Chất lượng cuộc sống và thời gian cho một
lần đi tái khám.
Mỗi lần đi tái khám tại y tế cơ sở trẻ cần phải
nghỉ học, bố (mẹ) nghỉ làm để đưa trẻ đi khám
bệnh, thời gian cho một lần định kỳ tái khám
trung bình 1lần/tháng trong suốt thời gian bị
bệnh. Điều này đòi hỏi tính kiên trì của trẻ và gia
đình để có thể tuân thủ đúng. Trong nghiên cứu
của P.T.Huyền (2003) đánh giá về tuân thủ điều
trị- tái khám định kỳ của trẻ bị HCTH tại Bệnh viện
Nhi Đồng I cho thấy có tới 58% trẻ đã từng bỏ tái
khám ít nhất 1 lần và lý do bỏ tái khám thường
gặp: 56,4% - bố mẹ bận công việc riêng, 24,5% -
kinh tế khó khăn (1). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, phần lớn trẻ và gia đình mất ít nhất 1 ngày/
lần tái khám tại bệnh viện (87/128= 68%). Và
vẫn còn một số ít phải nghỉ học từ trên 3 ngày
(16/128=12,5%)/lần tái khám tại Bệnh viện Nhi
TW (bảng 2) có thể do trẻ mắc tình trạng bệnh
lý phức tạp (thể tái phát nhiều, kháng thuốc),
hoặc trẻ ở các vùng miền xa trung tâm y tế lớn
(phương tiện giao thông thô sơ, điều kiện kinh tế
gia đình khó khăn) cần được điều trị và chăm sóc
y tế theo dịch vụ bảo hiểm y tế. Những trẻ này có
CLCS suy giảm hơn gấp 6,51 lần so với nhóm trẻ
nghỉ học 1 ngày/lần tái khám với điểm trung bình
CLCS chung rất cao (30, 6 ± 7,41) (p=0,001) (bảng
2). Tại nhóm trẻ này thì tỷ lệ bỏ tái khám cao, tuân
thủ điều trị kém, nên kết quả điều trị thường xấu.
Vì vậy, để cải thiện CLCS của trẻ HCTH cần đơn
giản hóa các thủ tục hành chính trong những
lần tái khám, nâng cao năng lực y tế tuyến cơ sở
có thể quản lý được nhóm bệnh này tại từng địa
phương, để hạn chế việc đi lại của trẻ và gia đình,
ảnh hưởng tới học tập, sinh hoạt của trẻ và người
chăm sóc trẻ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng cuộc sống ở trẻ hội chứng thận hư tiên phát tại bệnh viện nhi trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 2
34
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng thận hư (HCTH) là bệnh cầu thận
hay gặp nhất trong nhóm bệnh lý cầu thận trẻ
em tại bệnh viện nhi TW. Theo nghiên cứu của
T.Đ.Long tại khoa Thận - tiết niệu Bệnh viện Nhi
TW (1981-1990) trẻ bị HCTH chiếm 46,6% số bệnh
nhân điều trị nội trú (2). Trong đó trẻ bị HCTH tiên
phát chiếm tới 91%, tỷ lệ tái phát bệnh 55-60%
cùng nhiều biến chứng nặng như truỵ mạch do
giảm áp lực keo, tắc mạch, nhiễm trùng... (2,4,6).
Do đặc thù của bệnh, cùng các tác dụng phụ
không mong muốn của thuốc điều trị đã gây ra
tâm lý lo lắng, chán nản khiến cho trẻ và gia đình
không những mệt mỏi về thể chất mà còn mệt
mỏi cả về tinh thần ảnh hưởng đến tuân thủ và
kết quả điều trị.
Theo WHO: Sức khỏe không chỉ có khỏe mạnh
về thể chất, không có bệnh tật mà còn thoải mái
cả về tinh thần (8). Chính vì vậy, ngày nay ngoài
việc điều trị tốt bệnh mạn tính thì chất lượng
cuộc sống (CLCS) liên quan đến sức khỏe của
người mắc bệnh mạn tính cũng ngày càng được
thầy thuốc lâm sàng quan tâm.
Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về nguyên
nhân, dịch tễ, chẩn đoán và điều trị bệnh HCTH
nhưng chưa có nghiên cứu nào về CLCS của trẻ bị
HCTH tiên phát. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài
này với mục tiêu: Nghiên cứu CLCS của trẻ bị hội
chứng thận hư tiên phát tại bệnh viện Nhi TW.
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở TRẺ
HỘI CHỨNG THẬN HƯ TIÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Dương Thị Thanh Bình*, Nguyễn Thu Hương*, Nguyễn Thị Quỳnh Hương**
*Khoa Thận và Lọc máu - Bệnh viện Nhi TW
**Bộ môn Nhi Trường ĐH Y Hà Nội
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hội chứng thận hư tiên phát là bệnh mạn tính, tỷ lệ tái phát cao, thời gian điều trị
kéo dài nên ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị và chất lượng cuộc sống của trẻ.
Đối tượng nghiên cứu: 128 trẻ Hội chứng thận hư > 6 tuổi tại BV Nhi TW từ tháng 01/03 -
30/09/2013 đến khám tại phòng khám chuyên khoa Thận - Bệnh viện Nhi TW được đánh giá
chất lượng cuộc sống bằng thang điểm PedsQL 4.0.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Kết quả: Điểm trung bình chất lượng cuộc sống tương quan tuyến tính thuận với thời gian
mắc bệnh (p< 0,05). Điểm trung bình chất lượng cuộc sống nhóm đang điều trị cao hơn nhóm
ngừng điều trị. Trẻ phải nghỉ học >3 ngày cho 1 lần tái khám có điểm trung bình chất lượng cuộc
sống rất cao (30,6 + 17,41) p = 0,001.
Kết luận: Thời gian bị bệnh kéo dài tương quan thuận - điểm trung bình CLCS.
CLCS của trẻ phải nghỉ học > 3 ngày suy giảm hơn trẻ nghỉ học dưới 3 ngày.
Từ khóa: Hội chứng thận hư, chất lượng cuộc sống, thang điểm PedsQL 4.0
35
PHẦN NGHIÊN CỨU
Chưa bao giờ Rất ít khi Thỉnh thoảng Thường gặp Thường xuyên
0 điểm 1 điểm 2 điểm 3 điểm 4 điểm
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Tuổi: từ 6 -18 tuổi, biết đọc, nói và hiểu được
tiếng Kinh.
- Tái khám đều tại phòng khám chuyên khoa
Thận- Bệnh viện Nhi TW.
2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân bị HCTH thứ phát.
- Bố, mẹ hoặc trẻ được chẩn đoán rối loạn tâm
thần, chậm phát triển tâm thần.
+ Trẻ kèm rối loạn chức năng vận động, dị tật
bẩm sinh phối hợp.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang có phân tích so sánh.
3.2. Cỡ mẫu: cỡ mẫu thuận lợi trong thời gian
từ tháng 01/3/2013 - 30/9/2013.
- Đánh giá CLCS: Sử dụng thang đánh giá chất
lượng sống liên quan đến sức trẻ em PedsQL
4.0- Varni (2007)(7) phỏng vấn trực tiếp trẻ bị
bệnh HCTH đủ tiêu chuẩn lựa chọn. Thang điểm
gồm 23 câu hỏi thuộc 4 lĩnh vực về: hoạt động
thể chất; cảm xúc; quan hệ bạn bè - xã hội, học
tập của trẻ trong một tháng qua. Các mức độ khó
khăn đánh giá theo điểm từ 0-4 (tần suất gặp các
triệu chứng khó khăn/ tháng).
Điểm đánh giá khó khăn về CLCS chung bằng
tổng điểm đánh giá của 4 lĩnh vực riêng. Tổng
điểm càng cao biểu hiện mức độ khó khăn chung
càng cao, đồng nghĩa với CLCS của trẻ càng thấp.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm EPSS 16
áp dụng các thuật toán tính tỷ lệ %, tỷ lệ trung
bình, so sánh các tỷ lệ trung bình, tính p, tính hệ
số tương quan tuyến tính r.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 01/03/2013 - 30/09/2013 chúng tôi
nghiên cứu 128 trẻ > 6 tuổi mắc HCTH tiên phát
tại phòng khám chuyên khoa Thận - Bệnh viện
Nhi TW.
* Chất lượng cuộc sống của trẻ bị hội chứng
thận hư tiên phát
Bảng 1. Điểm trung bình QOL của trẻ bị HCTH tiên phát
Hoạt động thể chất Cảm xúc Quan hệ bạn bè & XH Học tập QOL chung
HCTH (n = 128) 7,64 ± 7,13 5,46±3,9 4,76 ±3,28 7,6 ±5,71 22, 96 ±14,96
Đang điều trị ( 72,7 %) 7,1± 7,2 4,8 ± 3,9 2,8 ± 3,4 7,1 ± 3,9 20,8 ± 15,1
Ngừng điều trị (17, 3%) 4,5 ± 5,6 3,7 ± 3,4 2,9 ± 3,1 5,1 ± 4,0 16,3 ± 13,2
Nhận xét: Khó khăn về các lĩnh vực thể chất và lĩnh vực học tập có điểm cao.
Điểm trung bình CLCS nhóm đang điều trị (20,8 ± 15,1) cao hơn nhóm ngừng điều trị (16,3 ± 13,2)
( p>0,05).
* Chất lượng cuộc sống trẻ mắc HCTH và một số đặc điểm chung
- Chất lượng cuộc sống và thời gian mắc bệnh HCTH
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 2
36
Biểu đồ 1. Điểm trung bình CLCS và thời gian mắc bệnh HCTH
Nhận xét: Điểm trung bình CLCS có mối tương quan tuyến tính thuận với thời gian mắc bệnh HCTH
với r= 0, 52, p < 0, 05.
- Chất lượng cuộc sống với số ngày nghỉ học cho 1 lần đi tái khám.
Bảng 2. Điểm trung bình CLCS - số ngày nghỉ học cho 1 lần đi tái khám
Số ngày nghỉ học Điểm trung bình CLCS SD p Or (CI)
1 ngày (n= 87) 18,10 13,51
<0,05
6,51
3,57-10,46
P = 0,001
2 ngày (n= 25) 18,56 14,07
Từ trên 3 ngày (n= 16) 30,63 17,41
Tổng (n =128) 21, 96 14,96
Nhận xét: Trẻ phải nghỉ học từ trên 3 ngày/ 1 lần tái khám có điểm trung bình CLCS rất cao (30,6 +
17,41) với p = 0,001 (ANOVA-test).
5. BÀN LUẬN
* Chất lượng sống của trẻ bị hội chứng thận
hư tiên phát
Nếu so sánh với nhóm trẻ mắc ung thư tại
Bệnh viện Nhi TW trong nghiên cứu của N.T.Mai
(2011) (3) áp dụng cùng bộ câu hỏi PedsQL 4.0
thì nhóm trẻ mắc HCTH tiên phát trong nghiên
cứu của chúng tôi ít gặp khó khăn hơn nhóm trẻ
bị bệnh ung thư trong các lĩnh vực về hoạt động
37
PHẦN NGHIÊN CỨU
thể chất, cảm xúc, quan hệ bạn bè- xã hội, học
tập. Tuy nhiên so với nhóm trẻ khỏe mạnh, thì trẻ
bị HCTH tiên phát có CLCS suy giảm hơn nhiều.
Điểm trung bình CLCS liên quan đến sức khỏe
hoạt động thể chất, cảm xúc, quan hệ bạn bè -xã
hội, học tập trong kết quả nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn nhóm trẻ bị bệnh viêm khớp, bệnh
hen phế quản, đái tháo đường trong nghiên cứu
của Varni (2007) (7) và nhóm trẻ bị bệnh HCTH
trong nghiên cứu của IKa Tara (2011) (5) do quần
thể dân số nghiên cứu khác nhau.
- Tình trạng điều trị
Trong nhóm bệnh nhân tham gia vào nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhóm trẻ đang trong
quá trình điều trị cao chiếm 72,7% do Bệnh viện
Nhi TW là tuyến y tế đầu ngành về nhi khoa nên
tập trung nhiều trẻ thuộc nhóm HCTH tái phát,
kháng thuốc nên tỷ lệ trẻ được ngừng thuốc còn
ít. Kết quả nghiên cứu ở nhóm trẻ bị bệnh HCTH
được ngừng điều trị có điểm trung bình CLCS
thấp hơn nhóm trẻ đang điều trị, tương đương
điểm trung bình CLCS của nhóm trẻ khỏe mạnh
trong nghiên cứu của N.T.Mai (2011) (3). Mặc dù
trẻ vẫn cần đến cơ sở y tế tái khám theo hẹn để
kiểm tra sức khỏe định kỳ, nhưng với việc trẻ
không bắt buộc phải uống thuốc, ít phải thực
hiện xét nghiệm máu, và các sinh hoạt thường
ngày được duy trì nên sức khỏe về tâm lý, xã hội
của trẻ thoải mái hơn.
- Về thời gian mắc bệnh
Thời gian mắc bệnh trung bình của nhóm
nghiên cứu là 3,6 ± 2,6 năm, trẻ mắc bệnh lâu
nhất 14 năm, điểm trung bình CLCS có mối
tương quan thuận với thời gian bị bệnh HCTH
(y= 6.1x + 2,2 với r= 0,52, p < 0,05) (biểu đồ 1).
Kết quả nghiên cứu này có thể giải thích bằng giả
thiết sau: những trẻ mắc bệnh ngắn dưới 1 năm
thường là bệnh khởi phát, hoặc trẻ thuộc nhóm
nhạy cảm corticoid, chưa xuất hiện nhiều các tác
dụng phụ của thuốc điều trị nên ít ảnh hưởng tới
cảm xúc, xã hội, học tập của trẻ so với nhóm trẻ
bị bệnh lâu năm. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu IKa Tara
(2011) trẻ có thời gian điều trị > 6 tháng có CLCS
thấp hơn nhóm trẻ dưới 6 tháng (5).
* Chất lượng cuộc sống và thời gian cho một
lần đi tái khám.
Mỗi lần đi tái khám tại y tế cơ sở trẻ cần phải
nghỉ học, bố (mẹ) nghỉ làm để đưa trẻ đi khám
bệnh, thời gian cho một lần định kỳ tái khám
trung bình 1lần/tháng trong suốt thời gian bị
bệnh. Điều này đòi hỏi tính kiên trì của trẻ và gia
đình để có thể tuân thủ đúng. Trong nghiên cứu
của P.T.Huyền (2003) đánh giá về tuân thủ điều
trị- tái khám định kỳ của trẻ bị HCTH tại Bệnh viện
Nhi Đồng I cho thấy có tới 58% trẻ đã từng bỏ tái
khám ít nhất 1 lần và lý do bỏ tái khám thường
gặp: 56,4% - bố mẹ bận công việc riêng, 24,5% -
kinh tế khó khăn (1). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, phần lớn trẻ và gia đình mất ít nhất 1 ngày/
lần tái khám tại bệnh viện (87/128= 68%). Và
vẫn còn một số ít phải nghỉ học từ trên 3 ngày
(16/128=12,5%)/lần tái khám tại Bệnh viện Nhi
TW (bảng 2) có thể do trẻ mắc tình trạng bệnh
lý phức tạp (thể tái phát nhiều, kháng thuốc),
hoặc trẻ ở các vùng miền xa trung tâm y tế lớn
(phương tiện giao thông thô sơ, điều kiện kinh tế
gia đình khó khăn) cần được điều trị và chăm sóc
y tế theo dịch vụ bảo hiểm y tế. Những trẻ này có
CLCS suy giảm hơn gấp 6,51 lần so với nhóm trẻ
nghỉ học 1 ngày/lần tái khám với điểm trung bình
CLCS chung rất cao (30, 6 ± 7,41) (p=0,001) (bảng
2). Tại nhóm trẻ này thì tỷ lệ bỏ tái khám cao, tuân
thủ điều trị kém, nên kết quả điều trị thường xấu.
Vì vậy, để cải thiện CLCS của trẻ HCTH cần đơn
giản hóa các thủ tục hành chính trong những
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 2
38
lần tái khám, nâng cao năng lực y tế tuyến cơ sở
có thể quản lý được nhóm bệnh này tại từng địa
phương, để hạn chế việc đi lại của trẻ và gia đình,
ảnh hưởng tới học tập, sinh hoạt của trẻ và người
chăm sóc trẻ.
6. KẾT LUẬN
Thời gian bị bệnh kéo dài có mối tương quan
thuận với điểm trung bình CLCS của trẻ bị HCTH
tiên phát.
Chất lượng cuộc sống của nhóm trẻ có thời
gian nghỉ học trên 3 ngày cho 1 lần tái khám suy
giảm hơn hẳn nhóm trẻ nghỉ học dưới 3 ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Thanh Huyền (2003), Kiến thức,
thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ bị hội
chứng thận hư tại Bệnh viện Nhi đồng 2, Luận văn
thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Trần Đình Long, Lê Nam Trà, Đỗ Bích Hằng
(1991). Tình hình bệnh thận tiết niệu của trẻ em
được điều trị tại Viện Nhi 1981 - 1990. Kỷ yếu công
trình Nhi khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương: 416-428.
3. Nguyễn Thanh Mai, Nguyễn Thu Lê (2011).
Nghiên cứu chất lượng cuộc sống trẻ bị Ung thư
trên 6 tuổi sau hơn một năm chẩn đoán và điều
trị. luận văn bác sĩ đa khoa, Trường Đại học Y
Hà Nội.
4. Lê Nam Trà, Trần Đình Long (2006). Hội
chứng thận hư, in Bài giảng Nhi khoa tập II, Nhà
xuất bản Y học Hà Nội: 155-167.
5. Ika Tara Rosita (2011). The differences
between the quality of life insteroid resistant
and relapse nephritic syndrome children.
Graduate medical education program faculty of
medicine, Diponegoro University, Indian.
6. Robert M. Kliegman, MD Priya Pais and Ellis
D.Avner (2011). Nephrotic syndrome. Nelson
textbook of pediatrics; edition19th.
7. Varni JW, Limbers CA, Burwinkle TM (2007).
Impaired health- related quality of life in children
and adolescents with chronic conditions:
a comparative analysis of 10 disease clusters
and 33 disease categories severities utilizing the
PedsQL TM 4.0 generic core Scales. Health and
Quality of Life Outcomes; 5: 43-58.
8. WHO - Burden of Disease unit (2001),
Workshop on Evidence for Health Policy: Burden
of disease, Cost- effectiveness and healthy
systems performance. Hanbook.
ABSTRACT
A STUDY OF QUALITY OF LIFE CHILDREN WITH NEPHROTIC SYNDROME
AT THE NATIONAL HOSPITAL PEDIATRIC
Background: Primary nephrotic syndrome is a chronic disease with a high rate of relapsing and
prolonged treatment. That can influence the compliance of treatment, as well as the quality of life of
patients.
Subjects: 128 children over 6 years old with nephrotic syndrome who were treated at the national
hospital of Pediatrics from 1st March to 30th September of 2013. Their quality of lives were evaluated
by the PedsQL™ 4.0.
39
PHẦN NGHIÊN CỨU
Method: This is a cross-sectional descriptive study
Results: There was a linear correlation between the average score of quality of life and the duration
of nephrotic syndrome (p <0.05). The averge score of quality of life of the treated group was higher
than the group which is stopped treatment. Children who missed school more than 3 days for one
visit had very high average score of the quality of life (30.6 + 17.41) p = 0,001.
Conclusion: Duration of illness lasting was positively correlated with the average score of quality
of life. Quality of life of children who missed school more than 3 days declined more than those off
school less than 3 days.
Keywords: Nephrotic syndrome, quality of life, Scales PedsQL™ 4.0.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_chat_luong_cuoc_song_o_tre_hoi_chung_than_hu_tien_p.pdf