Nghiên cứu tập trung đánh giá quá trình
biến đổi lớp phủ/sử dụng đất cho khu vực
thành phố Điện Biên giai đoạn 2002 - 2017
trên cơ sở sử dụng dữ liệu viễn thám là một
cách tiếp cận hiệu quả trong giám sát, quản lý
và quy hoạch lãnh thổ. Trên cơ sở phân tích
định lượng các kết quả phân loại, xu thế suy
giảm diện tích rừng tự nhiên (5,764.95
ha/năm) và diện tích rừng trồng (2,833.79
ha/năm) diễn ra song hành với sự gia tăng
của diện tích đất nông nghiệp (2,508.5
ha/năm) và cây bụi (7,564.16 ha/năm). Quá
trình này được thể hiện rõ trong mối quan hệ
tỷ lệ thuận của 06 chỉ số cảnh quan (MPS,
ED, TLA, NP, PD, LSI) và tỷ lệ nghịch của
chỉ số PRD. Những biến động này đã và đang
tạo ra các nguy cơ tiêu cực về tự nhiên, kinh
tế-xã hội và môi trường của khu vực, đe dọa
tới mục tiêu phát triển bền vững của lãnh thổ
trong tương lai. Đây được coi là một cách
tiếp cận định lượng hiệu quả nhằm theo dõi
xu thế biến động của đối tượng/lớp phủ sử
dụng đất, phù hợp cho nhiều quy mô lãnh thổ
và đa thời gian.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 876 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá biến động lớp phủ/sử dụng đất thông qua dữ liệu viễn thám đa thời gian khu vực tỉnh Điện Biên, Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 72
BÀI BÁO KHOA H
C
ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG LỚP PHỦ/SỬ DỤNG ĐẤT
THÔNG QUA DỮ LIỆU VIỄN THÁM ĐA THỜI GIAN
KHU VỰC TỈNH ĐIỆN BIÊN, VIỆT NAM
Lại Tuấn Anh1, Phạm Văn Mạnh2, Phạm Minh Tâm2
Tóm tắt: Nghiên cứu biến động sử dụng đất là một trong những nội dung quan trọng trong giám
sát, quản lý và quy hoạch sử dụng tài nguyên; đặc biệt là ở khu vực miền núi. Trên cơ sở ứng dụng
công cụ viễn thám, thông tin về đối tượng sử dụng đất được mô tả một cách khái quát những thay
đổi quan trọng trong môi trường GIS. Nghiên cứu tiến hành phân loại dựa vào đối tượng cho khu
vực tỉnh Điện Biên giai đoạn 2002-2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy xu thế gia tăng nhanh của
diện tích cây bụi (90,770.58 ha) và đất nông nghiệp (30,102.03 ha); trong khi suy giảm diện tích
rừng trồng (42,506.9 ha) và rừng tự nhiên (86,474.3 ha) xuất phát chủ yếu từ nhu cầu sản xuất
nông nghiệp của cư dân trong vùng. Các đặc trưng thay đổi của đối tượng sử dụng đất theo thời
gian được phản ánh cụ thể thông qua 07 chỉ số cảnh quan. Đây được coi là một cách tiếp cận hiệu
quả trong xác định biến động sử dụng đất, phù hợp cho nhiều quy mô lãnh thổ và đa thời gian.
Từ khoá: đánh giá định lượng, sử dụng đất, viễn thám, độ đo cảnh quan, Điện Biên
1. ĐẶT VẤN ĐỀ*
Khu vực có địa hình núi cao là một thành
phần không thể tách rời của bề mặt Trái đất,
chiếm 27% tổng diện tích đất liền và là nơi định
cư của 20% dân số toàn cầu (Shafiq et al.,
2016). Đây là khu vực cung cấp phần lớn dịch
vụ hệ sinh thái cho các cộng đồng dân cư địa
phương như gỗ, năng lượng, nguồn nước, giá trị
sinh học và môi trường, cung cấp nơi nghỉ
dưỡng và giải trí, (Worboys et al., 2015). Tuy
nhiên, quá trình sử dụng đất thiếu hợp lý đã gây
ra tình trạng suy thoái tài nguyên tại các lưu
vực. Trong đó, nguyên nhân lớn nhất xuất phát
từ hiện tượng phá rừng, chuyển đổi đất sang
mục đích nông nghiệp tùy tiện, mở rộng diện
tích quần cư,... đang trở thành thách thức lớn
đối với mục tiêu quản lý tài nguyên và quy
hoạch sử dụng đất bền vững (Franz J. Heidhüs
et al., 2007). Xu thế biến đổi sử dụng đất đối với
vùng núi cao (khu vực phụ thuộc nhiều vào
nguồn tài nguyên đất đai) có thể trở thành một
1 Bộ môn Trắc Địa, Trường Đại học Thủy lợi.
2 Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
ĐHQGHN.
công cụ cơ bản trong đánh giá hậu quả môi
trường gây ra bởi con người theo không gian và
thời gian (Yu Ding & Jian Peng, 2018). Do vậy,
những thông tin về biến động đất đai và khả
năng phù hợp của các đối tượng sử dụng đất trở
nên cần thiết trong quá trình lựa chọn, lập kế
hoạch và thực hiện quy hoạch sử dụng đất;
nhằm đáp ứng nhu cầu về tài nguyên ngày càng
gia tăng của con người.
Xuất phát từ nhu cầu này, công cụ viễn thám
được sử dụng để đánh giá những thông tin ở
dạng tiềm năng, nhằm cung cấp một cái nhìn
khái quát về cảnh quan ở đa tỷ lệ (từ cấp địa
phương đến toàn cầu) (Roy P.S. & Arijit Roy,
2010). Quá trình quan trắc thay đổi về bề mặt
Trái đất bằng vệ tinh thông qua các thông tin
thu nhận của bước sóng điện từ đã cho phép
tách chiết thông tin cho mục đích đánh giá biến
động sử dụng đất (Lillisand & Kiefer, 2008).
Những tiến bộ gần đây trong dữ liệu viễn thám
cùng với hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã cho
phép phân tích định lượng những thay đổi mục
đích sử dụng đất với chi phí hợp lý và chính xác
hơn (Forkuor & Cofie, 2011). Trên cơ sở dữ liệu
đa thời gian, các dữ liệu này được sử dụng làm
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 73
căn cứ để tiến hành phân tích cấu trúc biến động
của cảnh quan khu vực. Từ đó, những thay đổi
về đặc tính, thành phần cấu trúc của cảnh quan
đã giải thích chính xác: sự thay đổi cấu trúc đô
thị (Bhatta, 2009), mô hình hóa quá trình mở
rộng đô thị (Mundia & Murayama, 2010), giám
sát quá trình chuyển đổi nông thôn-đô thị
(Banzhaf et al., 2009), đánh giá ảnh hưởng của
các động lực kinh tế xã hội (Long et al.,
2007),... Những thông tin về biến động sử dụng
đất này được cập nhật theo thời gian là những
thành phần quan trọng cho các phân tích liên
quan tới định lượng, phân tích và mô hình hóa
(Herold et al., 2005), hỗ trợ hoạt động quy
hoạch và quản lý sử dụng đất (Debolini et al.
2015) hay đánh giá những tác động môi
trường/sự thay đổi điều kiện sinh thái (Grimm et
al. 2008). Do vậy, tích hợp công cụ GIS-viễn
thám với các độ đo định lượng trở thành xu thế
ứng dụng tối ưu cho các nghiên cứu giám sát
biến động sử dụng đất.
Nghiên cứu được tiến hành thực hiện tại
khu vực tỉnh Điện Biên – là tỉnh duy nhất ở
rìa phía Tây khu vực Tây Bắc Việt Nam, tiếp
giáp cả Lào và Trung Quốc. Mục tiêu của
nghiên cứu hướng tới sử dụng công nghệ viễn
thám và các độ đo cảnh quan nhằm xác định
xu thế thay đổi của các đối tượng sử dụng đất
tại khu vực trong giai đoạn 2002–2017. Các
kết quả nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn chi
tiết về xu thế chuyển đổi mục đích sử dụng đất
đã và đang diễn ra tại tỉnh Điện Biên; cũng
như chỉ ra ảnh hưởng từ quá trình này tới cấu
trúc tổng thể của cảnh quan.
2. GIỚI THIỆU VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU
Điện Biên là tỉnh nằm ở rìa phía tây của khu
vực Tây Bắc Việt Nam, trải dài từ 20°54’-
22°33’ vĩ độ Bắc và từ 102°10'-103°36' kinh độ
Đông(Hình 1). Nơi đây có địa hình phức tạp,
chủ yếu là đồi núi dốc, hiểm trở và chia cắt
mạnh, chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam với độ cao thay đổi từ 200-1.800m. Xen
lẫn đó là những thung lũng, sông suối nhỏ hẹp
phân bố liên tục. Khu vực này có khí hậu nhiệt
đới gió mùa núi cao, mùa đông tương đối lạnh
và ít mưa; mùa hạ nóng và thất thường. Điều
này không chỉ tạo ra sự đa dạng về điều kiện
phát triển của lãnh thổ mà còn hình thành nên
những hạn chế về mặt địa hình và mùa vụ trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp. Do vậy, các
đối tượng sử dụng đất chính được sử dụng trong
nghiên cứu gồm:
Bảng 1. Mô tả về đặc trưng của các loại hình/lớp phủ sử dụng đất
Đối tượng SDĐ Mô tả
1. Rừng tự nhiên Bề mặt lớp phủ là các hệ sinh thái rừng tự nhiên, các khu vực bảo tồn hay
các khu bảo tồn thiên nhiên.
2. Rừng trồng Bề mặt lớp phủ là các diện tích rừng được trồng xung quanh các điểm
quần cư.
3. Cây bụi Lớp phủ gồm các bụi cây, các cây gỗ nhỏ xen giữa các bề mặt đất trống,
đồng cỏ.
4. Đất nông
nghiệp
Đất được sử dụng cho mục đích trồng trọt, gồm các diện tích đất trồng trọt
theo mùa vụ, đất NN bỏ trống trong thời kỳ làm đất, hoặc khu vực sử dụng
để chăn thả gia súc.
5. Dân cư Gồm tất cả các bề mặt lớp phủ nhân tạo, như quần cư, đất sử dụng cho các
hoạt động thương mại, các khu công nghiệp hay cơ sở hạ tầng dành cho giao
thông.
6. Đất trống Bề mặt lớp phủ có ít hơn 1/3 diện tích là thực vật, chủ yếu là diện tích đất
cằn cỗi với tầng đất mỏng, đất cát hoặc đá.
7. Mặt nước Các bề mặt ngập nước do giáng thủy, dòng chảy thường xuyên hay các sông
suối nhỏ.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 74
Dữ liệu khu vực của tỉnh Điện Biên nằm
trên hai cảnh ảnh vệ tinh Landsat, có độ che
phủ mây dưới 5% và được tải miễn phí tại
trang web Ảnh
được chia thành hai mốc thời gian: (i) Năm
2002 gồm Landsat 5 TM (08/10/2002),
Landsat 7 ETM+ (16/03/2003); (ii) Năm 2017
gồm Landsat 8 OLI/TIRS (20/12/2017 và
14/03/2017).
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp sử dụng trong phân
loại ảnh vệ tinh
Phân loại ảnh số là một tiến trình nằm khái
quát hóa một tập hợp lớn các dữ liệu theo một
hay nhiều phương pháp nằm phân biệt các đối
tượng với nhau dựa trên một số mô hình giả
định. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định
các ranh giới hay sự thay đổi của các lớp phủ
sử dụng đất theo sự đồng nhất về thuộc tính
phổ trong không gian, và chuyển đổi các
thông tin đó thành dạng dữ liệu thông qua Hệ
thống thông tin địa lý (GIS) (Blaschke T.,
2010). Do hầu hết các kỹ thuật phân loại sử
dụng giá trị pixel (pixel based image analysis)
thiếu khả năng tích hợp các thông tin về cấu
trúc, hình dạng hay mối quan hệ của đối tượng
sử dụng đất, kỹ thuật phân loại dựa vào đối
tượng (object based image analysis) được cho
là một giải pháp phân loại có tính chính xác
cao (Blaschke T. et al., 2010). Trong nghiên
cứu này, quá trình thành lập bản đồ được thực
hiện trên cơ sở sự hỗ trợ của phần mềm PCI
Geomatica 2017 (bản dùng thử). Bằng cách
phân loại trên cơ sở phân mảnh các đặc trưng
của đối tượng, quá trình phân tích và giải đoán
đối tượng được đơn giản hóa và phân tích chi
tiết hơn. Đồng thời, giải đoán đối tượng bằng
mắt cũng được tận dụng triệt để trong quá
trình chỉnh sửa sau phân loại, giúp nâng cao
hiệu quả của nghiên cứu.
3.1.1. Tiền xử lý ảnh
Quá trình tiền xử lý là một giai đoạn quan
trọng trong phân loại ảnh viễn thám, giúp khôi
phục các thông tin bức xạ và biến dạng hình
học của dữ liệu (Lillesand et al., 2008). Trong
nghiên cứu, các dữ liệu ảnh vệ tinh đa thời
gian được hiệu chỉnh bức xạ/ảnh hưởng khí
quyển về ảnh phản xạ thông qua phương pháp
COST (Cosine of the Solar Zenith Angle),
một biến thể của phương pháp loại trừ đối
tượng tối (DOS - Dark Object Subtraction)
(Chavez, 1996). Phương pháp này giúp bù lại
các thành phần phụ của khí quyển, mà chủ yếu
là đối tượng có bước sóng ngắn nhất của ảnh
(Chavez, 1988). Từ đây, các dữ liệu ảnh vệ
tinh được hiệu chỉnh hình học dựa trên mối
quan hệ giữa tọa độ các điểm trên ảnh và trên
hệ tọa độ WGS84-Zone 48N, với sai số của độ
chính xác nhỏ hơn 0,5 pixel. Các dữ liệu này
cuối cùng được cân bằng phổ về cùng một
thời điểm nhằm loại bỏ những khác biệt môi
trường tới giá trị bức xạ phổ cho mục tiêu
đánh giá biến động.
3.1.2. Phương pháp phân loại dựa vào đối tượng
Trong những năm gần đây, phương pháp
phân loại dựa vào đối tượng (object-based) đã
cho thấy ưu thế so với các phương pháp phân
loại sử dụng giá trị của pixel (pixel-based)
trên các phương diện: phân tích hình ảnh đa tỷ
lệ (Hay & Castilla, 2008), giảm thiểu sự xuất
hiện của các đối tượng thay đổi nhỏ và nhầm
lẫn (Chen et al., 2012), phát hiện biến động
của các đối tượng tốt hơn (Myint et al., 2011).
Quá trình phân mảnh (segmentation) các đối
tượng được thực hiện trên cơ sở tùy chỉnh các
giá trị tham số về hình dạng (shape), độ chặt
(compactness), tỷ lệ (scale) – những yếu tố
quan trọng tác động trực tiếp tới kích thước
của mỗi đối tượng ảnh. Tùy vào từng độ phân
giải không gian của ảnh, kích thước của từng
đối tượng cũng như độ chính xác của kết quả
phụ thuộc chặt chẽ vào quá trình này. Sau
nhiều lần thử nghiệm, kết quả phân mảnh của
ảnh đã lựa chọn các tham số Scale (30), Shape
(0.8) và Compactness (0.5) nhằm giảm thiểu
sự nhầm lẫn giữa các đối tượng.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 75
Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu và thử nghiệm lựa chọn các thông số phân đoạn ảnh
3.1.3. Chỉnh sửa sau phân loại và đánh giá
tính chính xác của kết quả phân loại
Quá trình đánh giá kết quả phân loại được
thực hiện thông qua quá trình thống kê số lượng
các điểm nhầm lẫn giữa các lớp phủ sử dụng đất
riêng lẻ. Các mẫu kiểm tra được giả định rằng
các đối tượng phân bố đều trong toàn bộ khu
vực nghiên cứu, và được kiểm tra bằng sai số
tổng thể. Ngoài ra, để gia tăng độ chính xác của
kết quả phân loại, các mảnh rời rạc được tiếp
tục sàng lọc và đối chiếu với điểm chìa khóa
giải đoán trên ảnh nhằm sửa một số nhầm lẫn
giữa các lớp đối tượng sử dụng đất, loại bỏ các
mảnh pixel nhỏ không mong muốn hoặc các
pixel đơn lẻ sai cũng được lọc ra.
3.1.4. Đánh giá biến động sử dụng đất trên
cơ sở phân tích độ đo cảnh quan
Quá trình đánh giá tính biến động của các
đối tượng sử dụng đất trên ảnh được xác định
thông qua so sánh các thông tin sử dụng đất đa
thời gian (Linke et al., 2009). Trên cơ sở sử
dụng một dữ liệu thời điểm ban đầu làm cơ sở,
các kết quả phân loại tiếp theo được sử dụng
để phân tích sự thay đổi của đối tượng sử
dụng đất (Toure et al., 2016). Bằng cách này,
độ chính xác tổng thể của quá trình phân loại
sử dụng đất đạt được ở mức cao hơn so với
thông thường (Yu et al., 2016). Cách tiếp cận
OBIA chỉ tập trung vào các vị trí có thay đổi
nhờ quá trình phân mảnh (segmentation),
khiến quá trình đánh giá biến động cải thiện
được tính chính xác và hiệu quả; đặc biệt là tại
khu vực đất đô thị (Toure et al., 2018).
Bảng 2. Hệ thống các độ đo cảnh quan sử dụng trong nghiên cứu
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 76
Ngoài ra, quá trình đánh giá biến động được
xác định thông qua phân tích số liệu mô tả định
lượng thành phần và cấu trúc của đối tượng
trong không gian. Dựa trên các độ đo cảnh
quan, một tập hợp các số liệu định lượng sẽ
cung cấp một phương thức tiếp cận hiệu quả để
đánh giá những thay đổi đó. Trong nghiên cứu
này, các độ đo cảnh quan được thể hiện qua hai
nhóm chính(Forman, 1995; Phạm Minh Tâm &
Nguyễn An Thịnh, 2014): (i) Lớp độ đo độ
phong phú: là một tập hợp các độ đo cảnh quan
được xây dựng dựa trên các biến về số lượng và
kiểuloại nơi sống trong cảnh quan nhằm định
lượng hiệu ứng độ phong phú của mảnh rời rạc;
(ii)Lớp độ đo diện tích/biên/hình thái/mật độ
mảnh rời rạc: là tập hợp các độ đo cảnh quan sử
dụng các thông số cơ bản về diện tích, chu vi và
số lượng mảnh rời rạc cho mục đích định lượng
những hiệu ứng sinh thái quan trọng của các
mảnh rời rạc. Các độ đo này được tính toán
bằng phần mềm Fragstats 4.2 với dữ liệu đầu
vào được xử lý trong môi trường GIS
(McGarigal et al., 2012).
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Bản đồ lớp phủ sử dụng đất cho khu
vực tỉnh Điện Biên giai đoạn 2002 - 2017
Trên cơ sở phân loại dữ liệu ảnh vệ tinh
Landsat khu vực tỉnh Điện Biên giai đoạn
(2002 - 2017), các lớp phủ sử dụng đất (được
mô tả trong Bảng 1) được đánh giá chi tiết về
độ chính xác của kết quả phân loại và thể hiện
tại Bảng 3.
Bảng 3. Độ chính xác kết quả phân loại của mỗi lớp (Đơn vị: %)
Các lớp (Rừng TN, Rừng trồng, Dân cư và
Mặt nước)đều có độ chính xác phân loại trung
bình đều vượt quá 80%. Các lớp (Cây bụi, Đất
NN và Đất trống) dường như gặp vấn đề nhần
lẫn trong việc phân loại, đặc biệt là lớp Đất NN
kết quả phân loại cho thấy độ chính xác trung
bình chỉ đạt 77.95%.
Thông tin lớp phủ mặt đất của tỉnh Điện Biên
được chiết xuất từ ảnh viễn thám theo phương
pháp phân loại dựa trên đối tượng. Kết quả phân
loại này đã được hiệu chỉnh sau khi đi thực địa,
và được thành lập thành bản đồ LULC giai đoạn
2002 -2017.
Hình 2. Kết quả phân loại LULC cho tỉnh
Điện Biên giai đoạn 2002-2017
Bảng 4. Ma trận biến động LULC tỉnh Điện Biên giai đoạn 2002 - 2017
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 77
Diện tích Rừng trồng và Rừng tự nhiên có xu
hướng giảm đi lần lượt là 42,506.9 (ha); 86,474.3
(ha). Trung bình mỗi năm giảm đi 2,833.79
(ha)/năm đối với Rừng trồng, và 5,764.95
(ha)/năm đối với Rừng tự nhiên. Các đối tượng
LULC có xu hướng tăng nhanh như: diện tích Cây
bụi tăng 90,770.58 (ha); diện tích Dân cư tăng
6,586.83 (ha) và diện tích Đất nông nghiệp tăng
30,102.03 (ha). Diện tích Đất trống và Mặt nước
có cùng xu hướng tăng tương tự tuy nhiên mức độ
tăng chậm 40.41 (ha)/năm đối với Đất trống, và
61.03 (ha)/năm đối với diện tích Mặt nước. Nhìn
chung qua số liệu tính toán ma trận chuyển đổi
giữa các loại hình LULC (Bảng 5), nhận thấy rằng
diện tích Rừng tự nhiên có xu hướng giảm và
chuyển đổi chủ yếu sang diện tích Rừng trồng là
77,785 (ha), Cây bụi là 5,382 (ha), Nông nghiệp là
2,354 (ha) và Dân cư là 556 (ha). Diện tích Cây
bụi tăng lên do chuyển đổi chủ yếu từ diện tích
Rừng trồng là 85,692 (ha) và một phần diện tích
của Rừng tự nhiên là 5,382 (ha). Rừng trồng
chuyển đổi một phần sang diện tích Nông nghiệp
và Dân cư có diện tích lần lượt là 29,427 (ha) và
4,283 (ha). Điều này xuất phát từ chính nhu cầu
mở rộng đất sản xuất của dân cư địa phương. Một
số các LULC còn lại (Mặt nước và Đất trống)
không có sự chuyển đổi nào đáng kể trong giai
đoạn 2002 - 2017.
4.2. Phân tích xu thế biến đổi lớp phủ sử
dụng đất khu vực tỉnh Điện Biên giai đoạn
2002 - 2017 trên cơ sở độ đo cảnh quan
Kết quả nghiên cứu được tính toán cho hai hệ
thống độ đo là lớp cảnh quan (Class) và toàn bộ
cảnh quan (Landscape) với Cell size là 30.
Bảng 5. Thống kê các chỉ số cảnh quan đối với từng lớp đối tượng
và toàn bộ CQ khu vực tỉnh Điện Biên giai đoạn 2002-2017
Xu thế suy giảm diện tích rừng của tỉnh
Điện Biên trong giai đoạn này được thể hiện
qua sự gia tăng mật độ độ giàu mảnh rời rạc
(PRD). Đối với giá trị PRD, xu hướng gia
tăng của rừng tự nhiên từ 0.0514 (năm 2002)
lên 0.0651 (năm 2017); và rừng trồng từ
0.0382 (năm 2002) lên mức 0.0537 (năm
2017). Cả hai đối tượng này đều có giá trị
PRD cao gấp nhiều lần so với mức trung bình
của toàn cảnh quan (PRD = 0.0007). Điều này
cho thấy số lượng kiểu các đối tượng/mảnh rời
rạc xuất hiện trên cùng một đơn vị diện tích
tăng lên, đồng nghĩa với giá trị trung bình
kích thước mảnh rời rạc (MPS) sẽ suy giảm.
Nếu như năm 2002, giá trị MPS lần lượt là
1942.17 (rừng tự nhiên) và 2613.86 (rừng
trồng); thì tới năm 2017, giá trị MPS chỉ còn
1535.41 đối với rừng tự nhiên và 1859.73 đối
với rừng trồng. Mật độ biên (ED) đối với rừng
tự nhiên giảm từ 4.96 (năm 2002) còn 3.15
(năm 2017) trong khi chỉ số hình dạng LSI
giảm từ 26.43 (năm 2002) còn 24.65 (năm
2017). Điều này chỉ ra sự “biến mất” của các
khoảnh rừng tự nhiên trong giai đoạn này. Đối
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 78
với rừng trồng, mật độ biên (ED) gia tăng từ
10.94 lên mức 12.04, kéo theo sự thay đổi của
LSI từ 38.98 còn 27.55 đã cho thấy: xu hướng
gia tăng chiều dải của mảnh nhưng hình dạng
mảnh trở nên đơn giản hơn là minh chứng rõ
ràng cho xu thế phân mảnh của rừng trồng
cũng như sự xâm lấn của các đối tượng khác
(hình dạng thay đổi đơn giản hơn). Các chỉ số
cảnh quan của cây bụi và nông nghiệp cho
thấy một xu thế hoàn toàn đối lập đối với sự
thay đổi của rừng tự nhiên. Điều này đã và
đang cho thấy quá trình chuyển đổi mục đích
sử dụng đất từ rừng tự nhiên sang các loại đất
khác tuy có cường độ thấp hơn nhưng ở giai
đoạn cuối của quá trình biến đổi. Trong khi,
quá trình này diễn ra đối với đất rừng trồng có
cường độ mạnh hơn nhưng đang ở giai đoạn
đầu của sự biến đổi này.
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu tập trung đánh giá quá trình
biến đổi lớp phủ/sử dụng đất cho khu vực
thành phố Điện Biên giai đoạn 2002 - 2017
trên cơ sở sử dụng dữ liệu viễn thám là một
cách tiếp cận hiệu quả trong giám sát, quản lý
và quy hoạch lãnh thổ. Trên cơ sở phân tích
định lượng các kết quả phân loại, xu thế suy
giảm diện tích rừng tự nhiên (5,764.95
ha/năm) và diện tích rừng trồng (2,833.79
ha/năm) diễn ra song hành với sự gia tăng
của diện tích đất nông nghiệp (2,508.5
ha/năm) và cây bụi (7,564.16 ha/năm). Quá
trình này được thể hiện rõ trong mối quan hệ
tỷ lệ thuận của 06 chỉ số cảnh quan (MPS,
ED, TLA, NP, PD, LSI) và tỷ lệ nghịch của
chỉ số PRD. Những biến động này đã và đang
tạo ra các nguy cơ tiêu cực về tự nhiên, kinh
tế-xã hội và môi trường của khu vực, đe dọa
tới mục tiêu phát triển bền vững của lãnh thổ
trong tương lai. Đây được coi là một cách
tiếp cận định lượng hiệu quả nhằm theo dõi
xu thế biến động của đối tượng/lớp phủ sử
dụng đất, phù hợp cho nhiều quy mô lãnh thổ
và đa thời gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phạm Minh Tâm, Nguyễn An Thịnh (2014), Phân tích đa dạng cảnh quan huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Kỷ
yếu Hội nghị Khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ VIII. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11/2014, quyển 1.
Banzhaf, E., V. Grescho, and A. Kindler (2009). Monitoring urban to peri-urban development with
integrated remote sensing and GIS information: a Leipzig, Germany case study. International Journal
of Remote Sensing 30 (7): 1675–1696. doi:10.1080/01431160802642297.
Bhatta, B. (2009), Analysis of urban growth pattern using remote sensing and GIS: a case study of
Kolkata, India. International Journal of Remote Sensing 30 (18): 4733–4746.
doi:10.1080/01431160802651967
Blaschke T., (2010), Object based image analysis for remote sensing, ISPRS Journal of Photogrammetry
and Remote Sensing, Volume 65, Issue 1, Pages 2-16.
Chavez, P.S. (1988), An improved dark-object subtraction technique for atmospheric scattering correction
of multispectral data, Remote Sens. Environ., 24, 459–479.
Chavez, P.S. (1996), Image-based atmospheric corrections-revisited and improved, Photogramm. Eng.
Remote Sens., 62, 1025–1036.
Chen, G., Hay, G.J., Carvalho, L.M., Wulder, M.A., (2012), Object-based change detection, Int. J.
Remote Sens. 33 (14), 4434–4457.
Debolini, M., E. Valette, M. Francois, J. P. Chéry (2015), Mapping land use competition in the rural–
urban fringe and future perspectives on land policies: A case study of Meknès (Morocco). Land Use
Policy 47: 373–381. doi: 10.1016/j.landusepol.2015.01.035.
Forkuor, G., O. Cofie (2011), Dynamics of land-use/land-cover change in Freetown Sierra Leone and its
effects on urban and peri-urban agriculture–A remote sensing approach. International Journal of
Remote Sensing 32 (4): 1017–1037. doi:10.1080/01431160903505302.
Forman R.T.T. (1995), Land Mosaics: The Ecology of Landscapes and Regions.Cambridge University
Press, 632 pages.
Franz J. Heidhüs, Ludger Herrmann, Andreas Neef, Sybille Neidhart, Jens Pape, Pittaya Sruamsiri, Dao
Chau Thu, Anne Vallé Zarate (2007), Sustainable Land Use in Mountainous Regions of Southeast
Asia: Meeting the Challenges of Ecological, Socio-Economic and Cultural Diversity. Springer-Verlag
Berlin Heidelberg, 404 pages.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 79
Grimm, N. B., S. H. Faeth, N. E. Golubiewski, C. L. Redman, J. Wu, X. Bai, J. M. Briggs. (2008), Global
change and the ecology of cities. Science 319: 756–760. doi:10.1126/science.1150195.
Hay, G.J., Castilla, G., (2008), Geographic object-based image analysis (GEOBIA): a new
name for a new discipline, Object-Based Image Analysis, 75–89.
Herold, M., N.C. Goldstein, K.C. Clarke (2003), The spatiotemporal form of urban growth: measurement,
analysis and modelling. Remote Sensing of Environment 86 (3): 286–302. doi:10.1016/S0034-
4257(03)00075-0.
Lillesand, T.M., Kiefer, R.W., Chipman, J.W., (2008), Remote Sensing and Image Interpretation, 6th
Edition, John Wiley & Sons, Hoboken.
McGarigal, K., Cushman, S. A., Neel, M. C., Ene, E. (2002), FRAGSTATS: spatial pattern analysis
program for categorical maps. Computer software program produced by the authors at the University
of Massachusetts, Amherst.
Mundia, C. N., Y. Murayama (2010), Modelling spatial processes of urban growth in African cities: a
case study of Nairobi City. Urban Geography 31 (2): 259–272.
Myint, S.W., Gober, P., Brazel, A., Grossman-Clarke, S., Weng, Q., (2011), Per-pixel vs. object-based
classification of urban land cover extraction using high spatial resolution imagery, Remote Sens.
Environ. 115 (5), 1145–1161.
Roy P.S., Arijit Roy (2010), Land use and land cover change in India: A remote sensing & GIS
prespective. Journal of the Indian Institute of Science, Vol 90:4, 489-501.
Shafiq U.M., Abaas A. Mir, Pervez Ahmed, Parvaiz A. Bhat (2016), Landuse/ Land cover Analysis in
Hamal Watershed of North western Himalaya's using Remote Sensing & GIS, International Research
Journal of Engineering and Technology(IRJET), Volume 03, Issue 04, 2799-2805.
Toure, S., Stow D., Shih, H.C.,Weeks, J., Lopez-Carr D. (2018), Land cover and land use change analysis using multi-
spatial resolution data and object-based image analysis, Remote Sensing of Environment 210, 259–268.
Worboys, G., Lockwood, M., Kothari, A., Feary, S., & Pulsford, I. (Eds.)., (2015), Protected Area
Governance and Management. ANU Press.
Yu Ding, Jian Peng (2018), Impacts of Urbanization of Mountainous Areas on Resources and
Environment: Based on Ecological Footprint Model. Sustainability, 10(3), 765.
Abstract:
QUANTITATIVE ASSESSMENT OF LAND USE/LAND COVER CHANGE THROUGH
MULTI-TEMPORAL REMOTE SENSED DATA IN DIEN BIEN PROVINCE, VIETNAM
Land use/land cover (LULC) change is one of the significant modifications in the socio-economic
development process. Especially in moutainous areas – where the information about the temporal-
spatial characteristic changes of land resources is the basic tool for efficiently natural-resource
monitoring, management and planning. Based on the use of remote sensing tools, the information
on land use objectsis generally described the changes in the GIS environment. This study is used the
object-based image classification in Dien Bien province in the period of 2002–2017. The
characteristics of land use/land cover objects are expressed through the statistical results of 07
landscape metrics. The results described the increasing area of shrubland (90,770.58ha),
agriculture (30,102.03 ha) and the declining of plantation forest (42,506.9 ha), natural forest
(86,474.3 ha)which comes mainly from the rising demand for agricultural production. The
landscape metrics of MPS, ED, TLA, NP, PD, LSI, PRD has demonstrated this modification. It is
considered that this approach become an effective approach in identifying land use changewhich is
appropriate for many territorial and multi-temporal dimensions.
Keywords: quantitative assessment, land use/land cover, remote sensed data, landscape metrics,
Dien Bien.
Ngày nhận bài: 31/7/2018
Ngày chấp nhận đăng: 19/9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37933_121682_1_pb_4665_2092595.pdf