1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất và nước là hai nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại vì nó là cội nguồn của sự tồn tại, nguồn gốc của mọi sự sống trên trái đất. Đối với nông nghiệp đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Cùng với đất, nước là yếu tố hàng đầu để sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp ông cha ta đã có câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Mối quan hệ giữa đất, nước và cây trồng luôn mật thiết với nhau. Cây trồng sinh trưởng, phát triển được là nhờ các yếu tố nước, chất dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, trong đó nước có vai trò đặc biệt ở chỗ nó vừa có khả năng điều hoà các yếu tố còn lại vừa phát huy tác dụng của chúng làm cho cây trồng phát triển.
Tuy nhiên tài nguyên nước phân bố không đồng đều trong không gian và thời gian, chưa đáp ứng với yêu cầu nước của cây trồng trong hệ thống luân canh, chưa phù hợp với tốc độ phát triển của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc tưới, tiêu nước là biện pháp kỹ thuật nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả việc sử dụng nguồn tài nguyên đất. Hơn nữa, ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng được áp dụng rộng rãi trên đồng ruộng, cơ cấu cây trồng thay đổi theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, nhiều giống mới có yêu cầu thâm canh cao, lượng nước yêu cầu lớn, nhiều loại cây trồng có giá trị hàng hoá cao được đưa vào sản xuất dẫn đến nhu cầu nước của từng hệ thống cây trồng, từng công thức luân canh cũng thay đổi so với trước. Để đáp ứng đủ nước theo yêu cầu thâm canh tăng vụ các công trình thuỷ nông phục vụ tưới, tiêu chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu trên. Hay nói cách khác là áp lực về năng xuất cây trồng lên một đơn vị diện tích canh tác phụ thuộc vào việc tưới, tiêu chủ động hay không.
Hiện nay cả nước hiện có 75 hệ thống thuỷ nông lớn, gần 1.970 hồ chứa nước lớn và một lượng tương tự như vậy là hồ chứa, đập nhỏ, trên 10.000 trạm bơm và 1000 km kênh trục lớn với tổng giá trị quy ra tiền tới 100.000 tỷ đồng. Nhưng do hệ thống thuỷ lợi qua quá trình sử dụng, khai thác từ lâu đã xuống cấp, cộng với công tác quản lý và sử dụng nước tưới không tốt (cả trên kênh và trên mặt ruộng) đã làm cho lượng nước sử dụng cho một ha gieo trồng rất lớn, dẫn đến thuỷ lợi phí nông dân phải trả cho các công ty trong vụ xuân là 300 kg thóc/ha và vụ mùa 250 kg thóc/ha. Ngoài ra nông dân phải trả thêm cho hợp tác xã trong vụ xuân là 90 kg thóc/ha và vụ mùa là 70 kg thóc/ha (Đoàn Doãn Tuấn và đồng nghiệp năm 1996). Đặc biệt sau nghị định 64 CP, trên một thửa ruộng của hợp tác xã trước kia, nay đã có nhiều hộ nông dân cùng canh tác với nhiều giống và thời vụ khác nhau đã làm cho việc sử dụng nước ngày càng lãng phí, mặc dù nhu cầu nước của cây lúa chỉ khoảng 3.600-3.800 m3/ha, mà nước tưới thực tế biến động 3.570 - 5.246 m3/ha tuỳ theo lượng mưa của từng vụ [3].
Bên cạnh đó, hầu hết các công trình thuỷ nông có quá trình khai thác kém hiệu quả và hệ số dẫn nước kênh mương ở mức thấp nên việc sử dụng nước ngày càng lãng phí, sự mất cân đối trong thu chi của các công ty, xí nghiệp thuỷ nông khiến nhà nước phải trợ cấp một lượng kinh phí đáng kể. Do vậy, việc đánh giá hoạt động của hệ thống thuỷ nông là rất cần thiết, giúp cho việc quản lý nguồn tài nguyên đất và tài nguyên nước một cách có hiệu quả.
Ninh Giang là huyện nằm trong vùng lúa trọng điểm của tỉnh Hải Dương, kết quả chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn đã tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Là huyện thuần nông nên công tác thuỷ nông có vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng đất đai.
Mặc dù hệ thống thuỷ nông đã được đầu tư xây dựng và tu bổ thường xuyên nhưng vẫn còn một số tồn tại và bất cập. Khả năng chống úng, hạn chưa cao, đa số công trình đã xây dựng từ năm 1963, tiến độ thực hiện kiên cố hoá kênh mương đạt ở mức thấp. Những tồn tại này đã gây khó khăn cho công tác tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu thâm canh tăng vụ. Đánh giá sự hoạt động của hệ thống, đưa ra các giải pháp cải tạo nâng cấp giúp cho việc thực hiện tốt kế hoạch sử dụng đất là việc làm cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức những vấn đề bất cập trên, được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo, PGS. Ts Nguyễn Văn Dung, giảng viên khoa Đất và Môi trường - Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương”
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương. Phát hiện những tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ của hệ thống đối với công tác kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010.
1.2.2. Yêu cầu
Các tài liệu, số liệu và thông tin trong công tác điều tra phải đầy đủ, chính xác, trung thực phản ánh đúng thực trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang.
Đánh giá hiện trạng phải dựa trên cơ sở định tính, định lượng và khoa học.
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị trên cơ sở thực trạng hệ thống, phù hợp với điều kiện địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống phục vụ tốt cho kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010.
121 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất và nước là hai nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại vì nó là cội nguồn của sự tồn tại, nguồn gốc của mọi sự sống trên trái đất. Đối với nông nghiệp đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Cùng với đất, nước là yếu tố hàng đầu để sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp ông cha ta đã có câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Mối quan hệ giữa đất, nước và cây trồng luôn mật thiết với nhau. Cây trồng sinh trưởng, phát triển được là nhờ các yếu tố nước, chất dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, trong đó nước có vai trò đặc biệt ở chỗ nó vừa có khả năng điều hoà các yếu tố còn lại vừa phát huy tác dụng của chúng làm cho cây trồng phát triển.
Tuy nhiên tài nguyên nước phân bố không đồng đều trong không gian và thời gian, chưa đáp ứng với yêu cầu nước của cây trồng trong hệ thống luân canh, chưa phù hợp với tốc độ phát triển của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc tưới, tiêu nước là biện pháp kỹ thuật nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả việc sử dụng nguồn tài nguyên đất. Hơn nữa, ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng được áp dụng rộng rãi trên đồng ruộng, cơ cấu cây trồng thay đổi theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, nhiều giống mới có yêu cầu thâm canh cao, lượng nước yêu cầu lớn, nhiều loại cây trồng có giá trị hàng hoá cao được đưa vào sản xuất dẫn đến nhu cầu nước của từng hệ thống cây trồng, từng công thức luân canh cũng thay đổi so với trước. Để đáp ứng đủ nước theo yêu cầu thâm canh tăng vụ các công trình thuỷ nông phục vụ tưới, tiêu chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu trên. Hay nói cách khác là áp lực về năng xuất cây trồng lên một đơn vị diện tích canh tác phụ thuộc vào việc tưới, tiêu chủ động hay không.
Hiện nay cả nước hiện có 75 hệ thống thuỷ nông lớn, gần 1.970 hồ chứa nước lớn và một lượng tương tự như vậy là hồ chứa, đập nhỏ, trên 10.000 trạm bơm và 1000 km kênh trục lớn với tổng giá trị quy ra tiền tới 100.000 tỷ đồng. Nhưng do hệ thống thuỷ lợi qua quá trình sử dụng, khai thác từ lâu đã xuống cấp, cộng với công tác quản lý và sử dụng nước tưới không tốt (cả trên kênh và trên mặt ruộng) đã làm cho lượng nước sử dụng cho một ha gieo trồng rất lớn, dẫn đến thuỷ lợi phí nông dân phải trả cho các công ty trong vụ xuân là 300 kg thóc/ha và vụ mùa 250 kg thóc/ha. Ngoài ra nông dân phải trả thêm cho hợp tác xã trong vụ xuân là 90 kg thóc/ha và vụ mùa là 70 kg thóc/ha (Đoàn Doãn Tuấn và đồng nghiệp năm 1996). Đặc biệt sau nghị định 64 CP, trên một thửa ruộng của hợp tác xã trước kia, nay đã có nhiều hộ nông dân cùng canh tác với nhiều giống và thời vụ khác nhau đã làm cho việc sử dụng nước ngày càng lãng phí, mặc dù nhu cầu nước của cây lúa chỉ khoảng 3.600-3.800 m3/ha, mà nước tưới thực tế biến động 3.570 - 5.246 m3/ha tuỳ theo lượng mưa của từng vụ [3].
Bên cạnh đó, hầu hết các công trình thuỷ nông có quá trình khai thác kém hiệu quả và hệ số dẫn nước kênh mương ở mức thấp nên việc sử dụng nước ngày càng lãng phí, sự mất cân đối trong thu chi của các công ty, xí nghiệp thuỷ nông khiến nhà nước phải trợ cấp một lượng kinh phí đáng kể. Do vậy, việc đánh giá hoạt động của hệ thống thuỷ nông là rất cần thiết, giúp cho việc quản lý nguồn tài nguyên đất và tài nguyên nước một cách có hiệu quả.
Ninh Giang là huyện nằm trong vùng lúa trọng điểm của tỉnh Hải Dương, kết quả chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn đã tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Là huyện thuần nông nên công tác thuỷ nông có vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng đất đai.
Mặc dù hệ thống thuỷ nông đã được đầu tư xây dựng và tu bổ thường xuyên nhưng vẫn còn một số tồn tại và bất cập. Khả năng chống úng, hạn chưa cao, đa số công trình đã xây dựng từ năm 1963, tiến độ thực hiện kiên cố hoá kênh mương đạt ở mức thấp. Những tồn tại này đã gây khó khăn cho công tác tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu thâm canh tăng vụ. Đánh giá sự hoạt động của hệ thống, đưa ra các giải pháp cải tạo nâng cấp giúp cho việc thực hiện tốt kế hoạch sử dụng đất là việc làm cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức những vấn đề bất cập trên, được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo, PGS. Ts Nguyễn Văn Dung, giảng viên khoa Đất và Môi trường - Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương”
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương. Phát hiện những tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ của hệ thống đối với công tác kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010.
1.2.2. Yêu cầu
Các tài liệu, số liệu và thông tin trong công tác điều tra phải đầy đủ, chính xác, trung thực phản ánh đúng thực trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang.
Đánh giá hiện trạng phải dựa trên cơ sở định tính, định lượng và khoa học.
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị trên cơ sở thực trạng hệ thống, phù hợp với điều kiện địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống phục vụ tốt cho kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Hệ thống thuỷ nông được hiểu là tập hợp các công trình thuỷ lợi có liên quan với nhau để tưới và tiêu cho các loại cây trồng trong lưu vực phục vụ của hệ thống. Công trình thuỷ lợi bao gồm hồ chứa nước, trạm bơm, đập, cống, kênh mương, kè đê. Như vậy thuỷ nông được hiểu là thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, thuật ngữ thuỷ nông hiện nay được hiểu rộng hơn, không chỉ là tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp mà còn cấp nước cho cả sinh hoạt, công nghiệp, thuỷ sản v.v... nhưng nhiệm vụ tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp phải là nhiệm vụ chính.
2.1. Tình hình sử dụng nước
2.1.1. Tình hình sử dụng nước trên thế giới
Nước bao phủ ba phần tư bề mặt trái đất, nước cũng chiếm ba phần tư cấu tạo các mô sinh vật. Trữ lượng nước trên trái đất có hạn và chu trình nước tiếp diễn liên tục từ dạng đặc sang dạng lỏng, chuyển sang dạng khí và ngược lại. Trong tổng lượng nước của trái đất chỉ có 3% là nước ngọt, trong đó chỉ có 0,3% là sẵn sàng dùng được cho chúng ta. Hiện nay, ở nhiều vùng trên thế giới vào những thời điểm nhất định, có tình trạng thiếu nước vì con người không chỉ cần có nước mà nước phải đủ, đảm bảo về chất lượng, đúng lúc và đúng chỗ.
Trong tự nhiên nước được luân chuyển theo một chu trình bay hơi và ngưng tụ liên tục gọi là chu trình thuỷ văn, nhờ đó mà nước tham gia vào chu trình phát triển của tất cả các hệ sinh thái. Theo tính toán lượng nước mưa hàng năm trên trái đất khoảng 105.000 km3, trong dó khoảng 1/3 thấm vào đất, tích đọng ở ao hồ và hình thành dòng chảy ra sông, 2/3 còn lại trở lại khí quyển. Tổng lượng nước trên trái đất khoảng 1,4 tỷ km3 nhưng 96,5% là nằm ở đại dương. Nguồn nước ngọt mà con người có thể dùng được chỉ khoảng 2,53% tổng lượng nước toàn trái đất, còn lại đóng băng ở hai cực trái đất. Trong khi lượng mưa chủ yếu lại rơi trên đại dương, trung bình năm khoảng 990 mm, lục địa trung bình năm chỉ khoảng 650 - 670 mm, trên lục địa lượng mưa phân bố rất không đều nó phụ thuộc vào khí hậu và địa hình, vùng nhiệt đới từ 2000 - 5000 mm/năm, vùng hoang mạc dưới 120 mm/năm [5]. Từ đó cho thấy nước là một thứ tài nguyên phân bố không đều, nhìn chung trên toàn thế giới từ một xứ khô cằn sang một vùng nhiệt đới lượng nước có thể biến đổi từ 1 - 1000.
Nguồn nước trên trái đất chúng ta không phải là vô tận. Vì vậy từ xa xưa tổ tiên loài người đã thấy được tầm quan trọng của nước và tìm cách cải tạo dòng nước tự nhiên, sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất: ở Ai Cập 5000 năm trước công nguyên con người đã xây dựng những đập giữ nước trên sông Nile, Trung Quốc 4000 năm trước đã xây dựng kênh đào tới 700 dặm, Ấn Độ cách chúng ta 20 thế kỷ đã có nhiều công trình chứa nước tưới cho lưu vực sông Indus.
Cho đến vài thập kỷ gần đây, nhờ hệ thống thuỷ nông mà diện tích đất được tưới tăng tương đối ổn định. Năm 1972 diện tích đất được tưới của thế giới là 176.420.000 ha, năm 1982 tăng lên là 215.253.000 ha, năm 1987 là 227.108.000 ha. Trong đó chỉ riêng khu vực Châu Á diện tích đất được tưới năm 1972 là 113.888.000 ha, năm 1982 là 135.297.000 ha, năm 1987 là 142.301.000 ha, năm 1992 là 181.533.000 ha và Trung Quốc là nước có diện tích đất được tưới lớn nhất trong khu vực và trên thế giới, diện tích đất được tưới năm 1992 là 49.030.000 ha, đến nay con số này là trên 5 triệu ha. Cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và áp lực về an ninh lương thực của toàn nhân loại, diện tích đất được tưới không ngừng tăng, đây là điều đáng mừng cho ngành nông nghiệp thế giới.
Ngày nay việc sử dụng nước của con người không ngừng tăng lên do dân số tăng, đầu thế kỷ 20 dân số toàn cầu là 1,6 tỷ người nhưng đến cuối năm 1999 đã đạt 6 tỷ, tăng 3,75 lần, điều này đã khiến cho nước dùng cho công nghiệp tăng 20 lần, nước dùng cho nông nghiệp tăng 7 lần, nước cho sinh hoạt tăng 10 lần. Ngoài sự gia tăng dân số khiến nhu cầu sử dụng nước gia tăng còn có các nguyên nhân khác như cách sống của con người thay đổi cần sử dụng nhiều nước hơn, nhất là nhu cầu nước sạch cung cấp cho các thành phố lớn. Trên thế giới có hơn 100 quốc gia và khu vực bị thiếu nước với mức độ khác nhau, trong đó có 4 quốc gia bị thiếu nước nghiêm trọng. Vùng thiếu nước trên trái đất chiếm tới 60% diện tích châu lục, trong các nước đang phát triển có tới 60% số người thiếu nước sạch trong sinh hoạt, 80% bị bệnh tật có liên quan đến ô nhiễm nước.
Có thể nhận thấy rằng trong những năm gần đây, để phát triển ngành nông nghiệp hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều rất chú trọng đến công tác thuỷ lợi, cả về đầu tư xây dựng hệ thống và tổ chức quản lý khai thác, sử dụng các công trình. Ở những nước phát triển đầu tư các công trình thuỷ lợi hoàn chỉnh, (tưới, tiêu chủ động), các nước đang phát triển xây dựng các công trình thuỷ lợi đầu mối có tính chất trọng điểm, các công trình có sự tham gia của cộng đồng, tư nhân tự bỏ vốn xây dựng công trình. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư và quản lý các công trình thuỷ lợi tất cả phục vụ nền nông nghiệp phát triển bền vững.
2.1.2 Tình hình sử dụng nước ở Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với sự hình thành của hệ thống đê điều, hệ thống kênh rạch chống lũ, hàng ngàn năm mở mang vùng đất mới, phát huy mặt lợi, hạn chế mặt hại của nước để tồn tại và phát triển. Cũng nhờ lợi thế đó, một nền văn minh lúa nước đã hình thành từ hàng nghìn năm trước ở vùng đồng bằng Sông Hồng và di cư vào đồng bằng Sông Cửu Long 300 năm trước đây.
Là một quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú với mức bình quân trên đầu người hiện nay là 12.000m3/năm, nhưng 2/3 lượng nước nói trên lại phát sinh từ lãnh thổ các nước khác ở thượng lưu, như thượng lưu khu vực sông Hồng, trung và thượng lưu khu vực sông MêKông. Vì thế lượng nước qua lãnh thổ Việt Nam phụ thuộc một phần vào tình hình khai thác và sử dụng nước của các nước trên. Do địa hình bị chia cắt bởi nhiều dãy núi song song và do chế độ mưa không đồng nhất nên dòng chảy phân bố không đều trên lãnh thổ.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có tổng lượng dòng chảy là 507,8 tỷ m3, trong đó 95% lượng nước từ bên ngoài lãnh thổ chảy vào, lượng nước qua vùng chiếm 61% quỹ nước mặt của toàn lãnh thổ. Tuy lượng nước phong phú nhưng vẫn còn hai hạn chế cho sự phát triển của một số vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long đó là “ngập lụt về mùa mưa và hạn hán về mùa khô”[14].
Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có tiềm năng nước đứng thứ hai trong cả nước với tổng lượng dòng chảy bình quân nhiều năm là 159 tỷ m3, chiếm 19% quỹ nước của quốc gia. Bình quân ở Bắc Bộ mỗi ha hàng năm có 13.900 m3 nước trong đó 8.940 m3 được phát sinh trong lãnh thổ (64%). Dung tích các hồ chứa ở Bắc Bộ đã đạt trên 8 tỷ m3 nước. Hầu như trên các sông vừa và nhỏ trong vùng đều đã có các hồ chứa hoặc các công trình cấp nước làm tăng dòng chảy và lượng dòng chảy trong mùa kiệt [14].
Vùng Bắc Trung Bộ là vùng đứng thứ 3 về tiềm năng nguồn nước với lượng nước trung bình nhiều năm là 83,4 tỷ m3 chiếm 9,4% quỹ nước quốc gia trong đó có 11,9 tỷ m3 từ bên ngoài đổ vào. Lượng dòng chảy tháng kiệt nhất chỉ chiếm 1,3% lượng dòng chảy cả năm nên ở Bắc Trung Bộ cũng được xây dựng nhiều hồ chứa nhỏ để tăng cường lượng dòng chảy vào mùa kiệt [14].
Vùng Nam Trung Bộ có tiềm năng nước mặt 59,5 tỷ m3, bình quân có 12.000m3/ha trong năm. Do chiều dài sông ngắn và dốc, các sông có nguồn từ Đông Trường Sơn chảy thẳng ra biển nên trong vùng này khó có điều kiện xây dựng các hồ vừa và lớn [14].
Vùng Tây Nguyên chủ yếu là sông Sêsan và sông Serepok có tổng dòng chảy của cả hai sông là 27,8 tỷ m3 trong đó lưu vực sông Sesan có tiềm năng nguồn nước mặt là 12.000 m3/ha/năm, cao hơn lưu vực sông Serepork (7.540 m3/ha/năm). Hiện trên sông Sesan đã xây dựng thuỷ điện Yaly có dung tích điều tiết 700 triệu m3. Trên sông Serepok chưa có hồ chứa nước lớn nhưng có rất nhiều hồ chứa nhỏ tưới cho lúa và cây công nghiệp như cà phê, tiêu, cao su [14].
Vùng Đông Nam Bộ có lượng nước đến hàng năm là 36,6 tỷ m3, trong đó chỉ có 4 tỷ m3 chảy vào lãnh thổ Campuchia. Lượng dòng chảy đến trung bình năm là 10.200 m3/ha, trong đó 9.100 m3/ha là do phát sinh tại chỗ. Do lượng mưa càng giảm theo độ cao bề mặt lưu vực nên càng về phía ven biển và phía Nam của vùng thì lượng dòng chảy do mưa tại chỗ giảm. Hiện nay trong vùng đã có nhiều hồ chứa với dung tích 4.800 triệu m3 để điều tiết nước tưới và cung cấp cho sinh hoạt, công nghiệp.
Nhờ nguồn nước phong phú, tổ tiên chúng ta từ xa xưa đã nhận thức được tầm quan trọng của thuỷ lợi đối với đời sống và phát triển sản xuất nông nghiệp. Tuỳ thuộc vào quá trình phát triển xã hội trong từng giai đoạn mà các phương tiện, biện pháp khai thác tài nguyên nước cũng khác nhau. Thời gian đầu người ta chỉ biết sử dụng nguồn nước có sẵn của tự nhiên, sau đó biết đào giếng, đào ao để lấy nước sử dụng cho sản xuất và đời sống. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, khoa học công nghệ với các phương thức khai thác tài nguyên nước cũng được phát triển theo hướng hiện đại và hiệu quả. Quá trình khai thác tài nguyên nước gắn liền với quá trình hình thành và phát triển hệ thống công trình các cấp và hình thức quản lý tương ứng qua từng thời kỳ.
* Thời kỳ phong kiến
Thế kỷ IX, nhân dân ta đã xây dựng được công trình kiên cố là đê bao thành Đại La với chiều dài 8.500 m, cao 6 m. Thế kỷ X (983), nhân dân Thanh Hoá đã đào đắp sông Đồng Cỏ, Thái Hoà, dưới thời Lý Thái Tôn đào sông Đan Nãi. Thời Trần Thái Tông (năm 1231) đào sông Hào và sông Trầm. Năm 1390 đào sông Thiên Đức (sông Đuống ngày nay). Khi xã hội phong kiến nước ta bước vào thời kỳ suy tàn, các công trình thuỷ nông ít được xây dựng, hạn hán lũ lụt xảy ra liên tục [21].
* Thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ này, thực dân Pháp xây dựng hơn 10 công trình thuỷ nông, các công trình này chủ yếu phục vụ các đồn điền của Pháp như hệ thống sông Cầu, hệ thống sông Liễu Sơn...[21].
* Sau năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng các công trình thuỷ nông đã được phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1956, nhân dân ta đã đào đắp công trình 27 triệu 90 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 56 vạn ha. Đến năm 1959 đã tiếp tục đào đắp 84 triệu 86 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 90 vạn ha. Đáng chú ý, hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải ra đời đã góp phần làm thay đổi nước trên đồng ruộng của tỉnh Hải Hưng cũ. Năm 1958, khi chưa có hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 209.925 ha, thu hoạch được 162.885 tấn thóc. Năm 1959, nhờ có hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 246.807 ha đạt 208.860 tấn thóc (tăng 95.975 tấn so với năm 1958) [23]. Nhờ có hệ thống công trình này, các tỉnh đồng bằng Sông Hồng đã sản xuất thêm được vụ đông và dần trở thành vụ sản xuất chính. Các công trình thủy lợi đã tạo điều kiện và khả năng thâm canh cao trong sản xuất, kết quả thể hiện rõ nhất là năng suất, sản lượng cây trồng đã được tăng lên không ngừng qua các năm [11].
Trong ba năm phát triển kinh tế (1958 - 1960), ngoài việc xây dựng hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Nhà nước còn xây dựng một số trạm bơm loại vừa như Thuỵ Phương, Gia Thượng Hà Nội, Tây và Nam Nghệ An [21].
Dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV, Nhà nước và nhân dân đầu tư vốn và sức lực vào xây dựng các công trình thuỷ nông như Trịnh Xá, Kim Đôi Hà Bắc, HTTN Nam Sông Mã - Thanh Hóa; Các hồ chứa nước suối Hai, Đại Lãi, Cẩm Ly; Các trạm bơm như La Khê (Hà Tây), Hồng Vân...
Phong trào thi đua làm thuỷ lợi nhỏ năm 1964 - 1965 đã động viên đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng mạng lưới công trình tưới, tiêu rộng khắp đồng ruộng [21].
Những công trình xây dựng từ những năm 1955 - 1970, có năng lực thiết kế tưới nước hơn gấp ba lần so với năng lực của các công trình xây dựng dưới thời Pháp thuộc, bị phá hoại do chiến tranh mà Nhà nước đã khôi phục lại. Đến năm 1970, 60% diện tích đất canh tác đã có công trình thuỷ lợi. Trong đó, đồng bằng Bắc Bộ khoảng 80%, Trung du và khu 4 cũ gần 60%, miền núi gần 30%. Các công trình thuỷ lợi ra đời với việc tưới, tiêu chủ động nên năng suất lúa trong thời gian này đạt 2 - 3 tấn/ha/vụ.
Đến nay thuỷ lợi Việt Nam đã hình thành 75 hệ thống thuỷ lợi lớn và vừa, 750 hồ chứa nước lớn và vừa, trên 10.000 hồ chứa nhỏ, 2.000 trạm bơm điện lớn và vừa, có công suất 450 MW, 30 vạn máy bơm với năng lực thiết kế tưới cho 3 triệu ha đất canh tác; Tiêu cho trên 1,4 triệu ha đất tự nhiên ở các tỉnh Bắc Bộ; Ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1,6 triệu ha đất chua phèn ở đồng bằng Sông Cửu Long. Riêng diện tích trồng lúa được tưới chiếm 80% tổng diện tích lúa trong cả nước. Năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu ha, trong đó: - Lúa Đông Xuân: 2.860.000 ha - Lúa Hè Thu: 2.190.000 ha - Lúa mùa: 1.640.000 ha; Các hệ thống thuỷ lợi còn tưới trên 1 triệu ha cây rau màu, cây công nghiệp và cây ăn quả.
2.2. Vai trò thủy nông đối với sản xuất nông nghiệp
Trong “Luật Tài nguyên nước” được Quốc hội thông qua năm 1998, việc bảo vệ tài nguyên nước đã được khẳng định, điều đó chứng tỏ nước có vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất.
Nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống sinh vật, đối với cây trồng nó là yếu tố quyết định sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Trong cây nước chiếm tới 3/4 trọng lượng, trong chất nguyên sinh hàm lượng nước chiếm tới 90%. Nước tham gia các quá trình trao đổi chất, là nguyên liệu để thực hiện quá trình quang hợp, nước là phương tiện vận chuyển các chất trong cây, đảm bảo trạng thái có lợi cho sự sinh trưởng. Nói cách khác nước vừa tham gia cấu trúc nên cơ thể thực vật, vừa quyết định các biến đổi sinh hoá và các hoạt động sinh lý trong cây cũng như quyết định sự sinh trưởng, phát triển của cây. Chính vì vậy nước được xem là yếu tố sinh thái quan trọng nhất đảm bảo và quyết định năng xuất cây trồng.
Trong suốt đời sống của cây, nước lúc nào cũng cần thiết để thay thế lượng nước mất đi. Nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì cây cần lượng nước không giống nhau. Ở bất kỳ thời kỳ sinh trưởng nào của cây nếu thiếu nước đều gây ảnh hưởng xấu, nhưng có một thời kỳ thiếu nước sẽ gây tác hại nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm thu hoạch của cây - thời kỳ đó gọi là thời kỳ khủng hoảng nước của cây hay thời kỳ nhạy cảm với sự thiếu hụt nước [12]. Ở thời kỳ này cây tiêu thụ nước với hiệu suất tích luỹ chất khô cao nhất và nước đóng vai trò quyết định năng suất cuối cùng. Ví dụ đối với cây lúa giai đoạn làm đòng, trổ bông và phát triển hạt cho đến khi lúa chín tức là thời kỳ tích luỹ chất khô, nếu ở giai đoạn này thiếu nước sẽ gây nên hiện tượng lem lép hạt.
Ngoài ra chúng ta còn thấy rõ tác dụng của nước đối với việc cải tạo các loại đất mặn, đất chua, đất lầy thụt, đất bạc màu v.v... Trong công tác cải tạo các loại đất này thì thuỷ lợi luôn đi trước một bước, tạo nên các loại đất thích hợp cho cây trồng, góp phần giữ vững và ổn định sản xuất.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả của tưới, tiêu mang lại không thể phủ nhận. Tổng kết thực tế của Vụ quản lý và khai thác công trình thuỷ lợi cho biết: ở nước ta tưới, tiêu cho lúa có thể tăng sản lượng lên 20%- 30%. Nhờ có các công trình thuỷ lợi, chúng ta đã chế ngự được thiên nhiên, hạn chế được những tác hại do thiên tai như lũ lụt, hạn hán. Từ xa xưa ông cha ta đã biết làm thuỷ lợi như quai đê lấn biển, thau chua, rửa mặn, tạo nên những làng, xã, những huyện mới như: Tiền Hải - Thái Bình, Kim Sơn - Ninh Bình.
Nhờ sử dụng nước tưới từ các công trình thuỷ lợi, các sản phẩm nông nghiệp được sản xuất với chi phí thấp, khả năng cạnh tranh cao, sản xuất trên diện tích lớn; Tăng trưởng sản xuất ổn định, nguồn lực sản xuất nông nghiệp như lao động, đất đai được khai thác và sử dụng một cách hợp lý; Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển nông nghiệp cân đối và bền vững.
Nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng ngoài việc cung cấp nước cho nông nghiệp còn cấp nước đầy đủ và ổn định cho sinh hoạt và phát triển tiểu thủ công nghiệp, các khu công nghiệp ở thị xã, thành phố. Nhiều công trình thuỷ lợi, hồ đập chứa nước tạo ra cảnh quan môi trường rất lý tưởng để khai thác nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch. Có công trình thuỷ lợi sử dụng nước rất độc đáo đã góp phần tạo nên kỳ quan thế giới như vườn treo Babilon.
Nhu cầu về nước là rất lớn và không thể thay thế, đặc biệt đối với các quốc gia, các vùng sản xuất nông nghiệp. Trong nền kinh tế mở hiện nay, nông nghiệp nông thôn đang có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân ổn định và từng bước nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong quá trình sản xuất của nhân dân thì công tác thuỷ lợi ngày càng trở nên quan trọng và thường xuyên được quan tâm..
Ở Việt Nam, yêu cầu nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng 80-90% tổng lượng nước dùng, có vai trò quyết định đối với năng suất, sản lượng cây trồng, nhất là lúa nước [7]. Vai trò của nước đối với cây trồng được xếp ngang hàng với 3 yếu tố quan trọng là phân - cần - giống. Ông cha ta cũng đã khẳng định vai trò của nước qua câu “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Theo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc tưới tiêu nước cho lúa hợp lý góp phần làm tăng năng suất từ 17-25% [15]. Kết quả nghiên cứu của Cục quản lý và Khai thác công trình thủy lợi ở nước ta đã chỉ ra tưới, tiêu cho lúa góp phần làm tăng năng suất từ 20-30%. Ở Trung Quốc, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu đảm bảo đủ nước tưới cho lúa sẽ làm tăng sản lượng 30% [18].
Theo nghiên cứu của bộ môn Thuỷ nông - Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội, yêu cầu nước cho tưới ải vùng Gia Lâm - Hà Nội thay đổi từ 1.700 đến 2.500 m3/ha.
Theo Hoàng Anh Đức - 1994 [6], lượng nước cần cho tưới ải và tưới dưỡng vụ lúa xuân 1994 của hệ thống kênh tưới Kênh Đông - Trạm bơm Văn Giang - Hải Dương: Lượng nước bình quân: Tưới ải: 2.600 m3/ha, tưới dưỡng: 4.700 m3/ha.
Theo Nguyễn Văn Dung - 1998 [3], thời kỳ tưới ải và tưới dưỡng 3 năm (1996 - 1998) ở trạm bơm La Khê - Hà Tây:
Vụ Mùa: - Tưới ải: 2.038 - 2.657 m3/ha.
- Tưới dưỡng: 1.619 - 1.787 m3/ha.
Vụ Xuân: - Tưới ải: 3.582 - 5.133 m3/ha.
- Tưới dưỡng: 4.117 - 5.246 m3/ha.
Ở nước ta, do địa hình phức tạp, khí hậu thay đổi theo mùa nên hàng năm lượng dòng chảy 80% tập trung vào mùa mưa, còn lại 20% tập trung vào mùa khô, nhưng nhu cầu dùng nước trong nông nghiệp thì ngược lại, mùa mưa yêu cầu nước tưới 20%, mùa khô yêu cầu 80% [25], [1]. Ngoài ra nước tưới làm thay đổi môi trường sinh thái và có tác động không nhỏ đến hoạt động của con người.
Nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp được cung cấp từ nguồn tự nhiên thông qua hệ thống công trình thủy lợi. Để khai thác tốt công trình thuỷ lợi cần phải có một cơ chế tổ chức quản lý hệ thống phù hợp.
Tình trạng khô hạn, lũ lụt xảy ra và tác hại của nó đối với con người đã thể hiện tác động hai mặt của nước đối với sản xuất và đời sống xã hội. Con người với vai trò chủ thể, cần phải nhận thức rõ tác động xấu của nước để có biện pháp điều chỉnh và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu đối với sản xuất và đời sống.
Thủy lợi được hiểu là những hoạt động liên quan đến ý thức của con người trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên nước để phục vụ cho lợi ích của mình. Để đảm bảo việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước, cần phải có nhân, vật, lực để xây dựng, quản lý, khai thác các công trình thủy lợi nhằm đạt được nhiều lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, mục đích bao trùm của các công trình thủy lợi là phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường sinh thái và hạn chế sự tác động bất lợi của nước đối với sản xuất và đời sống. Các công trình thủy lợi có tác dụng ngăn nước, giữ nước, điều tiết dòng chảy theo ý đồ của con người. Đối với nông nghiệp, tác dụng của thủy lợi thể hiện thông qua hoạt động tưới, tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất cây trồng.
Ngoài những tác dụng đối với sản xuất và đời sống, các công trình thủy lợi còn có tác dụng trong việc bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái và mở ra những điều kiện cho phát triển một số ngành kinh tế mới như du lịch, nuôi trồng thủy sản, giao thông... Như vậy, có thể thấy rằng ngoài vai trò đối với cây trồng, các công trình thủy lợi xét trên các phương diện khai thác khác nhau còn có tác dụng nhiều mặt và hiệu quả ngày càng khả quan.
2.3. Hiện trạng hoạt động của một số hệ thống thuỷ nông ở nước ta
2.3.1. Hiện trạng hoạt động
Ở nước ta, hầu hết các công trình thuỷ nông được đầu tư xây dựng từ những năm 60 của thế kỷ trước, trải qua nhiều năm sử dụng đã xuống cấp, công suất thực tế không đảm bảo so với yêu cầu, đó là điều dễ nhận thấy.
Theo thống kê trong 15 năm trở lại đây, hiệu quả phục vụ tưới, tiêu của hệ thống thủy lợi đạt kết quả thấp. Trong phạm vi toàn quốc, hệ thống tưới mới chỉ đạt được 1.261.901 ha trong tổng số 2.065.062 ha, đạt 62,7 % năng lực thiết kế. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới kết quả hoạt động của hệ thống tưới thấp có nguyên nhân quản lý nước mặt ruộng không khoa học [22]. Hơn nữa vụ đông xuân năm 2005, cả nước có kế hoạch gieo cấy 2,9 triệu ha lúa, nhưng khi cân đối khả năng nguồn nước và năng lực các công trình thủy lợi hiện có chỉ đảm bảo tưới cho 2,7 triệu ha lúa. Đây là vấn đề cần được các ngành, các cấp quan tâm, chủ động tìm giải pháp đối phó nhằm hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất do hạn hán gây ra (Nông nghiệp nông thôn Việt Nam 28/3/2005).
Theo ông Ngô Văn Toán giám đốc công ty khai thác công trình thuỷ lợi Bắc Nam Hà, toàn công ty có 8 trạm bơm lớn đặt dọc sông Hồng và sông Đà thì trừ hai trạm mới xây, trạm Như Trác mới nâng cấp, năm trạm còn lại đều được lắp đặt từ những năm 1960-1970. Các máy bơm do Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu chế tạo nay đã hết hạn sử dụng. “Các bảng điện, tủ điều khiển, động cơ của máy đều lão hóa. Trục bơm nước lạc hậu đến nỗi chẳng tìm ra thiết bị thay thế, buộc chúng tôi phải hàn vá chắp nối trục cũ rất thủ công”. Ông Toán đánh giá hệ thống này chỉ tận dụng 60% nguồn nước thủy triều và nước xả từ hồ Hòa Bình, còn lại đành để trôi ra biển.
Trong hệ thống thủy lợi Bắc bộ, ngoại trừ sông Hồng và Thái Bình, các sông còn lại đều bị bồi lắng. Đầu tháng 2-2006 khi mực nước sông Hồng tại Hà Nội xuống 1,6m thì các sông nhỏ gần như biến thành mặt ruộng, dòng chảy không hề tồn tại. Đơn cử sông Sắt, sông Châu Giang (chảy qua hai tỉnh Hà Nam, Nam Định) bị bồi lắng với độ dày từ 0,8-1,3 m.
Theo ông Phạm Xuân Sử, cục trưởng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, thừa nhận tất cả công trình thủy lợi ở đồng bằng sông Hồng đều xuống cấp. Hằng năm, ngành thủy lợi thu thủy lợi phí được 500 tỷ đồng nhưng phải trả cho ngành điện, trả lương gần 20.000 công nhân quản lý, vận hành. Số kinh phí dành cho duy tu, cải tạo, nâng cấp công trình còn lại rất ít. Theo đánh giá, các công trình thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp mới khai thác được 60 - 65% năng lực thiết kế. Cá biệt có công trình mới khai thác được trên 30% năng lực, việc nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thêm 20% sẽ tạo ra một tiềm năng mới với công suất tưới khoảng 600.000 ha.
Bảng 2.1. Năng lực phục vụ thực tế của một số hệ thống thuỷ nông
STT
Tên CTKTCTTL
Tên
hệ thống
Loại hình
công trình
Năng lực
phục vụ (ha)
% so với thiết kế
1
Sông Cầu
Sông Cầu
Đập dâng
25.100
98
2
Thái Nguyên
Núi Cốc
Hồ chứa
6.500
54
3
Đông Anh
Đông Anh
Trạm bơm
6.047
97
4
Bắc Hưng Hải
Bắc Hưng Hải
Tự chảy
77.298
52
5
Nam Thái Bình
Nam Thái Bình
Tự chảy
44.973
88
6
Kẻ Gỗ
Kẻ Gỗ
Hồ chứa
19.529
93
7
Quảng Nam
Phù Ninh
Hồ chứa
14.500
63
(Nguồn: thống kê của Trần Phương Diễm - tạp chí viện Thủy Lợi năm 2000)
Theo thống kê của Trần Phương Diễm - 2000 [2], năng lực phục vụ nông nghiệp của một số hệ thống thuỷ nông khác nhau, có công trình đạt trên 80% so với thiết kế tưới như công trình Sông Cầu, Kẻ Gỗ; Công trình đạt hiệu quả thấp 50 - 60% như Bắc Hưng Hải, Phù Ninh, Núi Cốc (Bảng 2.1).
Theo thống kê của Viện Khoa học thuỷ lợi - 1995 [16], diện tích đất được tưới trên các khu vực ở nước ta vẫn đạt thấp. Bên cạnh đó, do đặc điểm thời tiết, khí hậu của các khu vực khác nhau làm ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp. Khu vực Bắc Trung Bộ diện tích tưới đạt thấp nhất chỉ 36,7%, trong khi đó đồng bằng Sông Hồng đạt gần 80% diện tích so với thiết kế. Một trong những chỉ tiêu đánh giá hoạt động của hệ thống thủy nông là lượng nước tưới cho cây trồng (chủ yếu là lúa) mà hệ thống có khả năng cung cấp.
Như vậy, các công trình thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp mới chỉ khai thác được 52 - 98% năng lực thiết kế. Cá biệt công trình thuỷ nông Bắc Hưng Hải với loại hình công trình tưới tự chảy mới khai thác được 52% năng lực. Ngoài ra có các công trình hoạt động rất tốt như hồ Kẻ Gỗ loại hình công trình hồ chứa đạt 93% năng lực, hệ thống thuỷ lợi Đông Anh đạt 97%, hệ thống thuỷ nông Sông Cầu đạt 98%.
Bảng 2.2. Thực tế khai thác và thiết kế về tưới của các hệ thống thuỷ nông phục vụ vụ Đông Xuân 1994 - 1995
Khu vực
Diện tích tưới
thiết kế (A)
Diện tích tưới thực tế (B)
%
(B/A)
Đồng bằng Sông Hồng
661.000
524.000
79,2
Khu vực Bắc Trung Bộ
339.900
124.800
36,7
Đồng bằng Sông Cửu Long
1.128.000
781.000
69,2
(Nguồn: Tuyển tập kết quả khoa học và công nghệ 1994 - 1999, (tập 2), NXB Nông nghiệp, Hà Nội)
Theo thống kê của viện thuỷ lợi, thực tế khai thác về tưới cho sản xuất nông nghiệp khác nhau giữa các vùng: Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tưới thiết kế là 1.128.000 ha, diện tích thực tưới 781.000 ha, năng lực phục vụ thực tế đạt 69,2%. Đồng bằng sông Hồng có diện tích tưới thiết kế là 661.000 ha, diện tích thực tưới là 524.000 ha năng lực phục vụ thực tế đạt 79,2%, cao hơn so với vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ (36,7%).
Nguyễn Văn Dung - 1999 [3]: Hệ thống tưới La Khê - Hà Tây là hệ thống tưới, tiêu bằng trạm bơm điện, hệ thống được đưa vào sử dụng năm 1963. Theo nhiệm vụ thiết kế, hệ thống phải đảm bảo tưới, tiêu cho 4 huyện thị với tổng chiều dài kênh chính là 33 km.
- Diện tích được tưới của hệ thống:
+ Vụ mùa năm 1997 diện tích được tưới là 5.595 ha trong đó tưới chủ động là 2.294 ha chiếm 44%, bán chủ động là 1.231 ha chiếm 19% và tạo nguồn là 2.070 ha chiếm 37%.
+ Vụ xuân năm 1998 diện tích tưới là 5.617 ha trong đó tưới, tiêu chủ động là 2.581 ha chiếm 45,95%, bán chủ động là 1.123 ha chiếm 19,99%, tạo nguồn là 1.913 ha chiếm 34,06%.
- Lượng điện tiêu thụ của hệ thống: Đối với chủ động toàn vụ năm 1997 là 318,54 kwh/ha, bán chủ động là 509,67 kwh/ha, tạo nguồn là 637,08 kwh/ha. Vụ mùa năm 1998 chủ động toàn vụ là 230,50 kwh/ha, bán chủ động là 368,08 kwh/ha, tạo nguồn là 461,0 kwh/ha.
Nguyễn Đức Tình [24 ] - hệ thống thuỷ lợi hồ EAKAO, diện tích tưới thiết kế của hệ thống là 1.900 ha, diện tích thực tưới của hệ thống chỉ đạt 42,68% so với nhiệm vụ thiết kế và 69,67% so với khả năng đảm nhiệm tưới (1.164 ha) của công trình. Diện tích tưới nghiệm thu của công trình là 688 ha, đạt 84,83% so với diện tích thực tưới 811 ha, 59% so với khả năng đảm nhiệm tưới của công trình. Kết quả thu thuỷ lợi phí của hệ thống tương đối thấp chỉ đạt 43,9% - 47,4% so với kế hoạch thu. Chi phí hàng năm của hệ thống luôn ở mức cao hơn so với tổng doanh thu, tỷ lệ thu chi ở mức thấp nhất và không ổn định. Năm 2001 tỷ lệ thu chi của hệ thống là 55,6% và năm 2002 là 64,9%.
Hoàng Anh Đức [6] - hệ thống tưới kênh Đông (trạm bơm Văn Giang). Công trình đầu mối của trạm bơm gồm 2 cụm máy bơm. Cụm máy bơm kênh Tây gồm 4 máy, công suất mỗi máy là 250 kw với lưu lượng là 8.100 m3/h, tưới cho 4.477 ha. Cụm máy kênh Đông có 3 máy, công suất mỗi máy là 200 kw với lưu lượng là 7.000 m3/h, tưới cho 3.290 ha. Thời kỳ tưới ải với số giờ bơm là 1.441h, lượng điện tiêu thụ của hệ thống là 223.286 kwh và tổng lượng nước đạt 6.508.632 m3, tưới tự chảy qua trạm bơm di động cấp 2 tổng lượng nước là 2.559.103,08 m3, lượng điện tiêu thụ là 17.654,886 kwh. Thời kỳ tưới dưỡng với thời gian bơm là 1.454h, lượng điện tiêu thụ là 228.155 kwh, tổng lượng nước cung cấp là 10.936.181 m3 và 4.399.874,80 m3 nước tương ứng với lượng điện tiêu thụ là 109.996,870 kwh đối với tưới tự chảy qua trạm bơm di động cấp 2. Hàng năm, sau khi xí nghiệp quyết toán thu chi, tổng chi luôn vượt so với tổng thu do đó Nhà nước vẫn phải bù lỗ. Tỷ lệ thu chi của hệ thống chỉ đạt 74,8% năm 1993 và 77,3% năm 1994.
Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải nằm giữa đồng bằng Sông Hồng có diện tích tự nhiên 200.230 ha, bao gồm địa giới của 4 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương (thành phố Hải Dương, Bình Giang, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Gia Lộc, Ninh Giang, Tứ Kỳ), Bắc Ninh (Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài), Hà Nội (Gia Lâm, Long Biên). Hệ thống được bao bọc bởi 4 con sông lớn với chiều dài chảy qua hệ thống khá dài, Sông Đuống ở phía Bắc (67km), Sông luộc ở phía Nam (72 km), Sông Thái Bình phía Đông (73 km), Sông Hồng ở phía Tây (57 km).
Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải là hệ thống thuỷ nông liên tỉnh lớn ở miền Bắc, đa số diện tích trong vùng phải tiêu bằng bơm:
Về tưới: Nguồn nước thời kỳ căng thẳng nhất là thời kỳ lấy nước đổ ải vụ chiêm xuân, từ 20 tháng 1 đến 10 tháng 2 nếu mực nước sông Hồng tại cống Xuân Quan bình quân đạt +1,94 m kết hợp với việc lấy nước trữ sớm từ ngày 05 tháng 1, lấy nước ngược qua Cầu Cất - Cầu Xe - An Thổ, đồng thời nạo vét khơi thông dòng chảy các kênh dẫn cấp 2 theo thiết kế thì đảm bảo đủ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu vào tháng 1, tháng 2 mực nước tại Xuân Quan thấp hơn 1,94 m thì tình hình cung cấp nước gặp khó khăn, cụ thể hạn vụ chiêm xuân các năm 1998, 2003, 2004 phải lấy nước ngược qua cống Cầu Cất - Cầu Xe - An Thổ chiếm đến 40 - 50 % tổng lượng nước yêu cầu do mực nước tại Xuân Quan chỉ đạt +1,54 m. Mực nước thấp nhất tại Xuân Quan ngày 30/01/2005 chỉ đạt +1,26 m, Kênh Cầu +0.86 m, Bá Thuỷ +0,66 m, tại Neo +0,58 m thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ 30 - 40cm nên các trạm bơm hoạt động không đạt hiệu quả. Hiện nay do hệ thống kênh mương bị bồi lắng, các trạm bơm bị xuống cấp nên việc cung cấp nước thường không kịp thời vụ, đặc bệt những năm gần đây do sự điều tiết của hồ Hoà Bình. Năm 2005 và 2006 việc cung cấp nước cho vụ Đông Xuân gặp rất nhiều khó khăn. Theo thống kê diện tích hạn trong vùng hàng năm khoảng 33.000 - 36.000 ha, tuy toàn bộ diện tích được gieo cấy nhưng phải kéo dài thời gian gieo cấy, chậm thời vụ nên ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và ảnh hưởng đến các vụ khác.
Về tiêu: Hiện nay diện tích lưu vực là 192.045 ha được phân thành hai vùng đó là vùng bơm trực tiếp ra sông ngoài 51.800 ha (tiêu ra sông luộc 20.677 ha, tiêu ra sông Đuống 1.500 ha, tiêu ra sông Thái Bình 29.410 ha), vùng tiêu qua Cầu Xe - An Thổ 140.245 ha trong đó tiêu bằng động lực 77.550 ha, tiêu tự chảy 62.695 ha. Hiện nay do sự biến động và thay đổi của khí tượng thuỷ văn, sự xuống cấp của công trình, sự hạn chế trong đầu tư và quản lý khai thác, sự tăng mực nước ở các cửa tiêu Cầu Xe - An Thổ nên một số diện tích bị úng, một số vùng tiêu tự chảy nay phải tiêu bằng động lực, diện tích úng trong vùng lớn nhất là năm 2004 với 62.062 ha, năm 2003 là 13.365 ha, năm 2005 là 7.032 ha.
Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải cũng như các hệ thống thuỷ nông khác của nước ta đã được xây dựng từ nhiều năm trước, hiện nay nhiều công trình đã xuống cấp, kênh mương bị bồi lắng, các trạm bơm sử dụng đã lâu bị hư hỏng... cần phải nâng cấp, sửa chữa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong tình hình mới.
2.3.2. Tài chính trong quản lý thủy nông
Nhìn chung, thủy lợi phí có thể đủ khôi phục chi phí về hoạt động và vận hành. Hầu hết các nước trong những năm gần đây mới tiến hành thu thuỷ lợi phí, chủ yếu ở vùng thiếu nước. Ví dụ, Indonexia đưa ra phí dịch vụ thủy lợi (ISF) mãi tới năm 1987 để khôi phục chi phí hoạt động và bảo hành những cơ sở hạ tầng, mặc dù khôi phục tiền vốn cũng dần dần được đưa vào giá tiền nước. Ở Philippin chủ yếu là để cấp cho việc hoạt động và bảo hành các hệ thống thủy lợi. Giá tiền ở mùa khô cao hơn giá tiền vào mùa mưa do lượng nước cấp vào mùa khô không đủ. Tuy nhiên, chỉ có những cánh đồng có năng suất ít nhất là 40 cavan/ha một vụ mới phải trả tiền thủy lợi phí (1 cavan = 50 kg). Những cánh đồng có năng suất dưới 40 cavan/ha thì được miễn phí. Người nông dân có thể trả thủy lợi phí bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật. Việc quy ra tiền mặt là dựa trên giá hỗ trợ của Chính phủ đối với lúa tại thời điểm trả tiền. Giá đối với các loại cây trồng khác bằng 60% giá của lúa. Giá đối với các hệ thống trạm bơm là cao hơn do phải chi phí trả tiền điện [17].
Nguồn thu của các công ty thuỷ nông là thuỷ lợi phí. Mặc dù, trong 1 vụ sản xuất nước tưới cung cấp cho 1 ha đất canh tác là như nhau nhưng mức thu thuỷ lợi phí khác nhau.
Theo Nghị định 122/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành ngày 25/08/1984 về việc thu chi thuỷ lợi phí của các công ty khai thác công trình thuỷ nông. Quy định mức thu thủy lợi phí như sau:
- Tưới, tiêu chủ động phải nộp: 100% mức tính toán.
- Tưới, tiêu bán chủ động phải nộp: 80% mức tính toán.
- Tưới tạo nguồn phải nộp: 60 - 70% mức tính toán.
Hiện nay ở Việt Nam thủy lợi phí vẫn thu theo Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh. Các chính sách về thủy lợi phí, chính sách hỗ trợ tài chính, đặc biệt về phát triển tổ chức quản lý thủy nông cơ sở hay các điều kiện để thực hiện chuyển giao công trình cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý được quy định trong Nghị định này. Một số văn bản pháp lý có liên quan cũng góp phần khẳng định chủ trương của Nhà nước trong việc phát triển tổ chức quản lý thủy nông cơ sở và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý thủy nông. Nghị định của Chính phủ số 29/1998/NĐ-CP ngày 15/11/1998 khẳng định tính dân chủ là cơ sở đảm bảo tính bền vững của tổ chức quản lý thủy nông cơ sở....
Thủy lợi phí gắn liền với quá trình xây dựng công trình từ bước quy hoạch đến khâu quản lý. Định giá thủy lợi phí và thu thủy lợi phí gắn bó chặt chẽ với tất cả các yếu tố trong quá trình đó.
Trong quy hoạch công trình, người ta phải xác định được nhiệm vụ cụ thể của công trình đó trên cơ sở điều kiện tự nhiên và xã hội. Khi mà cả một cộng đồng những người hưởng lợi đều có nguyện vọng và nhất trí để xây dựng thì vấn đề tài chính cho xây dựng sẽ thuận lợi hơn (so với tự tổ chức để xây dựng). Mức đóng góp của người dân sẽ là cao nhất để cùng với Chính phủ xây dựng (ngay ở Nhật chỉ khi nào có tối thiểu 75% số người hưởng lợi nhất trí thì công trình mới được Nhà nước tài trợ xây dựng chứ không phải loại bỏ). Trên cơ sở đó việc thu các khoản tiền cho quá trình vận hành quản lý sẽ thực sự dễ dàng hơn.
Trong giai đoạn xây dựng: Sự tham gia và giám sát chặt chẽ của đại diện cộng đồng người hưởng lợi sẽ tạo ra cho họ một niềm tin rằng công trình của họ sẽ bền vững. Số tiền Nhà nước và sự đóng góp của họ được đầu tư toàn bộ cho công trình, và điều quan trọng họ tự thấy mình là chủ thực sự.
Trong quá trình quản lý vận hành: Thông thường chỉ đến giai đoạn này người ta mới nghĩ đến thủy lợi phí. Nếu chỉ là định mức được ban bố trên cơ sở pháp lệnh thì việc thu còn tương đối dễ dàng, nhưng nó sẽ không dễ đối với vùng miền núi. Còn nếu là định mức của cơ sở đặt ra, không có sự tham gia của người hưởng lợi thì thực sự là khó. Tách rời các giai đoạn trên, người hưởng lợi cảm thấy bị “đòi” nhiều hơn là họ tự nghĩ phải “bỏ ra” hoặc “đóng góp” cho quản lý vận hành.
Mức thu thủy lợi phí giúp các công ty thủy nông hạch toán kinh doanh, phải đảm bảo đủ đầu tư sửa chữa các công trình phục vụ trong hệ thống. Chi phí của các hệ thống ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống. Đặc biệt việc chi trả tiền điện chiếm tỷ lệ cao trong chi phí của hệ thống.
Một trong những nguyên nhân khiến các công trình thuỷ nông hoạt động chưa hết năng suất là do thiếu kinh phí. Thủy lợi phí hiện là nguồn thu chủ yếu của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ nông. Hàng năm, cả nước thu được khoảng 500-600 tỷ đồng từ các công trình này, đạt 70-80% kế hoạch. Số tiền này để đầu tư cho công tác quản lý vận hành và duy tu, bảo dưỡng công trình. Song chi phí sửa chữa thường xuyên các công trình thuỷ nông lại chưa đảm bảo, chỉ đạt 10-15% tổng chi phí hoạt động tưới, tiêu. Chi phí tiền điện khá lớn, chiếm tới 30-50% tổng chi phí. Ngành thủy lợi còn "đứng ngồi không yên" khi giá điện tăng, nhất là theo các phương án tăng tới 20% vào giờ cao điểm.
Theo ông Phạm Xuân Sử, cục trưởng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, để phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp thì ngay cả giờ cao điểm các trạm bơm cũng phải vận hành, do vậy thời gian tới chi phí của ngành thủy lợi lại đội thêm 20%. Gánh nặng này đè lên vai ngành thủy lợi vì chỉ 19% các doanh nghiệp khai thác các công trình thuỷ nông có doanh thu đủ bù đắp chi phí, còn lại 81% là thu không đủ bù chi.
Theo Yasuyuki Kono, năm 2000, thủy lợi phí ở hệ thống tưới Nam Hà1 rất khác nhau giữa các vị trí đầu kênh và cuối kênh. Trung bình là 206 kg/ha (3,9 % năng suất lúa trung bình),161 kg/ha (3,4 %) và 98 kg/ha (2,2 %), cho vụ đông xuân, 123 kg/ha ( 2,8%), 101 kg/ha và 60 kg/ha (1,7%) vụ mùa tương ứng ở đầu, giữa và cuối kênh. Trong khi năng lực thực tế của thống này chỉ đạt trung bình từ 60 - 75 % [27].
Theo Nguyễn Thế Kỷ - 1994, thống kê nhiều năm ở trạm bơm La Khê - Hà Tây chi phí tiền điện để bơm nước năm thấp nhất là 35% tổng chi phí, năm cao nhất là 50% tổng chi phí [12].
Hoàng Anh Đức - 1994, hạch toán kinh doanh ở xí nghiệp Văn Giang cho thấy tiền điện chiếm 34% tổng chi phí [6]. Hoặc hệ thống thuỷ lợi huyện Hoa Lư - Ninh Bình diện tích tưới thực tế chỉ đạt 70,15%, tiêu đạt 68,31% so với nhiệm vụ thiết kế và đây là nguyên nhân chính, tổng thu/tổng chi chỉ đạt 62,91%, trong đó tiền điện chiếm cao nhất tới 67,68% tổng chi phí [4].
Như vậy, hệ thống thủy lợi có vai trò to lớn đối với sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn và là một trong những công trình thuộc cơ sở hạ tầng trọng yếu trong nông nghiệp. Ở Việt Nam cũng như các nước trong khu vực, tình trạng công trình xuống cấp và hoạt động đạt hiệu quả thấp là nguyên nhân làm cho sử dụng nước lãng phí và cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho nhiều công trình gặp khó khăn về vấn đề tài chính, không đáp ứng được nhu cầu duy tu bảo dưỡng để nâng cao hiệu quả hoạt động của công trình. Do vậy, vấn đề quản lý thủy nông không chỉ là kỹ thuật mà còn là vấn đề xã hội, thể chế tổ chức trong đó nhấn mạnh đến sự tham gia của người dân.
Ngoài ra, việc tiếp tục đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống là cần thiết, để chỉ rõ những tồn tại, từ đó sẽ có cơ sở để giúp hệ thống khắc phục tình trạng lãng phí nước và dần tiến đến diện tích tưới thực tế sẽ bằng diện tích tưới thiết kế, điều đó có nghĩa hệ thống sử dụng nước ngày càng hiệu quả.
3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan đến hệ thống thủy nông
3.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.2.1.2. Điều kiện kinh tế
3.2.1.3. Điều kiện xã hội
3.2.2. Hiện trạng sử dụng đất năm 2006 và KHSDĐ đến năm 2010
3.2.3. Hiện trạng hệ thống thuỷ nông
3.2.3.1. Phân chia khu vực tưới tiêu trong hệ thống
3.2.3.2. Hiện trạng hệ thống các công trình của hệ thống
3.2.3.3. Tình hình úng hạn và hiệu quả của hệ thống
3.2.3.4. Tình hình tổ chức quản lý hệ thống
3.2.4. Đề xuất phương hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập tài liệu
* Số liệu thứ cấp (số liệu đã công bố): Các số liệu đã công bố như đất đai, dân số, lao động, tình hình sản xuất nông nghiệp, hoạt động hệ thống thủy nông...
* Số liệu sơ cấp (số liệu mới thu thập): Các số liệu về thực trạng hoạt động hệ thống như diện tích tưới tiêu, công suất máy, điện năng tiêu thụ, thủy lợi phí. Các số liệu được thu thập từ các phòng ban chức năng, các đơn vị cụm thông qua phỏng vấn trực tiếp và điều tra quan sát hệ thống.
3.3.2. Phương pháp phân tích số liệu
* Phương pháp phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm như Microsoft excel để phân tích số liệu, Mapinfo, Microstation... để biên tập bản đồ.
* Phương pháp so sánh: Các chỉ tiêu số liệu cần thiết sau khi được chọn lọc và mô tả thống kê sẽ được tiến hành so sánh trong quá trình phân tích.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Ninh Giang là huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Hải Dương, cách trung tâm thành phố Hải Dương khoảng 30 km theo quốc lộ 37A. Địa bàn huyện nằm trong toạ độ địa lý: Từ 21047’ đến 21049’ vĩ độ Bắc và 106016’ đến 106020’ kinh độ Đông. Địa giới hành chính của huyện như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Tứ Kỳ và Gia Lộc;
- Phía Tây giáp huyện Thanh Miện;
- Phía Đông giáp huyện Tứ Kỳ và huyện Vĩnh Bảo- Hải Phòng;
- Phía Nam tiếp giáp với tỉnh Thái Bình.
Là huyện nằm ở cuối tỉnh Hải Dương nhưng Ninh Giang có hệ thống giao thông khá thuận lợi như: Đường QL37A nối QL5 với QL10 thông ra QL1; Tỉnh lộ 20 qua Thanh Miện ra Kẻ Sặt và QL5. Đó là những tuyến giao thông quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa huyện với thành phố Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình và các địa phương khác trong vùng. Về đường thuỷ, huyện có 3 con sông bao bọc: Sông Luộc, sông Đình Đào và sông Cửu An - là những tuyến giao thông thuỷ thuận lợi nối huyện với các vùng lân cận.
Toàn huyện có 28 đơn vị hành chính (27 xã và 1 thị trấn), thị trấn huyện lỵ Ninh Giang nằm ở tận cùng phía Nam của huyện, tiếp giáp với Hải Phòng và Thái Bình.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 13.540,49 ha, với số dân 150.153 người. Mật độ dân số bình quân 1.120 người/km2, là huyện có mật độ bình quân cao hơn toàn tỉnh (mật độ trung bình toàn tỉnh là 1.035 người/km2).
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Là vùng đồng bằng chiêm trũng, địa hình phức tạp, cao thấp xen kẽ, có hướng nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, Ninh Giang thuộc vùng có địa hình thấp của tỉnh Hải Dương. Sự chênh lệch địa hình từ +0,6 đến +2,6 m, nơi thấp nhất +0,3 m so với mực nước biển.
Dựa vào đặc điểm địa hình huyện Ninh Giang có sông Cửu An chia đôi huyện thành hai khu vực: Phía Bắc và phía Nam sông Cửu An, hai khu vực này còn được gọi là tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện và tiểu khu Đông Nam sông Cửu An. Các xã ở phía Bắc huyện có địa hình cao hơn các xã phía Nam. Tuy nhiên địa hình trong đồng cũng đa dạng, cao thấp xen kẽ.
4.1.1.3. Khí hậu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 272nh gi hi7879n tr7841ng ho7841t 2737897ng c7911a h7879 thamp.doc