- Tác dụng ức chế cảm giác đau: Thời gian
xuất hiện mất cảm giác đau ở nhóm nghiên
cứu là 2,8 ± 0,31 phút và nhóm chứng là 3,7 ±
0,57 phút. So sánh kết quả kết quả ở nhóm
nghiên cứu với Hoàng Văn Đại(2) là 3,5 ± 0,65
phút và nhóm chứng với Tạ Đức Luận(5) là 4,28
± 1,37 phút; Cao Thị Bích Hạnh(1) là 3,78 ± 0,62
phút. Thời gian giảm đau (thời gian tê) nhóm
nghiên cứu là 135,56 ± 7,84 phút; nhóm chứng
là 124,20 ± 8,79 phút. Kết quả nhóm nghiên cứu
cũng gần với kết quả của Lê Văn Chung(4),
Hoàng Văn Đại(2) và nhóm chứng tương đương
với kết quả của Cao Thị Bích Hạnh(1). Mức độ
giảm đau tốt ở nhóm nghiên cứu đạt 97,6% so
với Hoàng Văn Đại(2) 92,5%, Lê Văn Chung(4)
99,43%; ở nhóm chứng 82,9% so với Tạ Đức
Luận(5) 88,7%. Như vậy thời gian xuất hiện mất
cảm giác đau ở nhóm nghiên cứu sớm hơn so
với nhóm chứng, và tác dụng giảm đau kéo
dài hơn, mức độ giảm đau tốt hơn.
- Tác dụng ức chế vận động: Thời gian xuất
hiện liệt vận động ở nhóm nghiên cứu sớm
hơn so với nhóm chứng và thời gian phục hồi
vận động ở nhóm nghiên cứu cũng sớm hơn,
kết quả này phù hợp với các tác giả Cao Thị
Bích Hạnh(1), Lê Văn Chung(4), Hoàng Văn
Đại(2), Tạ Đức Luận(5), Kuusniemi(3).
- Ảnh hưởng trên tuần hoàn: Thay đổi
mạch giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05), sau gây tê HA nhóm nghiên cứu giảm
ít hơn so với nhóm chứng một cách có ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, trước khi gây tê đã truyền dịch tinh thể
10ml/kg và theo dõi sát trong mổ chủ động bù
dịch, truyền dịch keo, máu cho những trường
hợp cần thiết ngay cả khi chưa có biểu hiện tụt
HA. Chúng tôi dùng liều bupivacaine thấp
(nhóm nghiên cứu: 0,15mg/kg và nhóm chứng:
0,18mg/kg), ở nhóm nghiên cứu có 1 bệnh
nhân tụt HA (2,4%) và nhóm chứng có 6 bệnh
nhân tụt HA (14,6%). Kết quả trên cũng phù
hợp với Hoàng Văn Đại(2), Kuusniemi(3).
- Ảnh hưởng trên hô hấp: Trong suốt quá
trình phẫu thuật, SpO2 của bệnh nhân cả 2
nhóm luôn đạt 99% - 100%, với oxy thở qua
sonde mũi 3lít/phút, không có trường hợp nào
rối loạn nhịp thở cũng như tăng tiết đờm nhớt,
hay suy hô hấp phải hỗ trợ, phù hợp với
Hoàng Văn Đại(2), Lê Văn Chung(4) không ghi
nhận trường hợp nào suy hô hấp.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả gây tê tủy sống bằng Bupivacain phối hợp Sufentanil trong phẫu thuật chi dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 140
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GÂY TÊ TỦY SỐNG
BẰNG BUPIVACAIN PHỐI HỢP SUFENTANIL
TRONG PHẪU THUẬT CHI DƯỚI
Nguyễn Chí Dũng*, Nguyễn Hồng Sơn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả gây tê tủy sống bằng Bupivacain phối hợp Sufentanil trong phẫu thuật chi
dưới, và tác động của phương pháp vô cảm này trên tuần hoàn, hô hấp và các biến chứng.
Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chứng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 82 bệnh nhân, ASA I – II, tuổi trung bình 40,76 ± 17,98 tuổi,
được gây tê tủy sống để phẫu thuật chỉnh hình chi dưới chia thành 2 nhóm: nhóm 1 sử dụng Bupivacain phối
hợp Sufentanil và nhóm 2 dùng Bupivacain đơn thuần, từ tháng 06/2010 đến tháng 03/2011, tại Bệnh viện 175
– Bộ Quốc Phòng.
Kết quả: mức độ giảm đau tốt đạt 97,6%; thời gian xuất hiện mất cảm giác đau 2,8 ± 0,31 phút; thời gian tê
135,56 ± 7,84 phút; thời gian phục hồi vận động 116,78 ± 6,34 phút; bảo đảm tốt cho phẫu thuật chỉnh hình chi
dưới. Sau gây tê ít ảnh hưởng hô hấp, tuần hoàn: tỷ lệ mạch chậm 7,3%; tụt huyết áp 2,4%.
Kết luận: gây tê tủy sống bằng Bupivacain phối hợp Sufentanil là phương pháp vô cảm có hiệu quả tốt cho
phẫu thuật chi dưới, không ảnh hưởng hô hấp, và huyết động ổn định, ít xẩy ra tai biến, biến chứng trong và sau
mổ.
Từ khóa: gây tê tủy sống.
ABSTRACT
THE EFFECTIVE EVALUATION OF SPINAL ANESTHESIA WITH BUPIVACAINE COMBINED
SUFENTANIL FOR LOWER EXTREMETIES SURGERY
Nguyen Chi Dung, Nguyen Hong Son
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 140 - 147
Objective: To evaluate the effect of using Bupivacaine combined with Sufentanil in spinal anesthesia for
lower extremeties surgery and effects on respiration, circulation, complications.
Study design: prospective, cross-sectional, and case-control study
Patient and Methods: In this study, 82 patients, ASA I-II with mean age: 40.76 ± 17.98; underwent spinal
anesthesia for lower extremeties surgery. They were devided into 2 groups: group 1 using Bupivacaine combined
with Sufentanil, group 2 using Bupivacain lonely, from June 2010 to March 2011, at hospital 175- Ministry of
Defence.
Results: Good pain relief 97.6%, time of loss-pain appearance 2.8 ± 0.31minute, anesthesial time 135.56 ±
6.34 minute, time of movement recover 116.78 ± 6.34 minute, good ensuring for lower extremeties surgery. After
anesthesia, there were less effects on respiration and circulation. Rate of bradycardia 7.3%, hypotention 2.4%.
Conclusion: Spinal anesthesia using Bupivacaine combined with Sufentanil, having a good result for lower
extremeties surgery, no effects on respiration, stable hemodynamic, with less accidents and complications in
during and post-operation.
* Bệnh viện 175 - Bộ Quốc Phòng
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Chí Dũng, ĐT: 0988530769, Email: ncdung175@ymail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 141
Key word: Spinal anesthesia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây tê tủy sống (GTTS) là một phương
pháp gây tê vùng đơn giản mang lại hiệu quả
cao cho các phẫu thuật tầng dưới ổ bụng, đáy
chậu và hai chi dưới. Ngoài ra nó còn tránh
được các biến chứng của gây mê toàn thân và
đặt nội khí quản. Các thuốc GTTS ngày càng
được phát triển và hoàn thiện, giảm thiểu các
tác dụng không mong muốn và kéo dài thời
gian vô cảm đáp ứng được các phẫu thuật.
Việc GTTS bằng bupivacain heavy đã được áp
dụng từ những năm 80 của thế kỷ XX. Nó
mang lại kỳ vọng mới về độ an toàn hơn, ức
chế vận động tốt và thời gian vô cảm kéo dài
hơn rất nhiều so với các thuốc GTTS trước đó.
Cho đến nay nó được áp dụng rộng rãi để
GTTS. Tuy nhiên không có một loại thuốc tê
nào hoàn hảo. Song song với những ưu điểm
trên lại có những báo cáo về tác dụng phụ của
thuốc này là gây ngộ độc cơ tim, gây ngừng
tim. Để khắc phục tác dụng phụ này, đã có
các báo cáo là giảm liều lượng thuốc tê bằng
cách kết hợp bupivacain với các loại thuốc
như nhóm mocphin, clonidin, prostigmin,
adrenalin. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu áp dụng GTTS bằng bupivacain
phối hợp với sufentanil trong phẫu thuật chi
dưới nhằm mục đích:
- Đánh giá hiệu quả GTTS bằng bupivacain
phối hợp sufentanil trong phẫu thuật chi dưới.
- Đánh giá tác động của phương pháp vô
cảm này trên tuần hoàn, hô hấp và các
biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
82 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật chi
dưới, được GTTS chia thành 2 nhóm tại khoa
GMHS Bệnh viện 175 từ 06/2010 đến 03/2011:
- Nhóm 1: Dùng hỗn hợp bupivacain heavy
0,5% liều thấp (0,15mg/kg) và sufentanil 5mcg.
- Nhóm 2: Dùng đơn thuần bupivacain
heavy 0,5% thông thường liều 0,18mg/kg.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được mổ chương trình vùng chi
dưới, xếp loại ASA I-II, tinh thần bình thường,
không có chống chỉ định GTTS.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân bị nhiễm trùng toàn thân hoặc
vùng gây tê, từ chối không hợp tác, có tình trạng
thiếu máu hay thiếu khối lượng tuần hoàn chưa
hồi phục, bệnh nhân dị ứng thuốc tê hay nhóm
thuốc á phiện, có bệnh lý nội khoa kèm theo
chưa được kiểm soát.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chứng.
Các chỉ số theo dõi và phương pháp đánh giá
Đánh giá tác dụng ức chế cảm giác (thời
gian xuất hiện mất cảm giác đau, thời gian tê,
chất lượng tê); đánh giá tác dụng ức chế vận
động (mức độ ức chế vận động, thời gian xuất
hiện mất vận động, thời gian phục hồi vận
động); đánh giá sự thay đổi tuần hoàn (mạch,
huyết áp qua các thời điểm, tụt huyết áp khi
HATT<90mmHg hoặc giảm 30% so với HATT
lúc trước gây tê, mạch chậm khi giảm dưới 60
lần/phút), thay đổi hô hấp (nhịp thở, SpO2), các
tác dụng không mong muốn trong (buồn nôn và
nôn, ngứa, lạnh run) và sau mổ (đau đầu, bí đái,
đau lưng).
Xử lý số liệu
Các số liệu được phân tích bằng phần
mềm thống kê SPSS 15.0, các biến định tính
được mô tả dưới dạng tỷ lệ phần trăm (%),
biến định lượng dưới dạng giá trị trung bình
(TB) và độ lệch chuẩn (ĐLC), dùng kiểm định
2 (chi-square test) với định tính giữa các
nhóm, dùng kiểm định T (T-test) để so sánh
các biến định lượng giữa các nhóm qua giá trị
trung bình và độ lệch chuẩn, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê khi p<0,05.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 142
Từ 06/2010 đến 03/2011 tại khoa GMHS Bệnh
viện 175 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
GTTS trên 82 bệnh nhân đã thu được một số kết
quả sau:
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Tuổi, chiều cao và cân nặng
Nhóm nghiên
cứu (nhóm 1)
(n = 41)
Nhóm chứng
(nhóm 2)
(n = 41)
Nhóm
Chỉ số Min -
Max
TB ± ĐLC Min -
Max
TB ± ĐLC
So
sánh
(p)
Tuổi (năm) 18 - 75 40,07
±16,31
19 - 81 40,76
±17,98
0,858
Chiều cao
(cm)
152 -
172
163,7
±5,15
150 -
171
163,1
±5,29
0,584
Cân nặng (kg) 48 -68 54,29
±5,36
46 - 69 58,36
±6,04
0,954
Bảng 2: Giới tính
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm chứng Nhóm
Giới tính n % n %
So sánh
Nam 31 75,6 27 65,9
Nữ 10 24,4 14 34,1
Tổng số 41 100 41 100
2 = 0,943
P = 0,332
Tuổi, chiều cao, cân nặng và giới tính ở hai
nhóm gần như nhau, cho thấy đồng nhất trong
nghiên cứu giữa hai nhóm.
Bảng 3: Phân bố theo phương pháp phẫu thuật
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm chứng Nhóm
Loại PT
n % n %
Thay khớp háng 1 2,439 2 4,88
Kết xương đùi 10 24,39 16 39,02
Thay khớp gối 0 0 1 2,439
Nội soi khớp gối 10 24,39 7 17,07
Kết xương bánh chè 1 2,439 0 0
Kết xương cẳng chân 14 34,15 11 26,83
Mổ cổ chân, bàn chân 5 12,19 4 9,75
Tổng số 41 100 41 100
Bảng 4: Phân loại theo ASA
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng Nhóm
ASA n % n %
So sánh
I 35 85,4 34 82,9
II 06 16,6 07 17,1
Tổng số 41 100 41 100
2 = 0,091
P = 0,762
Hai nhóm bệnh nhân phân bố theo loại phẫu
thuật và ASA gần tương đương nhau, không có
sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê.
Bảng 5: Thời gian phẫu thuật
Nhóm
Thời gian(phút)
Nhóm nghiên
cứu (n =41)
Nhóm chứng
(n = 41)
So sánh
(p)
Min 40 45
Max 90 90
TB ± ĐLC 60,98 ± 12,00 64,88 ± 9,39
0,105
Thời gian phẫu thuật trung bình giữa hai
nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả ức chế cảm giác đau
Bảng 6: Thời gian xuất hiện mất cảm giác đau
Nhóm
Thời gian(phút)
Nhóm nghiên
cứu (n =41)
Nhóm chứng
(n = 41)
So sánh
(p)
Min 2,3 2,4
Max 3,5 5,0
TB ± ĐLC 2,8 ± 0,31 3,7 ± 0,57
0,000
Bảng 7: Thời gian giảm đau (thời gian tê)
Nhóm
Thời gian(phút)
Nhóm nghiên
cứu (n =41)
Nhóm chứng
(n = 41)
So sánh
(p)
Min 120 106
Max 160 140
TB ± ĐLC 135,56 ± 7,84 124,20 ± 8,79
0,000
Thời gian xuất hiện mất cảm giác đau ở
nhóm nghiên cứu sớm hơn nhóm chứng, và tác
dụng giảm đau kéo dài hơn một cách có ý nghĩa
thống kê.
Bảng 8: Mức độ giảm đau
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm chứng Nhóm
Mức độ n % n %
So sánh
(p)
Tốt 40 97,6 34 82,9
Trung bình 01 2,4 07 17,1
Kém 0 0 0 0
Tổng số 41 100 41 100
0,026
Tất cả bệnh nhân ở hai nhóm đều đạt hiệu
quả vô cảm, nhóm nghiên cứu tỷ lệ đạt chất
lượng vô cảm tốt lớn hơn nhóm chứng một cách
có ý nghĩa thống kê.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 143
Kết quả ức chế vận động
Bảng 9: Thời gian xuất hiện mất vận động ở các mức
độ
Nhóm nghiên cứu
(n = 41)
Nhóm chứng
(n = 41)
Nhóm
Mức độ
Min -
Max
TB ± ĐLC Min -
Max
TB ± ĐLC
So
sánh
(p)
Độ 1 3,0 –
4,0
3,66 ± 0,29 3,0 – 5,0 4,04 ± 0,55 0,000
Độ 2 6,0 –
7,0
6,39 ± 0,29 5,9 – 8,1 7,14 ± 0,52 0,000
Độ 3 9,0 –
10,1
9,46 ± 0,32 9,0 –
11,0
10,30±0,52 0,000
Bảng 10: Thời gian ức chế vận động
Nhóm
Thời gian(phút)
Nhóm nghiên
cứu
(n =41)
Nhóm chứng
(n = 41)
So sánh
(p)
Min 102 106
Max 131 135
TB ± ĐLC 116,78 ± 6,34 124,20 ± 8,79
0,005
Thời gian xuất hiện mất vận động trung
bình ở nhóm nghiên cứu nhanh hơn nhóm
chứng, và sự phục hồi vận động cũng sớm hơn
một cách có ý nghĩa thống kê.
Kết quả ảnh hưởng trên tuần hoàn
Bảng 11: Thay đổi mạch trước và sau gây tê
Nhóm nghiên cứu
(n = 41)
Nhóm chứng
(n = 41)
Nhóm
Mạch
(Lần/phút)
Min -
Max
TB ± ĐLC Min -
Max
TB ± ĐLC
So
sánh
(p)
Trước gây
tê
70 -
90
79,61±5,69 70 -
90
78,05±5,90 0,226
Sau gây tê
30’
60 -
90
68,24±6,71 60 -
80
69,85±3,69 0,182
So sánh(p) 0,000 0,000
Tần số mạch trung bình trước và sau gây tê
của 2 nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống
kê, mạch sau gây tê cả 2 nhóm đều giảm một
cách có ý nghĩa thống kê, biểu đồ 1 cho thấy
mạch nhóm nghiên cứu có xu hướng giảm hơn
nhóm chứng.
75.27
72.7170.9569.8368.24
66.9867.4667.68
67.7669.2
69.9371.49
79.61
74.32
73.0272.2271.3769.8570.271.271.46
71.9372.7872.78
73.02
78.05
60
65
70
75
80
85
90
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 Te
thôøi gian
M
aïc
h(
la
àn/
ph
uùt
)
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng
Biểu đồ 1: So sánh sự thay đổi mạch của 2 nhóm
(T0: thời điểm nhận bệnh, T1: sau gây tê 3’, T2: sau gây tê 6’, T3: sau gây tê 9’, T4: sau gây tê 12’, T5: sau gây tê 15’, T6:
sau gây tê 20’, T7: sau gây tê 25’, T8: sau gây tê 30’, T9: sau gây tê 40’, T10: sau gây tê 50’, T11: sau gây tê 60’, Te: khâu da
kết thúc cuộc mổ)
Bảng 12: Số bệnh nhân có mạch chậm dưới 60
lần/phút
Nhóm nghiên
cứu Nhóm chứng Nhóm
Dấu hiệu n % n %
So sánh
(p)
Có mạch chậm 3 7,3 2 4,9
Không mạch chậm 38 92,7 39 95,1
Tổng số 41 100 41 100
0,649
Số bệnh nhân có mạch chậm ở nhóm nghiên cứu
nhiều hơn nhóm chứng, nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Bảng 13: Thay đổi HATT trước và sau gây tê
Nhóm nghiên cứu
(n = 41)
Nhóm chứng
(n = 41)
Nhóm
HATT
(mmHg)
Min -
Max
TB ± ĐLC Min -
Max
TB ± ĐLC
So
sánh
(p)
Trước gây
tê
100 -
150
120,85±10,11 110 -
150
123,17±10,65 0,316
Sau gây tê
30’
90 -
127
106,78±6,89 90 -
120
100,12±7,11 0,000
Mức giảm 14,07±5,29 23,05±8,91 0,000
So sánh(p) 0,000 0,000
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 144
Bảng 14: Thay đổi HATTr trước và sau gây tê
Nhóm nghiên cứu (n = 41) Nhóm chứng (n = 41) Nhóm
HATTr (mmHg) Min - Max TB ± ĐLC Min - Max TB ± ĐLC
So sánh
(p)
Trước gây tê 60 - 90 75,49±7,81 70 - 90 78,05±4,45 0,072
Sau gây tê 30’ 55 - 80 64,22±5,82 45 -69 57,93±5,06 0,000
Mức giảm 11,63±5,39 20,12±4,74 0,000
So sánh(p) 0,000 0,000
110.63109.56108.17107106.78107.46
109.78111.9
115.49115
120.24
117.07
120.85
108.51108.2
103.95102.8100.12
99.71
100.46100.71100.51
101.63102.83
110.34
123.17
80
85
90
95
100
105
110
115
120
125
130
135
140
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 Te
thôøi gian
H
A
(m
m
H
g)
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng
Biểu đồ 2: So sánh sự thay đổi HATT của 2 nhóm
66.6865.9865.5465.5164.2265.9
66.7868.59
70.2772.07
73.8375.24
75.46
63.8562.5661.5961.02
57.9359.56
61.7163.39
64.965.68
66.0568.37
78.05
40
45
50
55
60
65
70
75
80
85
90
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 Te
thôøi gian
H
A
(m
m
H
g)
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng
Biểu đồ 3: So sánh sự thay đổi HATTr của 2 nhóm HATT, HATTr trung bình trước gây tê của 2 nhóm khác nhau
không có ý nghĩa thống kê, sau gây tê nhóm nghiên cứu giảm ít hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa thống kê.
Bảng 15: Số bệnh nhân bị tụt HA trên 30% so với
HA trước gây tê
Nhóm nghiên
cứu
Nhóm chứng Nhóm
Dấu hiệu n % n %
So sánh
(p)
Có tụt HA 1 2,4 6 14,6
Không tụt HA 40 97,6 35 85,4
Tổng số 41 100 41 100
0,049
Số bệnh nhân tụt HA ở nhóm nghiên cứu ít
hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa thống kê.
Kết quả ảnh hưởng trên hô hấp
Bảng 16: Thay đổi nhịp thở trước và sau gây tê
Nhóm nghiên cứu
(n = 41)
Nhóm chứng
(n = 41)
Nhóm
Nhịp thở
(lần/phút)
Min -
Max
TB ± ĐLC Min -
Max
TB ± ĐLC
So
sánh
(p)
Trước gây tê 16 -
19
17,51±0,93 14 - 19 17,07±1,03 0,870
Sau gây tê
30’
16 -
20
17,24±1,89 15 -
19
17,24±0,77 0,636
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 145
So sánh(p) 0,374 0,377 Nhịp thở trung bình ở cả 2 nhóm trước
và sau gây tê không có sự khác biệt về mặt
thống kê.
Bảng 17: Thay đổi SpO2 trước và sau gây tê
Nhóm nghiên cứu (n = 41) Nhóm chứng (n = 41) Nhóm
SpO2 (%) Min - Max TB ± ĐLC Min - Max TB ± ĐLC
So sánh (p)
Trước gây tê 98 - 100 99,59±0,63 98 - 100 99,51±0,61 0,591
Sau gây tê 30’ 99 - 100 99,78±0,42 99 - 100 99,68±0,47 0,325
So sánh(p) 0,088 0,090
Độ bão hòa oxy máu trung bình trước và sau
gây tê ở cả 2 nhóm không có sự khác biệt về mặt
thống kê.
16.73
17
16.98
17.02
17.24
17.83
18.1718.27
17.9517.83
17.61
17.4417.51
16.76
16.9
17.05
16.83
17.24
17.6617.6117.6817.46
17.78
17.68
17.2917.07
15
16
17
18
19
20
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 Te
thôøi gian
nh
òp
th
ôû(
la
àn/
ph
uùt
)
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng
Biểu đồ 4: So sánh sự thay đổi nhịp thở của 2 nhóm
99.5699.63
99.7199.56
99.7899.76
99.5499.5699.46
99.4699.54
99.6199.59
99.5499.59
99.68
99.54
99.6899.6199.5499.4999.46
99.5499.61
99.6199.51
98
98.5
99
99.5
100
T0 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 Te
thôøi gian
Sp
O
2(
%
)
Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng
Biểu đồ 5: So sánh sự thay đổi SpO2 của hai nhóm
Hô hấp được duy trì ổn định ở cả 2 nhóm,
không có trường hợp nào suy hô hấp.
Tác dụng không mong muốn trong và sau
mổ
Bảng 18: Tác dụng không mong muốn trong và sau
mổ
Nhóm nghiên
cứu (n = 41)
Nhóm chứng
(n = 41)
Nhóm
Triệu chứng n % n %
So
sánh
(p)
Nhóm nghiên
cứu (n = 41)
Nhóm chứng
(n = 41)
Nhóm
Triệu chứng n % n %
So
sánh
(p)
Buồn nôn, nôn 1 2,4 6 14,6 0,049
Lạnh run 1 2,4 5 12,2 0,098
Ngứa 3 7,3 2 4,9 0,649
Đau đầu 2 4,9 2 4,9 1,000
Bí tiểu 1 2,4 2 4,9 0,562
Đau lưng 0 0 0 0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 146
Tỷ lệ bệnh nhân buồn nôn, nôn ở nhóm
nghiên cứu ít hơn nhóm chứng một cách có
ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tác dụng không mong
muốn: rét run, ngứa, đau đầu, bí tiểu, đau
lưng giữa 2 nhóm.
BÀN LUẬN
- Tuổi, chiều cao, cân nặng và giới tính của
2 nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05), đặc điểm chung giữa 2 nhóm nghiên
cứu là hoàn toàn ngẫu nhiên, khách quan, có
sự đồng nhất về tuổi, chiều cao, cân nặng và
giới tính. Tương đương với kết quả nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước.
- Phân bố theo phẫu thuật, đánh giá theo
ASA, và thời gian phẫu thuật giữa 2 nhóm
không có khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p>0,05).
- Tác dụng ức chế cảm giác đau: Thời gian
xuất hiện mất cảm giác đau ở nhóm nghiên
cứu là 2,8 ± 0,31 phút và nhóm chứng là 3,7 ±
0,57 phút. So sánh kết quả kết quả ở nhóm
nghiên cứu với Hoàng Văn Đại(2) là 3,5 ± 0,65
phút và nhóm chứng với Tạ Đức Luận(5) là 4,28
± 1,37 phút; Cao Thị Bích Hạnh(1) là 3,78 ± 0,62
phút. Thời gian giảm đau (thời gian tê) nhóm
nghiên cứu là 135,56 ± 7,84 phút; nhóm chứng
là 124,20 ± 8,79 phút. Kết quả nhóm nghiên cứu
cũng gần với kết quả của Lê Văn Chung(4),
Hoàng Văn Đại(2) và nhóm chứng tương đương
với kết quả của Cao Thị Bích Hạnh(1). Mức độ
giảm đau tốt ở nhóm nghiên cứu đạt 97,6% so
với Hoàng Văn Đại(2) 92,5%, Lê Văn Chung(4)
99,43%; ở nhóm chứng 82,9% so với Tạ Đức
Luận(5) 88,7%. Như vậy thời gian xuất hiện mất
cảm giác đau ở nhóm nghiên cứu sớm hơn so
với nhóm chứng, và tác dụng giảm đau kéo
dài hơn, mức độ giảm đau tốt hơn.
- Tác dụng ức chế vận động: Thời gian xuất
hiện liệt vận động ở nhóm nghiên cứu sớm
hơn so với nhóm chứng và thời gian phục hồi
vận động ở nhóm nghiên cứu cũng sớm hơn,
kết quả này phù hợp với các tác giả Cao Thị
Bích Hạnh(1), Lê Văn Chung(4), Hoàng Văn
Đại(2), Tạ Đức Luận(5), Kuusniemi(3).
- Ảnh hưởng trên tuần hoàn: Thay đổi
mạch giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05), sau gây tê HA nhóm nghiên cứu giảm
ít hơn so với nhóm chứng một cách có ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, trước khi gây tê đã truyền dịch tinh thể
10ml/kg và theo dõi sát trong mổ chủ động bù
dịch, truyền dịch keo, máu cho những trường
hợp cần thiết ngay cả khi chưa có biểu hiện tụt
HA. Chúng tôi dùng liều bupivacaine thấp
(nhóm nghiên cứu: 0,15mg/kg và nhóm chứng:
0,18mg/kg), ở nhóm nghiên cứu có 1 bệnh
nhân tụt HA (2,4%) và nhóm chứng có 6 bệnh
nhân tụt HA (14,6%). Kết quả trên cũng phù
hợp với Hoàng Văn Đại(2), Kuusniemi(3).
- Ảnh hưởng trên hô hấp: Trong suốt quá
trình phẫu thuật, SpO2 của bệnh nhân cả 2
nhóm luôn đạt 99% - 100%, với oxy thở qua
sonde mũi 3lít/phút, không có trường hợp nào
rối loạn nhịp thở cũng như tăng tiết đờm nhớt,
hay suy hô hấp phải hỗ trợ, phù hợp với
Hoàng Văn Đại(2), Lê Văn Chung(4) không ghi
nhận trường hợp nào suy hô hấp.
- Các tác dụng không mong muốn trong và
sau mổ: Buồn nôn, nôn ở nhóm nghiên cứu có
1 bệnh nhân (2,4%), nhóm chứng có 6 bệnh
nhân (14,6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Nhóm nghiên cứu: lạnh run có 1 bệnh
nhân (2,4%), ngứa có 3 bệnh nhân (7,3%),
không khác biệt so với nhóm chứng (p>0,05).
Đau đầu sau gây tê có 4 bệnh nhân, mỗi nhóm
2 bệnh nhân (4,9%) chỉ nằm nghỉ và uống
Paracetamol cho kết quả tốt. Bí tiểu nhóm
nghiên cứu có 1 bệnh nhân (2,4%), nhóm
chứng có 2 bệnh nhân (4,9%). Trong nghiên
cứu của chúng tôi không có trường hợp nào
đau lưng được ghi nhận, phù hợp với kết quả
của Hoàng Văn Đại(2).
KẾT LUẬN
Phương pháp gây tê tủy sống bằng
Bupivacaine phối hợp Sufentanil là phương
pháp vô cảm có hiệu quả tốt cho phẫu thuật
chi dưới: thời gian xuất hiện mất cảm giác đau
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 147
sớm, tác dụng giảm đau kéo dài, mức độ giảm
đau tốt, đủ độ giãn cơ bảo đảm cho phẫu
thuật, và phục hồi vận động sớm sau gây tê.
Phối hợp Sufentanil với Bupivacaine trong
gây tê tủy sống đã giảm được liều lượng
Bupivacaine, đồng thời làm tăng cường tác
dụng giảm đau, duy trì hô hấp và huyết động
ổn định, hạn chế các tai biến, biến chứng trong
và sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Thị Bích Hạnh (2001), So sánh tác dụng gây tê tủy sống
bằng Marcaine 0,5% đồng tỷ trọng và tăng tỷ trọng trong phẫu
thuật chi dưới, Luận văn Thạc sỹ Y khoa, Học viện Quân Y.
2. Hoàng Văn Đại (2006), Đánh giá tác dụng phương pháp gây tê
dưới màng cứng bằng hỗn hợp Bupivacaine tăng trọng với
Sufentanil trong phẫu thuật lấy sỏi thận, Luận văn chuyên khoa
cấp II, Học viện Quân Y.
3. Kuusniemi KS (2000), “The use of bupivacaine and fentanyl
for spinal anesthesia for urosurgery”, Anesth Analg, 91,
pp1452-6.
4. Lê Văn Chung (2009), Hiệu quả của phương pháp kết hợp gây tê
tủy sống-ngoài màng cứng với Bupivacaine và Sufentanil để mổ
khớp háng người cao tuổi, Luận án Tiến sỹ y khoa, Đại học Y
Dược TP. HCM.
5. Tạ Đức Luận (2007), Đánh giá hiệu quả của gây tê tủy sống bằng
Bupivacain đẳng trọng và Fentanyl trong phẫu thuật thay chỏm
xương đùi, Luận án Chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược TP.
HCM.
6. Trương Quốc Việt, Nguyễn Văn Chừng (2010), “Đánh giá
hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn
hợp Lidocaine và Sufentanil trong phẫu thuật cắt tử cung qua
đường bụng”, Y học TP. HCM, 14(1), tr 249-254.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_gay_te_tuy_song_bang_bupivacain_phoi_hop_s.pdf