến hành lần lượt như sau:
1) Đo áp lực hậu môn - trực tràng khi nghỉ trong 60 giây.
2) Đo áp lực hậu môn - trực tràng khi co thắt trong thời
gian ngắn (5 giây).
3) Đo áp lực hậu môn - trực tràng khi co thắt dài trong
thời gian dài (30 giây).
4) Đánh giá phản xạ ho: bệnh nhân thực hiện ho 2 lần;
phản xạ ho bình thường khi có sự tăng cả áp lực ở trực tràng
và ống hậu môn khi ho.
5) Đo áp lực hậu môn - trực tràng trong khi rặn: động tác
rặn được thực hiện 3 lần. Các phân nhóm rối loạn đồng vận
phản xạ rặn trên đo HRAM được xác định dựa theo phân
loại của Rao và cs (2016) [1] bao gồm: type I: áp lực trực
tràng tăng ≥40 mmHg kèm tăng áp lực ống hậu môn; type
II: áp lực trực tràng tăng yếu <40 mmHg kèm tăng áp lực
ống hậu môn; type III: áp lực trực tràng tăng ≥40 mmHg
kèm không giãn hoặc giãn kém (≤20%); type IV: áp lực trực
tràng tăng yếu <40 mmHg kèm không giãn hoặc giãn kém
(≤20%).
(6) Đo các ngưỡng cảm nhận trực tràng: các ngưỡng cảm
nhận trực tràng được xác định bằng thể tích khí (tính bằng
ml) bơm vào bóng trên catheter khi catheter đã được đặt và
cố định trong ống hậu môn - trực tràng, tại đó bệnh nhân
có các cảm nhận: bắt đầu có cảm giác, bắt đầu có nhu cầu
đi đại tiện và cảm giác không thể nhịn được đại tiện, tương
đương với các ngưỡng: ngưỡng cảm nhận đầu tiên (FS)-
ngưỡng bắt đầu buồn đi ngoài (ND) - ngưỡng dung nạp tối
đa (MTV).
Đánh giá phản xạ ức chế hậu môn - trực tràng (RAIR):
phản xạ RAIR bình thường khi có sự giảm áp lực đột ngột
Evaluating anal canal pressure,
rectal sensations, and push
maneuvers in patients
with defecatory disorders
Viet Hang Dao1, 2, 3*, Thi Minh Hue Luu3,
Van Long Dao1, 2, 3
1Institute of Gastroenterology and Hepatology
1Hanoi Medical University
2Hanoi Medical University Hospital
Received 2 July 2020; accepted 18 August 2020
Abstract:
Objectives: to evaluate anal canal pressure, rectal
sensation levels, and push maneuvers on high-resolution
anorectal manometry (HRAM) in patients with
defecation disorders. Methods: a retrospective study was
conducted in 73 patients who were ≥18 years old, had
bowel habit disorders, stool appearance changes, and
performed HRAM from July 2018 to July 2019. Results:
the study included 28 males and 45 females. The mean
age was 46.2±15.5 (years old). The proportions of patients
having symptoms related to bowel habit disorders, stool
appearance changes and fecal incontinence were 74,
26 and 9.6%, respectively. Men had higher anal canal
resting and squeeze pressure. There was no significant
difference in rectal sensation levels between the two
genders. 77.9% of patients had dyssynergic defecation,
mostly type I (45.6%). The HRAM values were not
different between the two groups (normal pushing
maneuver and dyssynergic defecation). Conclusions:
age relates to anal sphincter pressure. There is a high
proportion of patients having dyssynergic defecation, in
which type I is predominant.
Keywords: anal canal sphincter, defecation disorders,
high-resolution anorectal manometry (HRAM).
Classification number: 3.2
2262(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
của trực tràng - ống hậu môn khi bóng catheter được bơm
nhanh 60 ml khí.
Xử lý số liệu
Dữ liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS
version 22.0. Các biến định tính được biểu diễn dưới dạng
tỷ lệ (phần trăm), các biến định lượng được biểu diễn dưới
dạng trung bình±độ lệch chuẩn hoặc trung vị (tứ phân vị).
Sự khác biệt giữa hai nhóm độc lập kiểm định t-test, Mann-
Whitney, kiểm định ANOVA và ANOVA Krustal-Wallis đối
với 3 nhóm.
Kết quả
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
73 bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn lựa chọn. Tuổi trung bình
là 46,2±15,5, tỷ lệ nữ/nam là 45/28. Tỷ lệ nhóm bệnh nữ đã
qua sinh đẻ là 84,4% tổng số bệnh nhân nữ. Các nhóm triệu
chứng lâm sàng của bệnh nhân bao gồm nhóm liên quan
đến thay đổi thói quen đai tiện (táo bón đơn thuần, tiêu chảy
đơn thuần và táo bón - tiêu chảy hỗn hợp), liên quan đến rối
loạn phân (phân nát, phân nhầy, phân sống), và nhóm liên
quan đến rối loạn phản xạ đi ngoài (són phân). Bệnh nhân
có thể biểu hiện nhiều hơn một nhóm triệu chứng lâm sàng.
Triệu chứng liên quan đến thay đổi thói quen đại tiện phổ
biến nhất, gặp ở 74% bệnh nhân, các nhóm liên quan đến rối
loạn phân và rối loạn phản xạ đi ngoài gặp lần lượt là 26%
và 9,6% bệnh nhân.
Có 45 bệnh nhân ghi nhận được kết quả nội soi đại trực
tràng. Bệnh nhân có thể có các tổn thương kết hợp của trĩ,
polyp và viêm trên kết quả nội soi. Tỷ lệ bệnh nhân viêm
đại - trực tràng, trĩ và polyp đại - trực tràng lần lượt là 35,5;
51,1 và 17,8%.
Đặc điểm trên đo HRAM
Nam giới có chiều dài ống hậu môn dài hơn nữ giới
(2,93±0,41 so với 2,59±0,43 cm), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p=0,002). Các giá trị áp lực cơ thắt hậu môn khi
nghỉ, khi co thắt trong thời gian ngắn và dài ở nhóm bệnh
nhân nam đều cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
bệnh nhân nữ (p<0,05). Kết quả này không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nữ đã sinh đẻ và nữ chưa
sinh đẻ (p>0,05). Các ngưỡng cảm nhận trực tràng không có
sự khác biệt giữa giới tính và tiền sử sinh đẻ (bảng 1).
Khi phân tích phản xạ ức chế hậu môn - trực tràng
(RAIR) và phản xạ ho, 100% bệnh nhân không có RAIR
bình thường, 1 bệnh nhân được ghi nhận có phản xạ ho bất
thường.
Bảng 1. Đặc điểm HRAM theo giới tính và tiền sử sinh đẻ.
Tổng
(n=73)
Nữ Nam p
Nữ chưa
sinh
(n=7)
Nữ đã sinh
(n=38)
Tổng
(n =45)
(n=28) (*) (**)
Chiều dài ống hậu
môn (cm)
2,72±0,45 2,35±0,39 2,64±0,43 2,59±0,43 2,93±0,41 0,016 0,002
Áp lực nghỉ của
CTHM (mmHg)
66,5±23,8 58,5±23,0 61,2±23,8 60,8±23,5 75,7±21,7 0,781 0,008
Áp lực của CTHM
khi co thắt ngắn
(mmHg)
151,7±49,8 128,6±55,5 143,0±40,1 140,8±42,4 169,1±53,4 0,413 0,017
Áp lực của CTHM
khi co thắt dài
(mmHg)
144,1±55,6 120,5±62,4 126,7±47,4 125,7±49,2 173,7±53,2 0,762 0,000
Thời gian duy trì co
thắt CTHM (giây)
30,9
(22,6-32,3)
26,7
(21-29)
31
(19-32)
30
(20-32)
31,4
(28-32)
0,347 0,103
Thể tích bắt đầu
cảm nhận - FS (ml)
30
(30-42,5)
30
(20-50)
30
(30-40)
30
(27,5-40)
30
(30-48,75)
0,818 0,275
Thể tích bắt đầu
buồn đi ngoài - ND
(ml)
80
(60-95)
60
(45-90)
72,5
(60-90)
70
(60-90)
85
(60-117,5)
0,489 0,055
Thể tích dung nạp
tối đa - MTV (ml)
120
(100-172,5)
120
(80-150)
120
(100-170)
120
(100-165)
140
(112-180)
0,613 0,140
CTHM: cơ thắt hậu môn. Các giá trị được thể hiện dưới dạng giá trị trung
bình±độ lệch chuẩn hoặc trung vị (khoảng tứ phân vị). (*) so sánh giữa nhóm
nữ chưa sinh và nhóm nữ đã sinh, (**) so sánh giữa nhóm nam và nữ.
Khi phân tích tương quan cho thấy, giá trị tuổi và giá trị
áp lực cơ thắt hậu môn khi nghỉ có mối tương quan nghịch
(hệ số tương quan Pearson r=-0,248, với p=0,035<0,05 có ý
nghĩa thống kê) (hình 1).
Hình 1. Biểu diễn tương quan giữa tuổi và áp lực cơ thắt hậu môn khi nghỉ.
Bảng 2 mô tả một số đặc điểm đo HRAM ở một số nhóm triệu chứng lâm sàng.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các giá trị áp lực cơ thắt hậu môn khi co
thắt giữa nhóm có triệu chứng táo bón đơn thuần và tiêu chảy đơn thuần. MTV cao
hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm táo bón đơn thuần so với tiêu chảy đơn thuần
(p=0,029). Tỷ lệ rối loạn đồng vận phản xạ rặn ở hai nhóm táo bón - tiêu chảy đơn
thuần cũng không có sự khác biệt (p=0,106).
Các giá trị áp lực cơ thắt hậu môn và ngưỡng cảm nhận trực tràng không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có són phân (n=7) và nhóm không có són
phân (n=66). Tỷ lệ rối loạn đồng vận phản xạ rặn cũng không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm này (p=0,119).
Bảng 2: Đ ặc điểm đo HRAM ở một số nhóm triệu chứng lâm sàng.
Đặc điểm đo
HRAM
Táo bón đơn
thuần (n=24)
Tiêu chảy
đơn thuần
(n=13)
p Són phân (n=7)
Không són
phân (n=66) p
Áp lực CTHM khi
nghỉ (mmHg) 55,9±23,4 73,0±24,3 0,043 55,5±27,0 67,7±23,4 0,202
Áp lực của CTHM
khi co thắt ngắn
(mmHg)
137,8± 46,4 164,1±55,8 0,134 148,9±75,4 152,0±47,2 0,878
Áp lực của CTHM
khi co thắt dài
(mmHg)
128,7±55,6 148,4±69,5 0,361 138,0±71,7 144,8±54,3 0,761
FS (ml) 35
(30-48,75)
30
(30-45) 0,769
30
(20-60)
30
(30-40) 0,884
ND (ml) 82,5
(60-97,5)
80
(50-112,5) 0,949
80
(50-120)
80
(60-90) 0,887
MTV (ml) 155
(120-180)
120
(100-165) 0,029
115
(80-140)
122,5
(107,5-176,3) 0,225
Tỷ lệ rối loạn đồng
vận (%) 83,3 53,8 0,106 57,1 74,2 0,119
r = -0,248
p = 0,035
Tuổi
Á
p
lự
c
kh
i n
gh
ỉ c
ủa
c
ơ
th
ắt
hậ
u
m
ôn
,
,
,
, , , ,
Hình 1. Biểu diễn tương quan giữa tuổi và áp lực cơ thắt hậu môn
khi nghỉ.
2362(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
Bảng 2 mô tả một số đặc điểm đo HRAM ở một số nhóm
triệu chứng lâm sàng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về các giá trị áp lực cơ thắt hậu môn khi co thắt
giữa nhóm có triệu chứng táo bón đơn thuần và tiêu chảy
đơn thuần. MTV cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm táo
bón đơn thuần so với tiêu chảy đơn thuần (p=0,029). Tỷ lệ
rối loạn đồng vận phản xạ rặn ở hai nhóm táo bón - tiêu chảy
đơn thuần cũng không có sự khác biệt (p=0,106).
Các giá trị áp lực cơ thắt hậu môn và ngưỡng cảm nhận
trực tràng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
nhóm có són phân (n=7) và nhóm không có són phân (n=66).
Tỷ lệ rối loạn đồng vận phản xạ rặn cũng không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm này (p=0,119).
Bảng 2. Đặc điểm đo HRAM ở một số nhóm triệu chứng lâm sàng.
Đặc điểm đo
HRAM
Táo bón
đơn thuần
(n=24)
Tiêu chảy
đơn thuần
(n=13)
p
Són phân
(n=7)
Không són
phân (n=66)
p
Áp lực CTHM khi
nghỉ (mmHg)
55,9±23,4 73,0±24,3 0,043 55,5±27,0 67,7±23,4 0,202
Áp lực của CTHM
khi co thắt ngắn
(mmHg)
137,8± 46,4 164,1±55,8 0,134 148,9±75,4 152,0±47,2 0,878
Áp lực của CTHM
khi co thắt dài
(mmHg)
128,7±55,6 148,4±69,5 0,361 138,0±71,7 144,8±54,3 0,761
FS (ml)
35
(30-48,75)
30
(30-45)
0,769
30
(20-60)
30
(30-40)
0,884
ND (ml)
82,5
(60-97,5)
80
(50-112,5)
0,949
80
(50-120)
80
(60-90)
0,887
MTV (ml)
155
(120-180)
120
(100-165)
0,029
115
(80-140)
122,5
(107,5-176,3)
0,225
Tỷ lệ rối loạn đồng
vận (%)
83,3 53,8 0,106 57,1 74,2 0,119
Trong phản xạ rặn, 68 bệnh nhân được ghi nhận thực
hiện chính xác trong 3 lần, kết quả cho thấy 22,1% (n=15)
bệnh nhân có kết quả bình thường, 77,9% (n=53) bệnh nhân
ghi nhận có rối loạn đồng vận. Rối loạn đồng vận phản
xạ rặn gặp chủ yếu là type I (n=31, chiếm 45,6%), type II
(n=8), III (n=13) và IV (n=1) lần lượt chiếm 11,8; 19,1 và
1,4%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chiều
dài ống hậu môn, áp lực cơ thắt hậu môn và các ngưỡng cảm
nhận trực tràng (ngoại trừ ngưỡng bắt đầu cảm nhận) giữa
nhóm có phản xạ rặn bình thường và nhóm có rối loạn đồng
vận (p>0,05) (bảng 3).
Bảng 3. Đặc điểm HRAM ở nhóm phản xạ rặn bình thường và
nhóm rối loạn đồng vận.
Đặc điểm đo HRAM
Bình thường
(n=15)
Rối loạn đồng vận
(n=53)
p
Chiều dài ống hậu môn (cm) 2,65±0,37 2,74±0,48 0,490
Áp lực CTHM khi nghỉ (mmHg) 65,7±23,8 66,4±24,0 0,917
Áp lực của CTHM khi co thắt trong thời gian ngắn
(mmHg)
165,0±49,9 146,6±50,1 0,214
Áp lực của CTHM khi co thắt trong thời gian dài
(mmHg)
150,6±66,9 140,0±53,4 0,522
Thời gian duy trì co thắt của CTHM (giây) 30,5 (21-32) 30,5 (21-32) 0,478
FS (ml) 30 (20-40) 30 (30-47,5) 0,049
ND (ml) 60 (50-90) 80 (60-100) 0,076
MTV (ml) 120 (110-180) 120 (105-172,5) 0,761
Bàn luận
Nghiên cứu đã được tiến hành trên nhóm đối tượng 73
bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn về thói quen đại tiện
và tính chất phân bằng kỹ thuật HRAM, trong đó có 45 nữ
và 28 nam, tuổi trung bình là 46,2±15,5.
Đặc điểm triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân đến khám
chủ yếu về các rối loại thói quen đại tiện (74%), trong đó
triệu chứng táo bón đơn thuần chiếm ưu thế (n=24), són
phân gặp ở 9,6%. Trong một số nghiên cứu sử dụng các bộ
câu hỏi đánh giá tại cộng đồng ở một số khu vực tại Úc,
Mỹ, châu Âu, tỷ lệ có triệu chứng táo bón mạn tính gặp ở
11-18%, són phân gặp ở 7-15% [4, 5]. Trong nghiên cứu
của Whitehead và cs (2009), tỷ lệ chung của són phân gia
tăng theo độ tuổi, khoảng 2,6% ở độ tuổi 20-28 đến 15,3%
ở người cao tuổi (>70 tuổi) Mặc dù, triệu chứng són phân
có nhiều tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống và đời
sống tinh thần (sự xấu hổ, cô lập với xã hội, mất khả năng
lao động) của người bệnh, nhưng tình trạng rối loạn này
ít được người bệnh thông báo với nhân viên y tế [2], dẫn
đến việc tiếp cận chẩn đoán và điều trị còn hạn chế. HRAM
là một công cụ hữu ích để thăm dò trước khi chỉ định liệu
pháp biofeedback (phản hồi sinh học) điều trị són phân chức
năng. Một nghiên cứu tổng quan cho thấy, khoảng 2/3 bệnh
nhân giảm được tần suất són phân và khoảng 50% bệnh
nhân hết biểu hiện són phân sau biofeedback [6]. Tuy nhiên,
dữ liệu về HRAM ở Việt Nam còn hạn chế, do đó phối hợp
HRAM và biofeedback trong chẩn đoán và quản lý nhóm
bệnh nhân có các rối loạn chức năng vùng hậu môn - trực
tràng là một hướng nghiên cứu mới cần được tập trung phát
triển trong tương lai.
Chiều dài ống hậu môn chức năng trung bình của nhóm
bệnh nhân là 2,72±0,45 (cm). Kết quả của chúng tôi có giá
trị thấp hơn so với nghiên cứu của Y. Li và cs (2013) trên
110 đối tượng khỏe mạnh người Trung Quốc: 3,5±0,1 cm
2462(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
(nữ 50 tuổi) [7]. Khi sử dụng
giá trị tham chiếu các ngưỡng bình thường trong nghiên cứu
của Carrington và cs (2014) [8] trên 115 đối tượng khỏe
mạnh tại Anh, nghiên cứu có 16,7% bệnh nhân (n=12) có
chiều dài ống hậu môn chức năng ngắn (giá trị tham chiếu:
nữ <2,3 cm, nam <2,4 cm). Hiện nay, sự tương quan giữa
chiều dài ống hậu môn chức năng và các triệu chứng rối
loạn hậu môn - trực tràng còn chưa rõ ràng. Nghiên cứu của
Vollebregt và cs (2019) [9] chỉ ra chiều dài ống hậu môn
ngắn gặp ở 20% bệnh nhân nữ và 13% bệnh nhân nam có
rối loạn són phân, có liên quan với tuổi cao, trương lực và
áp lực cơ thắt hậu môn yếu.
Các giá trị áp lực cơ thắt hậu môn khi nghỉ, khi co thắt
trong thời gian ngắn và dài đều có giá trị cao hơn có ý nghĩa
thống kê ở nam giới. Điều này phù hợp với kết quả của các
nghiên cứu trước của Carrington và cs (2014); Lee và cs
(2014) [8, 10]. Sự khác biệt về áp lực cơ thắt hậu môn giữa
hai giới được giải thích do sự khác nhau về khối lượng cơ,
lực co bóp của cơ thắt hậu môn, sự tổn thương của thần
kinh thẹn trong quá trình chuyển dạ ở nữ giới, cũng như
sự khác biệt về chỉ số khối cơ thể (BMI) giữa nam và nữ
[10]. Nghiên cứu của Carrington cũng chỉ ra áp lực của cơ
thắt hậu môn khi co thắt của phụ nữ đã sinh thấp hơn có ý
nghĩa so với nhóm nữ chưa sinh đẻ. Trong nghiên cứu của
chúng tôi không có sự khác biệt giữa hai nhóm, có thể do số
lượng nhóm nữ chưa sinh đẻ trong nghiên cứu còn ít (n=7).
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối tương quan nghịch
giữa tuổi và các giá trị áp lực của cơ thắt hậu môn khi nghỉ
và khi co thắt [7, 11, 12]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng
cho thấy mối tương quan nghịch giữa tuổi và áp lực cơ thắt
hậu môn khi nghỉ (r=-0,248, p=0,035). Khi phân tích tương
quan giữa tuổi và áp lực cơ thắt hậu môn khi nghỉ ở riêng
giới nam và nữ cho kết quả không có sự tương quan ở cả
hai giới với r=-0,365 (p=0,056) và r=-0,092 (p=0,051), [11].
Áp lực khi nghỉ của cơ thắt hậu môn giảm theo tuổi được
giải thích do quá trình thoái hóa cơ trơn, thay thế bằng mô
xơ mỡ, sự sắp xếp các sợi cơ lỏng lẻo hơn [13]. Áp lực cơ
thắt hậu môn khi nghỉ thấp gặp tỷ lệ cao hơn ở nhóm có
triệu chứng són phân trong các nghiên cứu trước đây [14],
tuy nhiên không có sự khác biệt giữa nhóm có triệu chứng
són phân và không có són phân trong nghiên cứu của chúng
tôi. Sự khác biệt này có thể do số lượng bệnh nhân són phân
trong nghiên cứu này còn thấp (n=7).
Các ngưỡng cảm nhận trực tràng (FS, ND, MTV) của
các đối tượng nghiên cứu có giá trị trung vị lần lượt là 30,
70 và 120 (ml) ở nữ, và 30, 85 và 140 (ml) ở nam, không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới. Ngưỡng
dung nạp tối đa ở nhóm có triệu chứng táo bón đơn thuần
(155 ml) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tiêu chảy
đơn thuần (120 ml). Một số nghiên cứu đã ghi nhận sự tăng
ngưỡng cảm nhận trực tràng gặp tỷ lệ cao ở nhóm bệnh nhân
có táo bón mạn tính (16-68%), và nhóm hội chứng ruột kích
thích táo bón ưu thế (17%) [15, 16].
Trong 68 bệnh nhân được đánh giá phản xạ rặn trên đo
HRAM, 77,9% bệnh nhân được ghi nhận có rối loạn đồng
vận phản xạ rặn, trong đó type I chiếm tỷ lệ 45,6%. Không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ các triệu chứng
lâm sàng, chiều dài ống hậu môn, các giá trị áp lực cơ thắt
hậu môn và các ngưỡng cảm nhận trực tràng giữa hai nhóm
phản xạ rặn bình thường và nhóm có rối loạn đồng vận.
Trong nghiên cứu trước đây của T. Yu và cs (2017) [17],
Y. Zhao và cs (2019) [12], type I cũng là rối loạn đồng vận
thường gặp nhất. Tỷ lệ cao bệnh nhân có rối loạn đồng vận
trên đo HRAM trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Videlock và cs (2013) [18],
Y. Zhao và cs (2019) [12], với tỷ lệ rối loạn đồng vận ở
đối tượng táo bón mạn tính là 47,7-73,2%, tỷ lệ này trong
nghiên cứu của Grossi và cs (2016) [19] ở đối tượng táo
bón chức năng là 93,7% và ở nhóm chứng khỏe mạnh là
86,1%. Mặc dù HRAM là phương pháp rất hữu ích trong
việc dễ dàng quan sát và phân loại được các phân nhóm rối
loạn đồng vận phản xạ rặn khác nhau, tuy nhiên trong một
nghiên cứu áp dụng kỹ thuật HRAM trên nhóm đối tượng
có táo bón chức năng và nhóm chứng khỏe mạnh thì tỷ lệ rối
loạn đồng vận chung giữa hai nhóm không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê [19]. Do đó, để tiếp cận và đánh giá sự
phối hợp hậu môn - trực tràng trong phản xạ rặn hiệu quả,
việc kết hợp HRAM với các kỹ thuật thăm dò chẩn đoán
khác là rất cần thiết.
Kết luận
Tuổi và giới có mối liên quan với áp lực cơ thắt hậu môn.
Ngưỡng cảm nhận dung nạp tối đa ở trực tràng cao hơn ở
nhóm táo bón đơn thuần so với tiêu chảy đơn thuần. Rối
loạn đồng vận phản xạ type I gặp phổ biến nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] S.S. Rao, T. Patcharatrakul (2016), “Diagnosis and treatment
of dyssynergic defecation”, Journal of Neurogastroenterology and
Motility, 22(3), pp.423-435.
[2] W.E. Whitehead, L. Borrud, P.S. Goode, et al. (2009),
“Fecal incontinence in US adults: epidemiology and risk factors”,
Gastroenterology, 137(2), pp.512-517.
[3] E.V. Carrington, H. Heinrich, C.H. Knowles, et al. (2020),
“The international anorectal physiology working group (IAPWG)
recommendations: standardized testing protocol and the London
classification for disorders of anorectal function”, Neurogastroenterol
Motil., 32(1), DOI: 10.1111/nmo.13679.
[4] A.E. Bharucha, A.R. Zinsmeister, G.R. Locke, et al. (2005),
2562(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
“Prevalence and burden of fecal incontinence: a population-based
study in women”, Gastroenterology, 129(1), pp.42-49.
[5] N.C. Suares, A.C. Ford (2011), “Prevalence of, and risk
factors for, chronic idiopathic constipation in the community:
systematic review and meta-analysis”, The American Journal of
Gastroenterology, 106(9), pp.1582-1591.
[6] G. Chiarioni, B. Ferri, A. Morelli, et al. (2005), “Bio-feedback
treatment of fecal incontinence: where are we, and where are we
going?”, World Journal of Gastroenterology, 11(31), pp.4771-4775.
[7] Y. Li, X. Yang, C. Xu, et al. (2013), “Normal values and
pressure morphology for three-dimensional high-resolution anorectal
manometry of asymptomatic adults: a study in 110 subjects”,
International Journal of Colorectal Disease, 28(8), pp.1161-1168.
[8] E.V. Carrington, A. Brokjaer, H. Craven, et al. (2014),
“Traditional measures of normal anal sphincter function using high-
resolution anorectal manometry (HRAM) in 115 healthy volunteers”,
Neurogastroenterology and Motility, 26(5), pp.625-635.
[9] P.F. Vollebregt, A.M.P. Rasijeff, D. Pares, et al. (2019),
“Functional anal canal length measurement using high-
resolution anorectal manometry to investigate anal sphincter
dysfunction in patients with fecal incontinence or constipation”,
Neurogastroenterology and Motility, 31(3), DOI: 10.1111/nmo.13532.
[10] H.J. Lee, K.W. Jung, S. Han, et al. (2014), “Normal values
for high-resolution anorectal manometry/topography in a healthy
Korean population and the effects of gender and body mass index”,
Neurogastroenterology and Motility, 26(4), pp.529-537.
[11] F. Gundling, H. Seidl, N. Scalercio, et al. (2010), “Influence
of gender and age on anorectal function: normal values from anorectal
manometry in a large caucasian population”, Digestion, 81(4),
pp.207-213.
[12] Y. Zhao, X. Ren, W. Qiao, et al. (2019), “High-resolution
anorectal manometry in the diagnosis of functional defecation disorder
in patients with functional constipation: a retrospective cohort study”,
Journal of Neurogastroenterology and Motility, 25(2), pp.250-257.
[13] C.T. Speakman, C.H. Hoyle, M.A. Kamm, et al. (1995),
“Abnormal internal anal sphincter fibrosis and elasticity in fecal
incontinence”, Dis. Colon Rectum., 38(4), pp.407-410.
[14] S.S. Rao (2010), “Advances in diagnostic assessment of fecal
incontinence and dyssynergic defecation”, Clinical Gastroenterology
and Hepatology, 8(11), pp.910-919.
[15] R.E. Burgell, S.M. Scott (2012), “Rectal hyposensitivity”,
Journal of Neurogastroenterology and Motility, 18(4), pp.373-384.
[16] T. Yu, D. Qian, Y. Zheng, et al. (2016), “Rectal hyposensitivity
is associated with a defecatory disorder but not delayed colon transit
time in a functional constipation population”, Medicine, 95(19), DOI:
10.1097/MD.0000000000003667.
[17] T. Yu, X. Shen, M. Li, et al. (2017), “Efficacy and predictors
for biofeedback therapeutic outcome in patients with dyssynergic
defecation”, Gastroenterology Research and Practice, DOI:
10.1155/2017/1019652.
[18] E.J. Videlock, A. Lembo, F. Cremonini (2013), “Diagnostic
testing for dyssynergic defecation in chronic constipation: meta-
analysis”, Neurogastroenterology and Motility, 25(6), pp.509-520.
[19] U. Grossi, E.V. Carrington, A.E. Bharucha, et al. (2016),
“Diagnostic accuracy study of anorectal manometry for diagnosis of
dyssynergic defecation”, Gut., 65(3), pp.447-455.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ap_luc_co_that_hau_mon_nguong_cam_nhan_truc_trang_v.pdf