The quality of underground water is decreasing and affecting the quality of life and health of the
citizen. To overcome, the state has made efforts to provide tap water to the local. However, the rate
of use is still very low. The study aims to survey water use status and opinions of people who live in
district 12 on the current groundwater quality. At the same time, 33 samples of underground water
are taken over 11 wards for quality evaluation. Initial results show that 97% of people still use
groundwater as their main source of subsistence and very only a few people using tap water,
although groundwater quality is showing a severe decline. Particularly low pH values range from
4.5 to 5.2 water samples that do not reach the standards causing the acidic water environment. In
addition, the level of microbial contamination at very high levels for coliform concentrations
reached more than 1000 CFU / 100 ml far exceeds the permissible standards in all 11 wards.
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiện trạng sử dụng nước và chất lượng nước ngầm trên địa bàn quận 12 - Thành phố Hồ Chí Minh - Lê Đức Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 66
BÀI BÁO KHOA H
C
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC VÀ CHẤT LƯỢNG NƯỚC
NGẦM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 12 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Đức Anh1, Hồ Hữu Lộc2,3, Lương Quang Tưởng1, Trần Thành2
Tóm tắt: Chất lượng nguồn nước ngầm đang ngày càng suy giảm và gây ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng sinh hoạt và sức khỏe của người dân. Để khắc phục, nhà nước đã có những nỗ lực cấp
nước về các địa phương nhưng tỷ lệ sử dụng vẫn không cao. Đề tài triển khai khảo sát hiện trạng sử
dụng nước và quan điểm của người dân khu vực quận 12 về chất lượng nước ngầm hiện tại, đồng thời
tiến hành lấy 33 mẫu nước ngầm đang được sử dụng trải đều trên 11 phường để đánh giá tình hình
chất lượng nước hiện tại. Kết quả ban đầu cho thấy có đến 97% số người dân vẫn sử dụng nước
ngầm làm nguồn sinh hoạt chính và hầu như đều không hoặc rất ít sử dụng nước thủy cục mặc dù
chất lượng nước ngầm đang cho thấy suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là chỉ tiêu pH ở mức thấp dao
động từ 4,5 - 5,2 mẫu nước không đạt quy chuẩn cho phép làm cho môi trường nước có tính axit.
Ngoài ra, mức độ ô nhiễm vi sinh ở mức rất cao đối với Coliform và nồng độ cao nhất đạt đến hơn
1000 CFU/100 ml vượt hơn rất nhiều lần so với các quy chuẩn cho phép trên toàn 11 phường.
Từ khóa: chất lượng nước ngầm, hiện trạng sử dụng nước, quận 12 - TP Hồ Chí Minh.
1. GIỚI THIỆU*
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất
ở Việt Nam với dân số theo niên giám thống kê
2016 khoảng 8,441 triệu người và đang gia tăng
nhanh chóng do di cư nội địa và tăng trưởng tự
nhiên. Thành phố Hồ Chí Minh gồm có 24 quận/
huyện và quận 12 là quận nội thành, có vị trí nằm
ở phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, có
diện tích là 2095 km2, mật độ dân số là 4,029
người/km2. Ở tình hình hiện tại, nhu cầu kinh tế,
nhu cầu việc làm ngày càng tăng và người dân
vùng thôn quê theo xu thế đổ bộ vào thành phố
Hồ Chí Minh sinh sống để có cơ hội tìm việc làm
tốt hơn, kết hợp với việc quận 12 đang có những
tiến triển về dân số (đạt hơn 526 nghìn) nên tình
hình dân sinh của quận 12 đang gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại và kéo theo sau đó là những tác
động có liên quan đến môi trường.
Các khu vực vùng ven ở thành phố Hồ Chí
Minh con số sử dụng nước ngầm đều từ 50% trở
lên và đặc biệt là ở khu vực quận 12, con số đó
lên đến 90% (Sở tài nguyên và Môi trường,
1Khoa công nghệ sinh học và môi trường, Trường ĐH
Nguyễn Tất Thành
2Viện kỹ thuật công nghệ cao NTT, Trường ĐH Nguyễn
Tất Thành
3Trung tâm Quản lý nước và Biến đổi khí hậu, Đại học
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
2013) cho thấy rằng nguồn nước sử dụng chính
trong tất cả các hoạt động của người dân ở quận
12 là nguồn nước ngầm.
Vấn đề đáng báo động hiện giờ là việc sử
dụng, tiếp xúc trực tiếp nguồn nước này vào bên
trong cơ thể con người có nguy cơ gây nên
những hậu quả, ảnh hưởng tức thời hoặc tích lũy
qua thời gian gây ra những hệ lụy khôn lường.
Với mức phơi nhiễm nhẹ thì có thể gây ra một
số bệnh lý cấp tính nhưng càng về sau các triệu
chứng diễn ra ngày càng nặng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến bệnh mãn tính hoặc
ung thư. Các nghiên cứu về nước ngầm cũng
đang được quan tâm và triển khai như (Nguyễn
Văn Ngà, 1998) đã đánh giá mức độ ô nhiễm
tầng nước ngầm nông khu vực nghĩa trang Bình
Hưng Hòa về chất lượng nước ngầm (Ngà et al.,
1998), hay Michael Berg cùng cộng sự đã đánh
giá về ô nhiễm Asen trong khu vực sông Mê –
Kông, đặc biệt trong nước ngầm (Berg et al.,
2007). Qua đó Nguyễn Hào Quang và cộng sự
cũng đã có những nghiên cứu, đánh giá rủi ro
sức khỏe đối với vấn đề ô nhiễm Asen (As)
trong nước ngầm ở Thành phố Hồ Chí Minh
(Quang, 2014). Nhưng hầu hết các nghiên cứu
chỉ tập trung vào đánh giá chất lượng nước
ngầm và đề ra giải pháp cải thiện hay làm sao để
khai thác hợp lý.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 67
Do đó, đề tài được thực hiện với mục tiêu
đánh giá chất lượng nước ngầm và hiện trạng sử
dụng nước cùng quan điểm cùa người dân về
chất lượng nước ngầm hiện tại trong khu vực
Quận 12 – vốn là khu vực vẫn còn dùng nước
ngầm phổ biến. Hiện tại với báo cáo mức độ cấp
nước thủy cục tại khu vực quận 12 đã được hoàn
chỉnh nhưng qua quá trình khảo sát hiện trạng
cấp nước thủy cục thì có 97% đã được cấp nước
thủy cục còn lại 3% vẫn chưa được cấp. Thông
qua các kết quả khảo sát và thực trạng, đề tài
“Đánh Giá Hiện Trạng Sử Dụng Nước Và Chất
Lượng Nước Ngầm Trên Địa Bàn Quận 12 –
TP.HCM” sẽ cung cấp thông tin hỗ trợ cho các
giải pháp cho việc triển khai các chính sách dựa
trên ý kiến người dân, từ đó đề ra phương hướng
từng bước hạn chế việc sử dụng nước ngầm.
2. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
2.1. Phương pháp lấy, bảo quản mẫu và
phương pháp khảo sát
Tổng cộng 100 phiếu khảo sát phân bố đều cho
11 phường toàn quận 12 ở hình 1 bao gồm Thạnh
Lộc (TL), An Phú Đông (APD), Thạnh Xuân
(TX), Thới An (TA), Hiệp Thành (HT), Tân Thới
Hiệp (TTH), Đông Hưng Thuận (DHT), Tân
Chánh Hiệp (TCH), Tân Thới Nhất (TTN), Tân
Hưng Thuận (THT), Trung Mỹ Tây (TMT).
Hình 1. Bản đồ lấy mẫu nước giếng phân bố
11 phường trong quận 12 – TPHCM
Phiếu đánh giá về hiện trạng sử dụng nước và
các ý kiến quan điểm của người dân về chất
lượng nước đang sử dụng được triển khai bằng
phương pháp phỏng vấn trực tiếp cùng lúc với
thời điểm lấy mẫu (tháng 06/2018). Các mẫu
nước giếng được lấy mẫu theo TCVN 6663-
1:2011 (ISO 5667-1:2006) tại 11 phường trên
địa bàn quận 12 với mỗi phường 3 điểm mẫu, vì
đây là nghiên cứu sơ khởi để đánh giá sơ bộ
thực trạng nên chỉ tiêu không gian được lựa
chọn là phường. Sau đó trong mỗi phường lấy 3
mẫu đế tính toán giá trị trung bình, phương sai
và độ lệch chuẩn của tập mẫu. Kết quả của
những tính toán này được trình bày trong hình ở
hình 4 (trang 6) và tổng cộng là số lượng mẫu là
33 mẫu nước giếng cho toàn quận. Phương pháp
bảo quản và xử lý mẫu được thực hiện theo
TCVN 6663-3:2008 (ISO 5667-3:2003).
2.2. Phương pháp phân tích
Quá trình thực hiện phân tích được thực hiện
sau thời điểm lấy mẫu tại phòng thí nghiệm Công
nghệ Môi trường thuộc Viện kỹ thuật Công nghệ
cao NTT – ĐH Nguyễn Tất Thành. Các chỉ tiêu
được đánh giá bao gồm: pH, EC, TDS, độ mặn,
được đo trực tiếp tại điểm lấy mẫu, các chỉ tiêu
khác được thực hiện tại phòng thí nghiệm như
amoni (TCVN 5988:1995), Nitrit (SMEWW 4500
NO2- B:2012), Nitrat (SMEWW 4500-NO3-
E:2012), Sunphat (SMEWW 4500- SO42-
E:2012), tổng sắt (TCVN 6177:1996), tổng nhôm
di động (SMEWW 3500-Al B:2012), độ cứng
tổng (TCVN 6224:1996) và E.Coli – Coliform
(SMEWW 9222).
2.3. Phương pháp xử lý số liệu - đánh giá
Các số liệu phân tích sẽ được đánh giá qua
việc so sánh với QCVN 09:2015/BTNMT về
chất lượng nước ngầm; QCVN 01:2009/BYT;
QCVN 02: 2009/BYT về chất lượng nước ăn
uống và sinh hoạt. Thống kê và xử lý được thực
hiện trên Excel 2013 và SPSS 20.
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Kết quả khảo sát hiện trạng sử dụng
nước trên địa bàn quận 12
3.1.1. Mô tả mẫu khảo sát
Thống kê chung về thông tin người được
điều tra trong mẫu khảo sát 100 phiếu cho thấy
người dân được khảo sát trong mẫu phần lớn là
nữ, chiếm tỷ lệ 57%. Với mẫu nghiên cứu này,
đa số lứa tuổi được khảo sát nhiều nhất nằm ở 2
độ tuổi là 18 – 30 (41%) và ở độ tuổi 30 – 50
(40%). Trong đó, nghề nghiệp của đối tượng
được khảo sát cũng là một trong những yếu tố
quan trọng trong việc đánh giá được mức độ dân
sinh, dân trí ở khu vực. Đa số tại khu vực nghiên
cứu là những hộ dân kinh doanh buôn bán (60%)
và lao động phổ thông (35%). Thu nhập bình
quân cũng là một trong những tiêu chí đánh giá
sơ bộ được tình hình kinh tế của khu vực nghiên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 68
cứu và tiềm năng sẽ là một trong những nhân tố
ảnh hưởng đến vấn đề sử dụng nước và nhận
thức. Mức thu nhập ở mức trung bình khá với tỷ
trọng nhiều nhất nằm ở ngưỡng từ 7 - 15 triệu
VNĐ/tháng (47%) và thấp nhất là mức thu nhập
dưới 3 triệu VNĐ/tháng (6%). Phân khúc cao
trên 15 triệu/tháng cũng chiếm hơn 25% tổng số
hộ khảo sát. Bên cạnh đó, số người trong từng hộ
gia đình nằm ở mức cao nhất là từ 3 - 4 người
(chiếm 50%) và mức 4 - 5 người (chiếm 22%)
cho thấy dự báo mức độ tiêu thụ nước của người
dân khu vực quận 12 ở mức trung bình với dân
số/hộ không quá cao. Qua khảo sát cũng cho thấy
38% hộ được khảo sát có các hình thức hoạt
động kinh doanh có liên quan đến nguồn nước,
số còn lại sử dụng nước với mục đích dân sinh.
Như vậy, qua các thông tin chung về đặc điểm cá
nhân được thu thập trong mẫu khảo sát bao gồm:
Độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thu nhập, số
người trong gia đình, kinh doanh liên quan đến
nguồn nước là khác nhau trong nhu cầu sử dụng
và quan điểm sử dụng nước. Nên các ý kiến về
quan điểm, sự khó khăn về nước sinh hoạt có thể
được thu thập đa chiều một cách khách quan từ
các đặc điểm cá nhân khác nhau.
3.1.2. Hiện trạng sử dụng nước và quan điểm
về chất lượng nước ngầm hiện nay
Qua 100 phiếu khảo sát ở hình 2 thì các hộ
dân cư ở trên địa bàn quận 12 hiện đang tồn tại
2 nguồn nước được sử dụng là nguồn nước
ngầm và nguồn nước máy với 98% số hộ dân
được khảo sát đã được cung cấp nguồn nước
máy, tuy nhiên 97% hộ khảo sát vẫn đang sử
dụng nguồn nước ngầm song song. Điều này
cho thấy hiện trạng người dân sử dụng nước
ngầm vẫn ở mức rất cao. Phân tích trong hiện
trạng sử dụng nước, có thể thấy được chi phí chi
trả cho việc sử dụng nước nhiều nhất nằm ở
mức 50.000 VNĐ (85%) cho thấy mức chi trả
cho việc sử dụng nước máy ở mức rất thấp. Mặc
khác, kết quả khảo sát nhu cầu sử dụng nước ở
mức 3 (từ 8 - 24 m3/tháng) trở lên chiếm tỷ
trọng 83% cho thấy được rằng nhu cầu sử dụng
nước cho sinh hoạt nằm ở mức rất cao. Đặc biệt
là có đến 33% số hộ sử dụng nước ở mức cao
nhất trong thang đo (trên 36 m3/tháng). Như
vậy, có thể thấy được sự chênh lệnh giữa mức
sử dụng và số tiền chi trả (cho nước cấp).
Có thể thấy quan điểm nhận thức của người
dân phần lớn cho rằng về chất lượng nước ngầm
hiện tại là khá tốt cho các mục đích sử dụng, đặc
biệt là ăn uống (chiếm 63%). Quan điểm ở hình
3 cho rằng sử dụng tốt cho sinh hoạt đến 25%
và chỉ nên dùng cho vệ sinh là 9%, chỉ có 3%
cho rằng chất lượng nước ngầm hiện tại không
sử dụng được.
Hình 2. Nhu cầu sử dụng nước và mức chi trả cho lượng nước máy sử dụng
(A- Ước lượng nước sử dụng hàng tháng; B - Mức chi trả nước máy hàng tháng
Hình 3. Quan điểm của người dân về chất lượng nước ngầm và khả năng phụ thuộc
sử dụng hiện tại (A - Mức độ khó khăn khi không sử dụng nguồn nước ngầm
để sinh hoạt; B - Quan điểm về chất lượng nước ngầm đang sử dụng hiện tại)
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 69
Qua giả thuyết đặt ra nếu không được sử dụng
nguồn nước ngầm để sinh hoạt sẽ gây khó khăn
như thế nào thì kết quả cho thấy được rằng người
dân sẽ gặp rất nhiều khó khăn (77%) khi không
được sử dụng nguồn nước ngầm, các khó khăn
được trả lời hầu hết theo ưu tiên là (1) vấn đề kinh
tế gia đình, (2) nước máy có mùi lạ, (3) sử dụng
nước ngầm nấu ăn ngon hơn. Qua đó cho thấy
mức độ quan trọng của nguồn nước ngầm trong
đời sống và thói quen sử dụng nước ngầm của
người được khảo sát trên địa bàn quận 12.
3.2. Kết quả đánh giá hiện trạng chất
lượng nước ngầm địa bàn quận 12
3.2.1. Đánh giá các chỉ tiêu về độ phèn
Hình 4. Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu đặc trưng nước nhiễm phèn
(A – Độ pH; B – Sunfate; C – Sắt tổng; D – Hàm lượng nhôm di động Al 3+)
Kết quả ở hình 4 cho thấy pH tại 11 phường ở
khu vực nghiên cứu không đạt (thấp hơn) quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09:
2015/BTNMT, QCVN 02:2009/BYT và QCVN
01:2009/BYT. Nước ngầm tại khu vực có tính axit
cao gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người
dân. Đối với chỉ tiêu Sunphat, so với QCVN
09:2015/BTNMT thì chỉ có 3 phường vượt
ngưỡng nồng độ cho phép là phường Tân Chánh
Hiệp, Hiệp Thành và Thạnh Xuân và vượt cao
nhất là ở phường Thạnh Xuân với mức đo được là
gần 600 mg/l. Tuy nhiên, khi so sánh nồng độ
SO42- phân tích được với QCVN về chất lượng
nước ăn uống, thì hầu như tất cả các phường đều
vượt ngưỡng và vượt rất cao, đặc biệt là ở phường
Thạnh Xuân vượt cao nhất với giá trị vượt gần
như gấp 2,5 lần so với QCVN 01/2009:BYT.
Hàm lượng sắt ở 11 phường trên địa bàn
quận 12 khi so sánh với QCVN 09:2015/BTNMT
hầu như đều không vượt ngưỡng quy định cho
phép, nhưng khi so sánh với QCVN
01/2009:BYT thì hàm lượng sắt ở tất cả các
phường đều vượt ngưỡng và đáng chú ý nhất là
ở phường An Phú Đông và phường Thạnh Lộc,
là 2 khu vực có nồng độ sắt vượt rất cao, vượt
hơn gấp 3 lần so với QCVN 01:2009/BYT. Bên
cạnh sắt tổng, nhôm di động (Al3+) là một trong
những chỉ tiêu cần thiết để đánh giá mức độ
nhiễm phèn. Qua kết quả phân tích cho thấy
được toàn khu vực quận 12 (11 phường), tất cả
đều có hàm lượng nhôm vượt xa quy chuẩn
nước ăn uống cho phép, thậm chí ở khu vực có
hàm lượng thấp nhất là phường Trung Mỹ Tây
đã vượt gấp 5 lần so với quy chuẩn. Nguồn
nước sinh hoạt nếu chứa nhiều nhôm sẽ gây nên
những hậu quả xấu cho cơ thể là điều kiện thuận
lợi bùng lên các dịch bệnh vô cùng nghiêm
trọng, tiêu chảy, bại liệt, giun sán, viêm não,
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 70
đau mắt hột, nấm. Tóm lại, chất lượng nước
ngầm ở toàn khu vực quận 12 đang bị ô nhiễm
phèn rất nặng, đặc biệt là đối với chỉ tiêu nhôm
(Al3+) và sắt (Fe2+) là 2 tiêu chí quan trọng trong
việc đánh giá nước ô nhiễm phèn đều vượt
ngưỡng rất cao khi so sánh với QCVN
01:2009/BYT - quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
chất lượng nước ăn uống, cho thấy được chất
lượng nước trên địa bàn quận 12 hiện không
thích hợp cho mục đích ăn uống và sinh hoạt.
3.2.2. Kết quả đánh giá các chỉ tiêu chất
lượng nước ngầm khác
Hình 5. Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu khác về chất lượng nước
(A – Chỉ tiêu Amoni; B – GHTĐ nitrate và nitrit; C – Độ cứng tổng cộng; D – Tổng TDS)
Hình 6. Kết quả đánh giá chỉ tiêu ô nhiễm
Coliform
Kết quả ở hình 5 chỉ ra hàm lượng amoni ở
địa bàn quận 12 không vượt so với quy chuẩn
nước sinh hoạt và ăn uống nhưng với quy chuẩn
QCVN 09 thì có thể thấy được hầu hết các chỉ
tiêu đều vượt ngưỡng và vượt cao nhất là ở
phường Tân Chánh Hiệp (gần như gấp 3 lần).
Theo đánh giá quy chuẩn nước ăn uống, cả hai
chỉ tiêu Nitrit và Nitrat đều có khả năng tạo
methaemoglobin nên nếu cùng tồn tại thì cần
được tính trên tỷ lệ giới hạn tối đa và hầu hết ở
khu vực quận 12 đều cho kết quả chất lượng tốt
và không vượt quy chuẩn cho phép. Với chỉ tiêu
độ cứng tổng và hàm lượng TDS đều đạt quy
chuẩn cho phép.
Cuối cùng, với đánh giá chỉ tiêu vi sinh, sự
tồn tại của Coliform và E.coli được xem là sự
nhiễm bẩn vi sinh ở hình 6, nhiễm phân trong
nguồn nước sử dụng. Kết quả phân tích cho thấy
không phát hiện sự tồn tại của Ecoli, tuy nhiên
hàm lượng Coliform lại rất phổ biến ở mức 8/11
phường nhiễm với hàm lượng vượt xa quy
chuẩn cho phép. Trong đó hai phường Tân
Chánh Hiệp và Đông Hưng Thuận có độ nhiễm
khuẩn cao nhất.
4. KẾT LUẬN
Kết quả khảo sát trên 100 hộ dân trải đều trên
11 phường của quận 12 - thành phố Hồ Chí
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 71
Minh cho thấy người dân vẫn đang rất tin tưởng
và sử dụng phổ biến nguồn nước ngầm mặc dù
đã được cung cấp nguồn nước cấp. Khó khăn
trong sự thay đổi nguồn nước sử dụng chủ yếu là
do vấn đề kinh tế của người dân và nhận thức về
chất lượng nước ngầm hiện tại chưa chính xác.
Thông qua kết quả phân tích các chỉ tiêu về chất
lượng nước ngầm và so sánh với các quy chuẩn
về nước của BTNMT (Bộ Tài nguyên và Môi
trường) và BYT (Bộ Y tế), có thể thấy được hiện
trạng chất lượng nước ngầm ở khu vực quận 12
là rất xấu. Trong đó, đặc biệt là mức độ nhiễm
phèn với hiện trạng là 11/11 phường và hàm
lượng ô nhiễm vi sinh vật cao 8/11 phường. Vì
thế nước ngầm ở khu vực quận 12 là hoàn toàn
không thích hợp cho mục đích sử dụng ăn uống
và sinh hoạt. Vậy nên, vấn đề về an toàn trong sử
dụng nước sinh hoạt và khả năng ảnh hưởng đến
vệ sinh y tế công cộng từ hiện trạng sử dụng
nước ngầm đang bị ô nhiễm cao ở khu vực quận
12 đang nằm trong tình trạng khẩn cấp và rất cần
thiết đề ra những chính sách phù hợp để hạn chế
sử dụng nước ngầm hướng đến việc có một
nguồn nước tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Berg, M., Stengel, C., Trang, P. T. K., Viet, P. H., Sampson, M. L., Leng, M., . . . Fredericks, D.
(2007). Magnitude of arsenic pollution in the Mekong and Red River Deltas — Cambodia and
Vietnam. Science of the Total Environment, 372, 413 - 425.
Ngà, N. V., Quang, N. V., Đạo, N. H., Hông, T. T., Tiến, P. M., Thi, N. V., & Quang, B. L. (1998).
Báo cáo kết quả thực hiện đề tài "Đánh giá mức độ ô nhiễm tầng nước ngầm nông khu vực nghĩa
trang Bình Hưng Hòa và đề ra phương pháp xử lý". TP.HCM.
Quang, N. H. (2014). Đánh giá rủi ro sức khỏe đối với vấn đề ô nhiễm Asen (As) trong nước ngầm
ở thành phố Hồ Chí Minh. Khoa học Trái đất và Môi trường, 1(30), 50 - 57.
Sở Tài nguyên và Môi trường (2013). Tình hình sử dụng nước, xử lý nước và tiềm năng tái chế
nước thải tại thành phố Hồ Chí Minh. TP. HCM.
Abstract:
ASSESSMENT OF CURRENT SITUATION OF THE WATER USE AND
GROUNDWATER QUALITY IN AREA DISTRICT 12 - HCMC
The quality of underground water is decreasing and affecting the quality of life and health of the
citizen. To overcome, the state has made efforts to provide tap water to the local. However, the rate
of use is still very low. The study aims to survey water use status and opinions of people who live in
district 12 on the current groundwater quality. At the same time, 33 samples of underground water
are taken over 11 wards for quality evaluation. Initial results show that 97% of people still use
groundwater as their main source of subsistence and very only a few people using tap water,
although groundwater quality is showing a severe decline. Particularly low pH values range from
4.5 to 5.2 water samples that do not reach the standards causing the acidic water environment. In
addition, the level of microbial contamination at very high levels for coliform concentrations
reached more than 1000 CFU / 100 ml far exceeds the permissible standards in all 11 wards.
Keywords: groundwater quality, current situation of water use, dictrict 12 - HCM city.
Ngày nhận bài: 02/8/2018
Ngày chấp nhận đăng: 01/9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37932_121678_1_pb_0428_2092594.pdf