Ngày nay, với nhiều tiến bộ vượt bậc của phẫu thuật
điều trị ung thư trực tràng thì phẫu Miles (cắt toàn bộ trực
tràng qua ngã tầng sinh môn và ngã bụng, làm hậu môn
nhân tạo vĩnh viễn) không còn là điều trị chuẩn duy nhất, tỉ
lệ áp dụng phẫu thuât này ngày càng giảm. Nhiều kĩ thuật
mới được ứng dụng như phẫu thuật nội soi, khâu nối máy,
cắt trước thấp hay cắt gian cơ thắt để bảo tồn cơ thắt hậu
môn và cắt u tại chỗ. Để ứng dụng được những tiến bộ
này và lập kế hoạch điều trị trước mổ phù hợp thì vai trò
của đánh giá giai đoạn ung thư trước mổ rất quan trọng
và cần thiết. Đánh giá chính xác giai trước mổ giúp xác
định chọn lựa phẫu thuật triệt để ngay từ đầu hay cần hóa
và xạ trị trước mổ để tăng tỉ lệ thành công của phẫu thuật,
tăng tỉ lệ bảo tồn cơ thắt cũng như kéo dài thời gian sống
thêm sau mổ và hạn chế tái phát [6],[9].
Siêu âm nội soi lòng trực tràng, chụp cắt lớp điện
toán và chụp cộng hưởng từ vùng chậu là ba phương
tiện chẩn đoán hình ảnh thường được sử dụng để đánh
giá giai đoạn ung thư trực tràng. Siêu âm nội soi lòng
trực tràng được xem như tiêu chuẩn vàng để đánh giá
những u ở bề mặt trực tràng với độ chính xác từ 71 -
81%, độ nhạy và độ đặc hiệu phát hiện hạch di căn 45
- 89% và 64 - 93%. Tuy nhiên, kĩ thuật này ít chính xác
đối với những u lớn hơn, có xâm lấn sâu hơn các lớp của
thành ruột. Đặc biệt, kĩ thuật này bị giới hạn khi đánh giá
mạc treo trực tràng, một yếu tố rất quan trọng trong điều
trị triệt căn ung thư trực tràng hiện nay. Ngoài ra, phương
tiện này còn tùy thuộc vào kĩ năng và kinh nghiệm khảo
sát của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh [1],[2],[3],[7].
Chụp cắt lớp điện toán có thể khắc phục những
hạn chế của siêu âm nội soi lòng trực tràng. Ngoài ra,
thời gian khảo sát của chụp cắt lớp điện toán nhanh
hơn, có thể khảo sát sự xâm lấn tại chỗ cũng như di căn
xa của ung thư trực tràng trong cùng một lần khảo sát.
Tuy nhiên, kĩ thuật này bị hạn chế khi đánh giá chính
xác các lớp của thành trực tràng và gây nhiễm xạ cho
bệnh nhân [3],[10].
Chụp cộng hưởng từ vùng chậu, đặc biệt với cuộn
thu nội lòng trực tràng có thể cho hình ảnh rõ nét về
cấu trúc giải phẫu của những cơ quan ở vùng chậu và
cho phép đánh giá tốt giai đoạn của ung thư trực tràng.
Theo những báo cáo gần đây, chụp cộng hưởng từ có
độ chính xác từ 71 - 91% khi đánh giá sự xâm lấn tại chỗ
của ung thư trực tràng. Độ nhạy và độ đặc hiệu phát hiện
hạch di căn của chụp cộng hưởng từ có cuộn thu nội
lòng trực tràng là 81 - 83% và 66 - 74% [4],[5],[6],[7],[8].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng bằng cộng hưởng từ: Kết quả 3 năm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 06 - 02 / 2012 115
nghiÊn CứU KhoA hỌC
scientific researcH
SUMMARy
ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN UNG THƯ TRỰC TRÀNG
BẰNG CỘNG HƯỞNG TỪ: KẾT QUẢ 3 NĂM
Preoperative staging of rectal cancer by pelvic mr
imaging: results after 3 years
Võ Tấn Đức*, Nguyễn Thị Thanh Thiên*, Phạm Công Khánh*
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Đại học Y Dược
TP. HCM
Introduction: Colorectal cancer is the most common cancer
of the gastrointestinal tract. Rectal cancer is the second most
common cancer in Vietnam. Preoperative staging of rectal cancer
has an important role to select the most appropriate treatment.
Purpose: To access the role of pelvic MR imaging in
preoperative staging of rectal carcinoma.
Materials and methods: Preoperative pelvic MRI of 110
patients with rectal cancer was performed in University Medical
Center at HCMC for 3 years. Staging was made by evaluating
images obtained and compared with postoperative histopathologic
staging.
Results: The accuracy of pelvic MR imaging for defining the
T stage of rectal cancer was 89%. The accuracy rate to detecting
lymph node metastases was 92.5%.
Conclusions: Pelvic MR imaging is a promising technique for
accurate preoperative staging of rectal cancer.
Keywords: Rectal cancer, MR Imaging, colorectal
carcinoma.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 06 - 02 / 2012116
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đẶt VẤn đỀ
Ung thư trực tràng là bệnh thường gặp nhất
trong các loại ung thư của đường tiêu hóa. Ung thư
trực tràng là nguyên nhân thứ hai gây tử vong liên
quan đến ung thư tại Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, ung thư
trực tràng đứng hàng thứ hai sau ung thư dạ dày.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu và mang
tính quyết định, xạ trị góp phần giảm giai đoạn (down
- staging) trước mổ và hạn chế tái phát sau mổ cũng
như để tăng thêm thời gian sống sau mổ, hóa trị mang
tính bổ túc sau mổ. Đánh giá giai đoạn ung thư trực
tràng trước mổ đóng vai trò chủ yếu trong quyết định
phương pháp điều trị trước mổ nhằm hạn chế những
phẫu thuật không cần thiết và tăng tỉ lệ thành công
của phẫu thuật. Hiện nay, một số phương tiện chẩn
đoán hình ảnh được sử dụng để đánh giá giai đoạn
ung thư trực tràng trước mổ như chụp cộng hưởng
từ với cuộn thu ngoài cơ thể và cuộn thu nội lòng trực
tràng, chụp cắt lớp điện toán, siêu âm nội soi lòng
trực tràng với đầu dò cứng hoặc mềm và chụp cắt lớp
phát xạ positron. Mỗi phương thức có những ưu và
nhược điểm nhất định. Theo những nghiên cứu gần
đây, chụp cắt lớp phát xạ positron có vai trò hạn chế
trong đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng. Siêu âm
nội soi lòng trực tràng được xem như tiêu chuẩn vàng
với độ chính xác trong đánh giá u là 75 - 95%, trong
đánh giá hạch là 62 - 83%. Tuy nhiên, phương thức
này sẽ gặp hạn chế nếu u trực tràng to. Chụp cắt lớp
điện toán cũng là phương tiện rất tốt để đánh giá giai
đoạn ung thư trực tràng nhất là ung thư trực tràng ở
giai đoạn muộn với độ chính xác 53 - 94% trong đánh
giá u và 54 - 73% trong đánh giá hạch. Bệnh nhân sẽ
bị nhiễm tia xạ khi được áp dụng phương tiện này.
Chụp cộng hưởng từ với cuộn thu ngoài cơ thể có độ
chính xác trong đánh giá giai đoạn u nguyên phát và
hạch là 59- 95% và 39 - 95%. Khi sử dụng cuộn thu
nội lòng trực tràng thì độ chính xác trong đánh giá
u là 85%, độ nhạy và độ đặc hiệu phát hiện hạch di
căn là 90,9% và 55,5%. Cộng hưởng từ, đặc biệt với
hệ thống từ trường đủ mạnh và cuộn thu đa dãy liên
hợp có thể tạo ra những hình ảnh rõ nét các lớp của
thành trực tràng, mô mỡ quanh trực tràng và nhất là
mạc treo trực tràng. Đây là những yếu tố thiết yếu
góp phần quyết định kế hoạch điều trị trước mổ nhằm
làm tăng tỉ lệ phẫu thuật triệt để, tăng tỉ lệ bảo tồn cơ
thắt cũng như tăng tỉ lệ sống thêm và tiên lượng khả
năng tái phát tại chỗ [1],[2],[6],[7],[8].
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh
giá vai trò của cộng hưởng từ trong đánh giá giai đoạn
của ung thư trực tràng trước mổ.
ii. đối tƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn CứU
1. đối tượng
Tất cả những trường hợp ung thư trực tràng
được chẩn đoán qua thăm khám và nội soi đại trực
tràng và được chụp cộng hưởng từ để đánh giá giai
đoạn trước mổ.
Chúng tôi không đưa vào nghiên cứu những
trường hợp có kết quả giải phẫu bệnh sau mổ không
phải là ung thư biểu mô tuyến của trực tràng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp hồi
cứu và mô tả.
Kĩ thuật chụp cộng hưởng từ
Chúng tôi sử dụng máy cộng hưởng từ Magnetom
Avanto 1,5 Tesla của hãng Siemens với cuộn thu liên
hợp cho vùng chậu. Sau khi định vị, chúng tôi thực
hiện các lát cắt trên các mặt phẳng đứng dọc, đứng
ngang và nằm ngang qua vùng trực tràng, lấy trục của
trực tràng làm chuẩn. Thực hiện các chuỗi xung T2 -
weighted turbo spin echo, TR 3000 - 4000ms, TE 120
- 130ms, FOV 25 - 28 x 25 - 28cm, matrix 384 x 269
- 307, độ dày lát cắt # 3 - 5mm, khoảng cách giữa các
lát cắt 1 - 1,5mm.
Phân tích hình ảnh
Tổn thương u trực tràng được phân loại theo hệ
thống TNM 2002. Độ xâm lấn của u trực tràng được
xác định bằng mức độ phá vỡ các lớp của thành trực
tràng. Hạch di căn quanh trực tràng, dọc theo động
mạch chậu trong, chậu ngoài, chậu chung và dọc theo
cơ chéo bụng được đánh giá trên T1w có dạng hình
tròn hoặc hình bầu dục và ghi nhận khi có đường kính
trên 5mm theo trục ngắn, cấu trúc không đồng nhất, bờ
không đều.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 06 - 02 / 2012 117
nghiên CỨU KHoa HỌC
Bảng 1. Đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng
theo TNM
t t1
t2
t3
t4
U giới hạn ở lớp niêm mạc và dưới niêm
U xâm lấn lớp cơ
U xâm lấn lớp mỡ quanh trực tràng
U xâm lấn những cơ quan lân cận
n N0
N1
N2
N3
Không có hạch di căn
Dưới 4 hạch vùng di căn
Từ 4 hạch vùng trở lên bị di căn
Di căn hạch ở xa
M M0
M1
Không di căn xa
Di căn xa
Kết quả chụp cộng hưởng từ đánh giá giai đoạn
ung thư trực tràng trước mổ được so sánh với dữ liệu
trong mổ và hình ảnh giải phẫu bệnh sau mổ.
Xử lí số liệu
Dữ liệu được thu thập và xử lí bằng phần mềm
SPSS 17.0.
iii. KẾt QUẢ
Từ 05 - 5 - 2008 đến 31 - 12 - 2011 có 110 bệnh
nhân ung thư trực tràng tại Bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM được chụp cộng hưởng từ để đánh giá giai
đoạn trước mổ.
Tuổi trung bình 57,6 ± 15,5, nhỏ nhất là 20 tuổi, lớn
nhất là 85 tuổi.
Có 47 bệnh nhân nữ và 63 bệnh nhân nam, tỉ lệ
nữ: nam xấp xỉ 1:1.
đánh giá sự xâm lấn tại chỗ của u nguyên phát
Bảng 2. Đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng
sau mổ
t n %
t1
t2
t3
t4
0
19
56
35
0
17,3
50,9
31,8
Như vậy, không có u ở giai đoạn T1.
Bảng 3. So sánh của ung thư trực tràng giữa kết
quả cộng hưởng từ và hình ảnh giải phẫu bệnh lý
sau mổ
giải phẫu bệnh
C
ộn
g
hư
ở
ng
từ
t2 t3 t4 tổng
t2 14 4 1 19
t3 1 49 6 56
t4 - - 35 35
tổng 15 53 42 110
Kết quả từ bảng 3 cho thấy có 98 trường hợp
tương đồng trong đánh giá ung thư trực tràng trên cộng
hưởng từ chiếm 89% và 12 trường hợp không tương
đồng giữa hình ảnh cộng hưởng từ và đặc điểm giải
phẫu bệnh chiếm 11%.
Bảng 4. Độ chính xác của cộng hưởng từ trong
đánh giá ung thư trực tràng
t n %
t2
t3
t4
tổng
14
49
35
98
73,7
87,5
100
89
Như vậy, cộng hưởng từ có thể đánh chính xác
giai đoạn của ung thư trực tràng trên 70% các trường
hợp.
Bảng 5. Cộng hưởng từ đánh giá không chính xác
giai đoạn ung thư trực tràng
Quá giai đoạn
(%)
dưới giai đoạn
(%)
t2
t3
t4
tổng
1 (0,9)
0
0
1 (0,9)
0
4 (3,7)
7(6,4)
1 (10,1)
1 trường hợp kết quả giải phẫu bệnh là T2 nhưng
trên cộng hưởng từ là T3.
11 trường hợp u nguyên phát được đánh giá dưới
giai đoạn: 4 trường hợp u nguyên phát là T3 nhưng trên
cộng hưởng từ là T2; 7 trường hợp u T4 được đánh giá
giai đoạn thấp hơn trên cộng hưởng từ là T2 (1 trường
hợp) và T3 (6 trường hợp).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 06 - 02 / 2012118
nghiên CỨU KHoa HỌC
đánh giá di căn hạch bạch huyết
Kích thước trung bình của hạch bạch huyết đo được
trên cộng hưởng từ là 0,9 ± 0,37mm (0,4 - 2,0mm).
Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ ghi nhận 53 trường
hợp ung thư trực tràng có di căn hạch bạch huyết. Trên
cộng hưởng từ phát hiện được 49 trường hợp di căn
hạch, 4 trường hợp âm tính giả. Như vậy, độ chính xác
trong đánh giá di căn hạch là 92,5%.
iV. Bàn LUận
Ngày nay, với nhiều tiến bộ vượt bậc của phẫu thuật
điều trị ung thư trực tràng thì phẫu Miles (cắt toàn bộ trực
tràng qua ngã tầng sinh môn và ngã bụng, làm hậu môn
nhân tạo vĩnh viễn) không còn là điều trị chuẩn duy nhất, tỉ
lệ áp dụng phẫu thuât này ngày càng giảm. Nhiều kĩ thuật
mới được ứng dụng như phẫu thuật nội soi, khâu nối máy,
cắt trước thấp hay cắt gian cơ thắt để bảo tồn cơ thắt hậu
môn và cắt u tại chỗ. Để ứng dụng được những tiến bộ
này và lập kế hoạch điều trị trước mổ phù hợp thì vai trò
của đánh giá giai đoạn ung thư trước mổ rất quan trọng
và cần thiết. Đánh giá chính xác giai trước mổ giúp xác
định chọn lựa phẫu thuật triệt để ngay từ đầu hay cần hóa
và xạ trị trước mổ để tăng tỉ lệ thành công của phẫu thuật,
tăng tỉ lệ bảo tồn cơ thắt cũng như kéo dài thời gian sống
thêm sau mổ và hạn chế tái phát [6],[9].
Siêu âm nội soi lòng trực tràng, chụp cắt lớp điện
toán và chụp cộng hưởng từ vùng chậu là ba phương
tiện chẩn đoán hình ảnh thường được sử dụng để đánh
giá giai đoạn ung thư trực tràng. Siêu âm nội soi lòng
trực tràng được xem như tiêu chuẩn vàng để đánh giá
những u ở bề mặt trực tràng với độ chính xác từ 71 -
81%, độ nhạy và độ đặc hiệu phát hiện hạch di căn 45
- 89% và 64 - 93%. Tuy nhiên, kĩ thuật này ít chính xác
đối với những u lớn hơn, có xâm lấn sâu hơn các lớp của
thành ruột. Đặc biệt, kĩ thuật này bị giới hạn khi đánh giá
mạc treo trực tràng, một yếu tố rất quan trọng trong điều
trị triệt căn ung thư trực tràng hiện nay. Ngoài ra, phương
tiện này còn tùy thuộc vào kĩ năng và kinh nghiệm khảo
sát của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh [1],[2],[3],[7].
Chụp cắt lớp điện toán có thể khắc phục những
hạn chế của siêu âm nội soi lòng trực tràng. Ngoài ra,
thời gian khảo sát của chụp cắt lớp điện toán nhanh
hơn, có thể khảo sát sự xâm lấn tại chỗ cũng như di căn
xa của ung thư trực tràng trong cùng một lần khảo sát.
Tuy nhiên, kĩ thuật này bị hạn chế khi đánh giá chính
xác các lớp của thành trực tràng và gây nhiễm xạ cho
bệnh nhân [3],[10].
Chụp cộng hưởng từ vùng chậu, đặc biệt với cuộn
thu nội lòng trực tràng có thể cho hình ảnh rõ nét về
cấu trúc giải phẫu của những cơ quan ở vùng chậu và
cho phép đánh giá tốt giai đoạn của ung thư trực tràng.
Theo những báo cáo gần đây, chụp cộng hưởng từ có
độ chính xác từ 71 - 91% khi đánh giá sự xâm lấn tại chỗ
của ung thư trực tràng. Độ nhạy và độ đặc hiệu phát hiện
hạch di căn của chụp cộng hưởng từ có cuộn thu nội
lòng trực tràng là 81 - 83% và 66 - 74% [4],[5],[6],[7],[8].
đánh giá sự xâm lấn tại chỗ của u nguyên phát
Theo nghiên cứu của chúng tôi, độ chính xác của
cộng hưởng từ để phát hiện sự xâm lấn tại chỗ của u
nguyên phát là 89%. 1 trường hợp (0,9%) u nguyên
phát T2 được đánh giá quá giai đoạn là T3, chúng tôi đã
xem xét lại hình ảnh cộng hưởng từ của trường hợp này
và nhận thấy mô viêm quanh u đã gây nhầm lẫn với sự
xâm lấn của u. Đây cũng là vấn đề được các nhà chẩn
đoán hình ảnh quan tâm nhiều nhất, 2/3 lỗi xếp giai
đoạn là do đánh giá quá giai đoạn của u T2. Sự nhầm
lẫn này là do phản ứng viêm và xơ hóa quanh u gây ra.
Để chẩn đoán u ở giai đoạn T3 cần có sự hiện diện của
cường độ tín hiệu thấp của u lan rộng vào vùng cường
độ tín hiệu cao của mô mỡ quanh trực tràng, những
hình ảnh này được khảo sát tốt nhất trên chuỗi xung
T1-weighted. 4 trường hợp (3,7%) u T3 được đánh giá
dưới giai đoạn là T2, khảo sát lại hình ảnh cộng hưởng
từ của 2 trường hợp này chúng tôi nhận thấy sự xâm
lấn mô mỡ quanh trực tràng của u rất mơ hồ, không đủ
dữ kiện để kết luận u ở giai đoạn T3 [5],[7],[8]. Chúng
tôi có 5 trường hợp (6,4%) u nguyên phát T4 được đánh
giá dưới giai đoạn là T2 và T3. Theo chúng tôi, sự thiếu
sót này có thể được khắc phục với kĩ thuật chụp lát cắt
mỏng hơn, khoảng cách giữa các lát cắt mỏng hơn và
tăng độ phân giải đồng mặt phẳng để tăng độ phân biệt
mô, từ đó giúp cải thiện tỉ lệ thiếu sót này.
đánh giá di căn hạch
Di căn hạch là yếu tố tiên lượng quan trọng trong
ung thư trực tràng, giúp quyết định hóa trị sau mổ cũng
như tiên lượng thời gian sống thêm. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có sự đồng thuận về tiêu chuẩn (kích thước,
hình thái, cường độ tín hiệu) để phân biệt hạch di căn
với hạch bình thường và hạch viêm. Theo các nghiên
cứu, với tiêu chuẩn đường kính hạch lớn hơn 5mm (đo
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 06 - 02 / 2012 119
nghiên CỨU KHoa HỌC
theo trục ngắn) được xem như hạch di căn thì độ nhạy
của cộng hưởng từ là 88 – 90,9% [3],[6],[9].
Chúng tôi ghi nhận kích thước trung bình của hạch
bạch huyết đo được là 0,9 ± 0,37mm (0,4 - 2,0mm). Với
tiêu chuẩn đường kính hạch trên 5mm được xem như
hạch di căn, cộng hưởng từ có thể đánh giá chính xác
di căn hạch trong 92,5%.
V. KẾt LUận
Chụp cộng hưởng từ vùng chậu là phương tiện
chẩn đoán hình ảnh có độ chính xác cao trong đánh giá
giai đoạn ung thư trực tràng trước mổ, góp phần quan
trọng trong chỉ định điều trị phù hợp ung thư trực tràng
theo từng giai đoạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adam DR and Blatchford (1999), “Use of
preoperative ultrasound staging for treatment of rectal
cancer”, Dis colon rectum, 42: 159 – 166.
2. Bali C, et al (2004), “Assessment of local stage
in rectal cancer using endorectal ultrasonography”,
Tech coloproctol, 8: 170-173.
3. Bipat Shandra and Afina S. Glas (2004), “Rectal
cancer: local staging and assessment of lymph node
involvement with endoluminal US, CT and MR imaging
– A meta-analysis”, Radiology, 232: 773-783.
4. Bissett Ian P. and Charatha C. Fernando (2001),
“Identification of the fascia propria by magnetic resonance
imaging and its relevance to preoperative assessment of
rectal cancer”, Dis colon rectum, 44(2): 259-265.
5. Botterill I. D. and D.M. Blunt (2001), “Evaluation
of the role of preoperative magnetic resonance imaging
in the management of rectal cancer”, Blackwell science
Ltd, 3: 295-303.
6. De Lange Eduard E. and Robert E. Flechner
(1990), “Preoperative staging of rectal carcinoma with
MR imaging: Surgical and histopathologic correlation”,
Radiology, 176: 623-628.
7. Gagliardi Giuseppe, et al (2002), “Preoperative
staging of rectal cancer using magnetic resonance imaging
with external phase-arrayed coils”, Arch surg, 137: 447-451.
8. Kim Nam Kyu and Myung Jin Kim (2000),
“Preoperative staging of rectal cancer with MRI:
accuracy and clinical usefulness”, Annals of surgical
oncology, 7(10): 732-737.
9. Lafrate Franco and Andrea Laghi (2006),
“Preoperative staging of rectal cancer with MR imaging:
Correlation with surgical and histopathologic findings”,
Radiographics, 26: 701-714.
10. Mathur P. and J. Smith (2003), “Comparison
of CT and MRI in the preoperative staging of rectal
adenocarcinoma and prediction of circumferential
resection margin involvement by MRI”, Colorectal
disease, 5: 396-401.
TÓM TẮT
Mở đầu: Ung thư đại trực tràng là bệnh thường gặp nhất trong ung thư đường tiêu hóa. Ở Việt Nam, ung thư
trực tràng đứng hàng thứ hai sau ung thư dạ dày. Đánh giá giai đoạn bệnh trước mổ đóng vai trò quyết định trong
việc chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp.
Mục tiêu: Xác định vai trò của chụp cộng hưởng từ trong đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng trước mổ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 110 bệnh nhân ung thư trực tràng được chụp cộng hưởng từ vùng
chậu để đánh giá giai đoạn ung thư trực tràng trước mổ tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM trong thời gian 3 năm.
Kết quả đánh giá giai đoạn trước mổ được so sánh với những đặc điểm giải phẫu bệnh sau mổ.
Kết quả: Cộng hưởng từ có thể đánh giá chính xác giai đoạn của ung thư trực tràng trong 89% các trường hợp.
Độ chính xác trong đánh giá di căn hạch là 92,5%.
Kết luận: Chụp cộng hưởng từ vùng chậu là phương tiện chẩn đoán hình ảnh chính xác để đánh giá giai đoạn
ung thư trực tràng trước mổ.
Từ khóa: ung thư trực tràng, cộng hưởng từ, carcinoma trực tràng.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_giai_doan_ung_thu_truc_trang_bang_cong_huong_tu_ket.pdf