Tác dụng phụ
Không thấy tác dụng phụ gây phản ứng dị
ứng toàn thân như nổi mẫn da, ban đỏ, ngứa.
Có một BN có cảm giác đau tê tại vùng tiêm
thuốc, đây không phải là tác dụng phụ liên
quan đến tác dụng dược lý của thuốc.
Có 12 BN không có tác dụng phụ: Các BN
này có thể được tiêm đúng vào vị trí, thuốc
không lan xa khỏi vùng tiêm nên hạn chế được
tác dụng phụ. Mặc dù tác dụng phụ phản ảnh
được hiệu quả về tính chất làm liệt cơ, nhưng
nếu tiêm đúng trên cơ sở hiểu biết về giải phẫu
học thì hạn chế được tác dụng xảy ra.
Tác dụng phụ xảy ra chủ yếu tại chổ tiêm
hay liên quan đến đặc tính dược lý học của
toxin lên cơ nằm bên dưới hoặc xa hơn, có thể
tiêm quá sâu hay tiêm sai vị trí, ngoài ra còn
có thể do động tác mở mắt bất thường của BN
khi đang tiêm thuốc bởi vì BN phải nhắm mắt
để định vị chổ tiêm được chính xác, động tác
mở mắt bất thường có thể làm sai lệch mũi
kim. Nhưng thuốc chỉ làm liệt tạm thời nhóm
cơ gần chỗ tiêm.
Theo Jankovic về các quan điểm hạn chế
phát tán thuốc(3).
Tăng nồng độ bằng cách hạn chế dung dịch
pha: thay vì pha vào chai Dysport 2,5 ml dung
dịch muối sinh lý, chỉ pha 0,7 ml.
Pha thêm adrenaline.
Đầu vát và hướng mũi kim về phía cơ đích,
lực tiêm chậm đều.
Giải thích các tác dụng phụ
Hở mí: do thuốc tác dụng làm liệt cơ vòng
mí, nên khi nhắm mắt cơ vòng mí không đủ
mạnh để nhắm kín mắt, có 16 BN hở mí nhưng
với mức độ nhẹ (hở mí từ 2-3 mm) không gây
khó chịu gì cho BN, dấu hiệu này chứng tỏ có
tình trạng liệt cơ, thuốc có tác dụng.
Khô mắt: có 4 BN khô mắt gây khó chịu tạm
thời, được dùng nước mắt nhân tạo để điều trị
hỗ trợ, tình trạng khô mắt xảy ra do giảm tần số
chớp mắt vì cơ bị liệt tạm thời, cũng có thể do
mũi tiêm phía trên ngoài ảnh hưởng đến tuyến
lệ (nằm ở góc trên ngoài của bờ trên hốc mắt)
gây giảm sản xuất nước mắt.
Song thị: có 2 BN bị tác dụng này, xảy ra do
thuốc lan vào cơ trực ngoài làm liệt tạm thời cơ
trực ngoài và biến mất sau 3 tháng. Bởi vì thuốc
có thể lan ra xa chổ tiêm 2 cm nên các cơ lân cận
dễ bị ảnh hưởng.
Chảy nước mắt: có 2 BN bị chảy nước mắt,
tình trạng này do thuốc làm liệt cơ Horner ở cổ
túi lệ nên mất tác dụng hút nước mắt gây chảy
nước mắt.
Sụp mí: có 12 BN bị sụp mí (25%) bị ảnh
hưởng do thuốc lan vào cơ nâng mí. Trong một
nghiên cứu của P. Calace, G. Cortese, R.
Piscopo, G. Dellavolpe, V. Gagliardi, A. Magli,
T. De berardinis. Trường Đại học “ Federico II”,
Napoli-Ý : tỉ lệ về sụp mí nhỏ hơn 15%. Tỉ lệ sụp
mí trong nghiên cứu của chúng tôi nhiều hơn
của tác giả ngoài nước có thể do lúc đầu chưa có
kinh nghiệm tiêm.
Trong tuần đầu 36 BN có tác dụng phụ, sau
1 tháng chỉ còn 16 BN, sau 3 tháng không có BN
nào còn tác dụng phụ. Chứng tỏ thời gian thuốc
đạt tác dụng tối đa thì tác dụng phụ cũng dần
dần biến mất
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng Dysport trong điều trị co quắp mí mắt vô căn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 210
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DYSPORT
TRONG ĐIỀU TRỊ CO QUẮP MÍ MẮT VÔ CĂN
Đặng Trung Hiếu*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả sử dụng Dysport trong điều trị co quắp mí mắt vô căn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 48 bệnh nhân bị chứng co quắp mí mắt vô căn được tiêm thuốc
Dysport trong thời gian từ 2003 đến 2004 tại Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh viện Thống Nhất.
Phương pháp: Mô tả - Tiến cứu - Cắt dọc.
Kết quả: 48 bệnh nhân gồm 17 nam (35,42%), 31 nữ (64,58%), tuổi mắc bệnh trung bình 607; 38 bệnh
nhân bị co quắp mí mắt, 10 bệnh nhân bị hội chứng Meige; thời gian thuốc Dysport bắt đầu có tác dụng liệt cơ
sau 1 tuần; 95,83% bệnh nhân cải thiện sau 1 tháng; thuốc chỉ tác dụng trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 tháng.
Tác dụng phụ chỉ là tại chỗ, nhẹ và tạm thời, không có tác dụng phụ toàn thân.
Kết luận: Dysport có hiệu quả trong điều trị co quắp mí mắt vô căn. Đây là phương pháp đơn giản, an toàn,
có thể tiêm nhắc lại.
Từ khóa: Dysport, Co quắp mí mắt vô căn.
ABSTRACT
EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF TREATMENT OF BLEPHAROSPASM WITH DYSPORT
Dang Trung Hieu* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 210 - 217
Objective: To describe the long-term efficacy of treatment of blepharospasm with botulinum neurotoxin type
A (Dysport).
Materials and methods: A total of 48 patients with blepharospasm were treated by injections of botulinum
toxin in the Ho Chi Minh city Eye Hospital and Thong Nhat Hospital from 2003 to 2004. Methods: Prospective,
descriptive, longitudinal sectional study.
Results: Fourty-eight patients (17 male, 31 female) with blepharospasm were included in the study,
the ages were from 44 to 78 years with an average age of 60 years. Thirty-eight had essential blepharospasm,
ten had Meige syndrome. All of the patients had an effect of toxin within the first 7 days. 95.83% reported
improvement after 1 months from the injected. Benefits begin in 1-7 days after the treatment and last for an
average of three to five months. Side-effects were local, mild, temporary; none of the 48 patients experienced
any systemic or toxic reaction.
Conclusions: Botulinum toxin therapy for blepharospasm can provide long-lasting relief and reduction of
spasms in the majority of patients. This therapy has the advantages of being safe, simple, and repeatable.
Keys word: Dysport, Essential blepharospasm.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Co quắp mí mắt, một vấn đề thuộc lĩnh vực
thần kinh nhãn khoa, là tình trạng loạn trương
lực cơ khu trú ảnh hưởng đến cơ vòng xung
quanh ổ mắt, gây nhắm mắt không chủ ý, kèm
theo khó mở mắt.
Về lâm sàng, chứng co quắp mí mắt có thể
xuất hiện thành dạng nhắm mắt quá mức, hay
thành dạng nhắm mắt bắt buộc bất chấp hoàn
cảnh. Ở những trường hợp nặng, người bệnh
* Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS.CKII. Đặng Trung Hiếu ĐT: 0913716203 Email:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 211
gần như bị mù chức năng do mí bị co quắp lại.
Do vậy, tình trạng co quắp mí mắt gây rất nhiều
phiền toái cho người bệnh vì ảnh hưởng đến
sinh hoạt, công việc, yếu tố thẩm mỹ, và người
bệnh bị mặc cảm vì người khác nghĩ họ bị tật.
Theo kinh điển co quắp mí mắt vô căn được
điều trị bằng các thuốc kháng cholinergic như
benztropine hoặc trihexiphenidyl gây nhiều tác
dụng phụ làm hạn chế sử dụng thuốc. Các
benzodiazepin gây giảm co thắt cơ, chúng có xu
hướng an thần nên cũng gây hạn chế sử dụng.
Các nghiên cứu ngoài nước cho thấy điều
trị nội khoa thông thường chỉ cải thiện vừa
phải khoảng 30% BN và thường có những tác
dụng phụ nêu trên. Phẫu thuật bao gồm cắt
cơ vòng mí mắt hay cắt chọn lọc một số
nhánh của thần kinh mặt, các điều trị này
cũng thường bị tái phát(5).
Trên thế giới, toxin botulinum type A
(Dysport) đã được các bác sỹ thần kinh và mắt
sử dụng trong nhiều năm nay để điều trị chứng
bệnh này chỉ ra một hướng điều trị mới. Các thử
nghiệm khởi đầu với toxin botulinum type A cải
thiện về chức năng 70% các trường hợp trong
khoảng trung bình 2,5 tháng(11).
Tại Việt nam việc tiêm Dysport bắt đầu được
áp dụng nhưng chưa có công trình nào được
báo cáo, nên tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng
Dysport trong điều trị co quắp mí mắt vô căn để
đánh gía hiệu quả của chúng. Qua đó để góp
phần vào công tác chẩn đoán và điều trị chứng
co quắp mí mắt vô căn.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả sử dụng Dysport để điều
trị co quắp mí mắt vô căn. Mục tiêu chuyên biệt:
Mô tả đặc điểm lâm sàng của co quắp mí vô căn,
đánh giá thời gian tác dụng của thuốc, đánh giá
mức độ cải thiện co quắp mí mắt sau tiêm
Dysport, khảo sát các tác dụng phụ của thuốc
trong quá trình điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
48 bệnh nhân (BN) bị chứng co quắp mí mắt
vô căn biểu hiện dưới các thể lâm sàng: Co quắp
mí mắt riêng lẻ, hội chứng Meige. Tuổi > 18.
Đồng ý với trị liệu tiêm thuốc Dysport.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN không đồng ý tiêm thuốc, đang mắc các
bệnh nhiểm trùng, nhược cơ hay nghi ngờ
nhược cơ, đã điều trị Dysport trước đó, đang
dùng kháng sinh aminoglycosid hay curarine,
có thai hoặc cho con bú.
Phương pháp nghiên cứu
Quan sát - Mô tả - Tiền cứu - Cắt dọc.
Phương tiện nghiên cứu
DYSPORT 500 ĐƠN VỊ SPEYWOOD của
hảng Befour Ipsen, Ống tiêm 1ml, kim số 25, đèn
pin, đèn soi đáy mắt, bảng thị lực Snellen, dung
dịch sodium chloride 0,9%, bàn BN nằm, máy
chụp hình kỹ thuật số, hồ sơ bệnh án BN ngoại
trú, phiếu khám và theo dõi bệnh nhân.
Các bước thực hiện
Các BN bị co quắp mí mắt vô căn phù hợp
với tiêu chuẩn lựa chọn tiến hành
Khai thác bệnh sử, tiền căn
Khám toàn thân, ghi dấu hiệu sinh tồn
Khám chuyên khoa mắt, xác định các thể
lâm sàng: Co quắp mí mắt riêng lẻ và hội
chứng Meige.
Tiêm thuốc: liều thuốc sử dụng cho co quắp
mí riêng lẻ từ 60-80 đơn vị, liều thuốc sử dụng
cho BN bị H/C Meige từ 80-100 đơn vị (chúng
tôi chọn liều thuốc theo tác giả Pougnvarin).
Theo dõi kết quả điều trị sau tiêm thuốc 1
tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 5 tháng.
Đánh giá kết quả dựa theo cách đánh giá của
3 tác giả dưới đây:
Đánh giá theo S. Soulayrol(14)
Bảng 1: Điểm số hiệu quả như sau
Điểm
Hiệu quả trên co thắt Tốt 2
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 212
Trung bình 1
Không 0
Ít nhất 3 tháng 2
Giữa 1 và 3 tháng 1
Thời gian hiệu quả
Tối đa 1 tháng 0
Không 1 Tác dụng phụ
Có 0
Cải thiện 2
Cải thiện thất thường 1
Kết quả
Không cải thiện 0
Đánh giá theo J.S. Elston(11,8)
Bảng 2: Điểm số đánh giá mức độ rối loạn thị giác
như sau:
Điểm số Chức năng thị giác
1 Mù
2 Lệ thuộc khi ra khỏi nhà
3 Tự quản được nhưng chức năng yếu
4 Tự quản được nhưng chức năng vừa phải
5 Tổn thương nhẹ
6 Bình thường
Đánh giá theo Poungvarin N(14)
Cải thiện tốt: mở mắt tự nhiên, hết co
quắp mí.
Cải thiện khá: mở mắt được nhưng còn cố
gắng, thỉnh thỏang còn co quắp mí, không ảnh
hưởng đến chức năng thị giác.
Cải thiện trung bình: mở mắt còn khó khăn,
còn co quắp mí, có ảnh hưởng ít đến chức năng
thị giác.
Không cải thiện: Không đáp ứng với thuốc,
tình trạng co quắp mí không giảm.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu
Giới
Nam 17 ca (35,42%) ; nữ 31 ca (64,58%).
Tuổi đời của mẫu nghiên cứu
60 ± 7 tuổi (nhỏ nhất: 44 tuổi, lớn nhất:
78 tuổi).
Tuổi bệnh
1,8 ± 1,4 năm (thấp nhất 3 tháng, cao
nhất 7 năm).
Các thể lâm sàng
Co quắp mí mắt riêng lẻ có 38/48 BN
(79,16%), H/C Meige có 10/48 BN (20,84%).
Các yếu tố thúc đẩy khởi phát cơn co giật
Bảng 3: Phân bố tần số yếu tố thúc đẩy khởi phát cơn
co giật
Yếu tố thúc đẩy Tần số Tỉ lệ
Tập trung làm việc 5 10,41%
Ngẫu nhiên 5 10,41%
Đọc sách, báo, xem tivi 14 29,18%
Khi ra ngoài trời 24 50%
Điều trị trước đó
Bảng 4: Phân bố tần số điều trị trước tiêm thuốc
Điều trị trước đó Tần số Tỉ lệ
Không điều trị gì trước 2 4,17%
Châm cứu 14 29,16%
Dùng thuốc không rõ loại 10 20,84%
Dùng thuốc kết hợp châm cứu 20 41,66%
Tiền căn di truyền 2 4,17%
Liều thuốc tiêm trung bình của các thể lâm
sàng: Co quắp mí riêng lẻ 70 đơn vị, H/C Meige
88 đơn vị. Liều thuốc tiêm trung bình cho
những BN bị H/C Meige (88 đơn vị) cao hơn liều
thuốc tiêm trung bình cho những BN bị co quắp
mí riêng lẻ (70 đơn vị). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê p = 0,005.
Điểm số RLTG trước tiêm thuốc (theo tác
giả J.S. Elston).
Bảng 5: Phân bố tần số điều trị trước tiêm thuốc
Điểm số RLTG Tần số Tỉ lệ%
1 10 20,83%
2 24 50,00%
3 9 18,75%
4 5 10,42%
Nhận xét: trước tiêm thuốc đa số BN có
tình trạng chức năng thị giác rất thấp, bị mù
chức năng và có tình trạng lệ thuộc khi ra
khỏi nhà (70,83%).
Một số kết quả điều trị sau tiêm thuốc
Theo tiêu chuẩn đánh giá của tác giả J.S.
Elston
Tiến triển của điểm số rối loạn thị giác
(RLTG) sau tiêm thuốc 1 tuần: không còn BN
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 213
nào bị mù chức năng so với trước tiêm, chỉ có 1
BN bị lệ thuộc khi ra khỏi nhà (2,08%) so với
trước tiêm 24 BN (50%). Tiến triển của điểm số
RLTG sau tiêm thuốc 3 tháng: toàn bộ BN có
tình trạng chức năng thị giác gần như bình
thường với điểm 5 và điểm 6 (100%) so với sau
tiêm thuốc 1 tháng (95,83%). Tiến triển của điểm
số RLTG sau tiêm thuốc 5 tháng: 11 BN tái phát
với điểm số RLTG thấp (22,92%), số BN có tình
trạng chức năng thị giác bình thường giảm còn
77,08% so với sau tiêm thuốc 3 tháng (95,83%).
Theo tiêu chuẩn đánh giá của S. Soulayrol
Hiệu quả trên co thắt sau 3 tháng: cải thiện
tốt có 48 BN (100%).
Thời gian hiệu quả: trước 3 tháng không có
BN nào tái phát trở lại, đến tháng thứ 5 có 11 BN
tái phát. Vậy toàn bộ BN có thời gian kéo dài tác
dụng của thuốc trên 3 tháng.
Kết quả sau mũi tiêm: trong mẫu nghiên cứu
có 40 BN cải thiện sau mũi tiêm đầu tiên, có 8
BN sau tiêm 1 tuần điểm số RLTG vẫn như cũ.
Theo tác giả S. Soulayrol những BN này coi như
có kết quả sau tiêm không thay đổi (tác giả cho 1
điểm đối với những BN có kết quả sau tiêm
không thay đổi, cho 2 điểm đối với những BN
có cải thiện sau nhiều mũi tiêm).
Tác dụng phụ: 36 BN có tác dụng phụ, 12
BN không có tác dụng phụ.
Đánh giá kết quả điều trị
Đánh giá kết quả điều trị theo tác giả S.
Soulayrol
Sau 2 tuần cải thiện được ghi nhận 79,17%
BN, điểm 5-7 (8,33%). Sau 3 tháng cải thiện được
ghi nhận 87,50% điểm 5-7 là 12,5%.
Đánh giá kết quả điều trị theo tác giả J.S.
Elston
Điểm số RLTG trước và sau điều trị của mẫu
nghiên cứu.
Bảng 6: Phân bố tần số của điểm số RLTG trước và
sau điều trị của mẫu nghiên cứu
Sau tiêm Điểm
số
Trước
tiêm 1 tuần 2 tuần 1 tháng 3 tháng 5 tháng
1 10 0 0 0 0 0
2 24 1 0 0 0 7
3 9 36 0 0 0 4
4 5 10 24 2 0 0
5 0 0 20 13 2 0
6 0 1 4 33 46 37
Đánh giá kết quả điều trị theo tác giả
Poungvarin
Bảng 7. Phân bố tần số kết quả cải thiện của mẫu
nghiên cứu
1 tuần 2 tuần 1 tháng 3 tháng 5 tháng Cải
thiện TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ
Tốt 1 2,08% 24 50% 46 95,83
%
48 100% 37 77,08
%
Khá 10 20,83
%
24 50% 2 4,17% 0 0% 0 0%
TB 37 77,09
%
0 0% 0 0% 0 0% 11 22,92
%
Tác dụng phụ
Trong tuần đầu có 36/48 BN (75%) có tác
dụng phụ; tác dụng phụ chiếm nhiều nhất là hở
mí 33,33%, sụp mí 25%; chảy nước mắt, khô mắt,
song thị chiếm tỉ lệ thấp 4-8%. Tác dụng phụ của
mẫu nghiên cứu sau 1 tháng có 16/48 BN; tác
dụng phụ chiếm nhiều nhất là hở mí 9 ca (25,00
%) và sụp mí 6 ca (16,66%). Tác dụng phụ xuất
hiện sớm sau tiêm 1 tuần có 36/48 BN (75%). Sau
1 tháng tác dụng phụ biến mất dần chỉ còn 16/36
BN (44,45%). Sau 3 tháng tất cả BN không còn
tác dụng phụ.
Tái phát sau 5 tháng
11 BN ( 22,91%), trong đó có 7 BN bị co quắp
mí riêng lẻ, 4 BN bị H/C Meige tái phát.
BÀN LUẬN
Một số bàn luận về đặc điểm dịch tễ học
Giới
Trong 48 BN của mẫu nghiên cứu: Nữ có 31
BN (64,58%), Nam 17 BN (35,42%). Vậy tỉ lệ mắc
bệnh của nữ cao hơn nam, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Tỉ lệ nữ/nam = 1,82:1 phù hợp
với y văn tức giới nữ bị chứng co quắp mí mắt
nhiều hơn nam.
Nghiên cứu của Poungvarin N, Devahastin
V, Chaisevikul R, Prayoonwiwat N,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 214
Viriyavejakul A: Khoa Y, Trường Đại học
Mahidol, Bangkok, Thái lan(14).
Các tác giả đã nghiên cứu 100 BN gồm thể
lâm sàng co quắp mí mắt và hội chứng Meige
được tiêm botulinum toxin type A từ năm 1989
đến 1996. Kết quả về giới: nữ: 65/100 BN chiếm tỉ
lệ 65%, cao hơn nam 35/100 BN với tỉ lệ 35%. Tỉ
lệ nữ/nam = 1,86:1.
Vậy nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp
với các nghiên cứu của các tác giả ngoài nước: tỉ
lệ nữ mắc bệnh cao hơn nam.
Tuổi đời
Tuổi đời trung bình của mẫu nghiên cứu là
60 ± 7,12 tuổi, tuổi đời nhỏ nhất là 44 tuổi và lớn
nhất là 78 tuổi.
Theo Thussa A, Barman nghiên cứu 43 BN bị
chứng co quắp mí mắt vô căn: tuổi trung bình là
51,06 ± 10,48 tuổi.
Theo Poungvarin N, Devahastin V,
Chaisevikul R, Prayoonwiwat N, Viriyavejakul
A: Khoa Y, Trường Đại học Mahidol, Bangkok,
Thái lan(14).
Các tác giả đã nghiên cứu 100 BN gồm thể
lâm sàng co quắp mí mắt và hội chứng Meige
được tiêm BTX-A từ năm 1989 đến 1996. Kết quả
về tuổi trung bình: 53,3 tuổi.
Vậy tuổi đời trong nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với các nghiên cứu của tác giả ngoài
nước. Tuổi đời của BN bị co quắp mí mắt đa số
từ 50 tuổi trở lên.
Tuổi bệnh
Tuổi bệnh trung bình của mẫu nghiên cứu là
1,8 năm, tuổi bệnh thấp nhất là 3 tháng và cao
nhất là 7 năm.
Theo công trình nghiên cứu của các tác giả
Thussu A, Barman CR, Prabhakar S(6) 43 BN bị
co quắp mí mắt được tiêm Dysport có tuổi bệnh
trung bình là 4,67 năm (độ lệch chuẩn là 3,7),
tuổi bệnh nhỏ nhất là 3 tháng, tuổi bệnh lớn
nhất là 17 năm.
Tuổi bệnh trung bình trong mẫu nghiên cứu
của chúng tôi nhỏ hơn tuổi bệnh trung bình
trong mẫu nghiên cứu của các tác giả ngoài
nước. Điều này có thể nói người dân chúng ta
quan tâm đến bệnh của mình, tích cực tìm đến
phương pháp điều trị mới để giải quyết tình
trạng co quắp mí mắt có ảnh hưởng đến sinh
hoạt và chức năng thị giác, cũng như để giải
quyết yếu tố thẩm mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến
công việc giao tiếp hằng ngày.
Thể lâm sàng
48 BN trong mẫu nghiên cứu: gồm 38 BN bị
co quắp mí mắt riêng lẻ (79,16%) chiếm tỉ lệ cao
hơn BN bị H/C Meige 10 BN (20,84%) cũng phù
hợp với nghiên cứu của các tác giả ngoài nước.
Các yếu tố thuận lợi
Các yếu tố thuận lợi làm BN dễ khởi phát
cơn co quắp hay làm bệnh nặng hơn đó là tập
trung làm việc, nói chuyện, hay bị kích thích bởi
ánh sáng mạnh. Trong nghiên cứu số BN bị kích
thích bởi ánh sáng chiếm đa số (50%), tỉ lệ này
phù hợp với số BN có chức năng thị giác lệ
thuộc khi ra khỏi nhà 24/48 BN (50%) có điểm 2.
Các yếu tố vừa ghi nhận được lên cũng được các
tác giả K.P.Frei và D.D. Trương MD mô tả(12).
Điều trị trước đó
Đa số BN bị bệnh nhiều lần và đều có điều
trị trước như: dùng thuốc không rõ loại có 10
BN, châm cứu có 14 BN, vừa uống thuốc và
châm cứu là 20 BN, chỉ có 2 BN không điều trị
gì, 2 BN có tiền căn di truyền. Điều này nói lên
chứng co quắp mí xảy ra nhiều đợt, BN tích cực
điều trị và quan tâm đến bệnh của mình, đã có
điều trị trước nhưng bệnh không giảm nên vào
viện để tiêm thuốc.
Liều thuốc tiêm
Liều thuốc tiêm trung bình của BN bị H/C
Meige là 88 đơn vị cao hơn liều thuốc tiêm trung
bình của BN bị co quắp mí mắt riêng lẻ 70 đơn
vị.
Khảo sát liều thuốc tiêm của 2 nhóm, dùng
phép kiểm chi bình phương cho giá trị p = 0,005
(< 0,05) do đó sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
BN bị H/C Meige sử dụng lượng thuốc nhiều
hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 215
Trong các tài liệu nước ngoài liều khởi đầu
cho điều trị co quắp mí mắt hai bên là 120 đơn
vị cho mỗi mắt (nghĩa là 0,6 ml dung dịch chứa
500 đơn vị pha loãng trong 2,5 ml)(13). Trong
nghiên cứu chúng tôi sử dụng liều thấp hơn, bởi
vì lượng thuốc tiêm tỉ lệ với khối lượng cơ.
Người Châu Âu có khối lượng cơ lớn hơn nên
được tiêm liều cao hơn.
Nghiên cứu của tác giả S. Soulayrol thực
hiện trên 48 BN bị co quắp mí mắt liều trung
bình cho mỗi mắt là 112 đơn vị.
Điểm số RLTG trước tiêm
Trước tiêm có 34/48 BN (70,83%) có điểm số
RLTG rất thấp (điểm 1 và 2) ảnh hưởng đến
chức năng thị giác. BN có chỉ định tiêm thuốc
Dysport phù hợp với đối tượng được chọn
nghiên cứu. 14/48 BN (29,17%) tự quản được
nhưng chức năng thị giác đã bị ảnh hưởng. Đối
chiếu với tác giả J.S. Elston BN có điểm số RLTG
thấp (điểm 1 và 2) là 68%, BN tự quản được
nhưng chức năng thị giác đã bị ảnh hưởng
(điểm 3 và 4) là 30,92%. Tình trạng điểm số
RLTG trước điều trị của BN chúng tôi cũng như
tác giả báo cáo trong nghiên cứu.
Về kết quả điều trị
Điểm số RLTG sau tiêm
Sau tiêm 1 tuần không còn BN nào bị mù
chức năng, BN tự quản được nhưng chức năng
bị ảnh hưởng (điểm 3 và 4) cũng tăng rõ rệt
46/48 BN (95,83%), số BN có chức năng thị giác
gần như bình thường có 1/48 BN (2.08%) cũng
tăng so với trước tiêm. Sau tiêm 1 tháng có 46/48
BN (95,83%). Sau tiêm 3 tháng toàn bộ BN có
chức năng thị giác như bình thường (100%). Sau
tiêm 5 tháng có 11 BN tái phát với điểm số
RLTG thấp điểm 2 và 3 (22,92%).
Vậy từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 3 điểm số
RLTG tăng nhanh, chức năng thị giác càng ngày
được cải thiện.
Đánh giá kết quả cải thiện
Đánh giá kết quả cải thiện theo S. Soulayrol
Sau 2 tuần cải thiện được ghi nhận 79,17%
đa số BN có điểm 5 và 6 và điểm 7 (8,33%). Sau 1
tháng cải thiện được ghi nhận 87,50% đa số BN
có điểm 5 và 6 (87,50%) và điểm 7 (12,50%). Sau
3 tháng cải thiện được ghi nhận 87,50% đa số
BN có điểm 5 và 6 (87,50%) và điểm 7 (12,50%).
So sánh kết quả cải thiện sau 1 tháng và 3
tháng. Phép kiểm chi bình phương với p = 0,199
(> 0,05). Vậy sự khác biệt về kết quả cải thiện sau
1 tháng và 3 tháng không có ý nghĩa thống kê,
kết quả về điểm số ở hai thời điểm này giống
nhau.
Đánh giá kết quả cải thiện theo J. S. Elston (Bảng 4)
Sau 1 tuần BN có cải thiện rõ, tình trạng
chức năng thị giác cải thiện dần 22,91% BN có
chức năng thị giác bình thường hoặc bị ảnh
hưởng nhẹ, không còn BN nào bị mù chức năng.
Sau điều trị 2 tuần có 24/48 BN (50%) có tình
trạng chức năng thị giác bình thường và 50%
chức năng thị giác bị ảnh hưởng vừa phải. Sau
điều trị 1 tháng có 46/48 BN (95,83%) có tình
trạng chức năng thị giác bình thường so với sau
điều trị 2 tuần (50%). Sau điều trị 3 tháng toàn
bộ BN có tình trạng chức năng thị giác bình
thường có 95,83% điểm 6 và 4,17% điểm 5.
Tình trạng rối loạn về điểm số RLTG sau
tiêm tăng hơn so với trước tiêm và sau 1-3 tháng
cũng tăng hơn so với 1-2 tuần đều có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05).
Kết quả điều trị của tác giả: 149/194 BN
(75,25%) có tình trạng chức năng thị giác bình
thường, 35/194 BN (18%) chức năng thị giác bị
ảnh hưởng vừa phải. Tỉ lệ cải thiện trong nghiên
cứu của chúng tôi cao hơn của tác giả.
Đánh giá kết quả cải thiện theo Poungvarin (Bảng 7)
Trong nghiên cứu của chúng tôi:
Sau 2 tuần: Cải thiện tốt: 50%, cải thiện
khá 50%.
Sau 1 tháng: Cải thiện tốt: 95,83%, cải thiện
khá 4,17%.
Sau 3 tháng: Cải thiện tốt: 100%.
Tỉ lệ thành công của tác giả: Cải thiện tốt:
83,51%, cải thiện khá 13,19%, trung bình 2,2%.
Vậy tỉ lệ thành công trong nghiên cứu của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 216
chúng tôi cũng tương đương như nghiên cứu
của tác giả khác.
Khảo sát thời gian kéo dài tác dụng của
thuốc
37/48 BN chiếm tỉ lệ 77,09% có thời gian kéo
dài tác dụng của thuốc từ 3 tháng trở lên và
không bị tái phát cho đến tháng thứ 5.
Theo công trình nghiên cứu của P. Calace,
G. Cortese, R. Piscopo, G. Dellavolpe, V.
Gagliardi, A. Magli, T. De berardinis ở Khoa
Mắt Trường Đại học “ Federico II”, Napoli-
Y(8): theo dõi 178 BN bị co quắp mí mắt được
tiêm Dysport có thời gian kéo dài tác dụng
của thuốc là 3,6 tháng.
Theo Elston J.S. các thử nghiệm khởi đầu với
toxin botulinum type A có thời gian kéo dài tác
dụng của thuốc trung bình khoảng 2,5 tháng(11,8).
Thời gian kéo dài tác dụng của thuốc trong
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với
công trình nghiên cứu của tác giả ngoài nước.
Tỉ lệ tái phát
Tháng thứ 5 có 11/48 BN bị tái phát trở lại
trong đó có 7 BN thuộc thể co quắp mí riêng lẻ
và 4 BN thuộc H/C Meige, các BN này chúng tôi
không tiếp tục nghiên cứu thêm.
Tác dụng phụ
Không thấy tác dụng phụ gây phản ứng dị
ứng toàn thân như nổi mẫn da, ban đỏ, ngứa.
Có một BN có cảm giác đau tê tại vùng tiêm
thuốc, đây không phải là tác dụng phụ liên
quan đến tác dụng dược lý của thuốc.
Có 12 BN không có tác dụng phụ: Các BN
này có thể được tiêm đúng vào vị trí, thuốc
không lan xa khỏi vùng tiêm nên hạn chế được
tác dụng phụ. Mặc dù tác dụng phụ phản ảnh
được hiệu quả về tính chất làm liệt cơ, nhưng
nếu tiêm đúng trên cơ sở hiểu biết về giải phẫu
học thì hạn chế được tác dụng xảy ra.
Tác dụng phụ xảy ra chủ yếu tại chổ tiêm
hay liên quan đến đặc tính dược lý học của
toxin lên cơ nằm bên dưới hoặc xa hơn, có thể
tiêm quá sâu hay tiêm sai vị trí, ngoài ra còn
có thể do động tác mở mắt bất thường của BN
khi đang tiêm thuốc bởi vì BN phải nhắm mắt
để định vị chổ tiêm được chính xác, động tác
mở mắt bất thường có thể làm sai lệch mũi
kim. Nhưng thuốc chỉ làm liệt tạm thời nhóm
cơ gần chỗ tiêm.
Theo Jankovic về các quan điểm hạn chế
phát tán thuốc(3).
Tăng nồng độ bằng cách hạn chế dung dịch
pha: thay vì pha vào chai Dysport 2,5 ml dung
dịch muối sinh lý, chỉ pha 0,7 ml.
Pha thêm adrenaline.
Đầu vát và hướng mũi kim về phía cơ đích,
lực tiêm chậm đều.
Giải thích các tác dụng phụ
Hở mí: do thuốc tác dụng làm liệt cơ vòng
mí, nên khi nhắm mắt cơ vòng mí không đủ
mạnh để nhắm kín mắt, có 16 BN hở mí nhưng
với mức độ nhẹ (hở mí từ 2-3 mm) không gây
khó chịu gì cho BN, dấu hiệu này chứng tỏ có
tình trạng liệt cơ, thuốc có tác dụng.
Khô mắt: có 4 BN khô mắt gây khó chịu tạm
thời, được dùng nước mắt nhân tạo để điều trị
hỗ trợ, tình trạng khô mắt xảy ra do giảm tần số
chớp mắt vì cơ bị liệt tạm thời, cũng có thể do
mũi tiêm phía trên ngoài ảnh hưởng đến tuyến
lệ (nằm ở góc trên ngoài của bờ trên hốc mắt)
gây giảm sản xuất nước mắt.
Song thị: có 2 BN bị tác dụng này, xảy ra do
thuốc lan vào cơ trực ngoài làm liệt tạm thời cơ
trực ngoài và biến mất sau 3 tháng. Bởi vì thuốc
có thể lan ra xa chổ tiêm 2 cm nên các cơ lân cận
dễ bị ảnh hưởng.
Chảy nước mắt: có 2 BN bị chảy nước mắt,
tình trạng này do thuốc làm liệt cơ Horner ở cổ
túi lệ nên mất tác dụng hút nước mắt gây chảy
nước mắt.
Sụp mí: có 12 BN bị sụp mí (25%) bị ảnh
hưởng do thuốc lan vào cơ nâng mí. Trong một
nghiên cứu của P. Calace, G. Cortese, R.
Piscopo, G. Dellavolpe, V. Gagliardi, A. Magli,
T. De berardinis. Trường Đại học “ Federico II”,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 217
Napoli-Ý : tỉ lệ về sụp mí nhỏ hơn 15%. Tỉ lệ sụp
mí trong nghiên cứu của chúng tôi nhiều hơn
của tác giả ngoài nước có thể do lúc đầu chưa có
kinh nghiệm tiêm.
Trong tuần đầu 36 BN có tác dụng phụ, sau
1 tháng chỉ còn 16 BN, sau 3 tháng không có BN
nào còn tác dụng phụ. Chứng tỏ thời gian thuốc
đạt tác dụng tối đa thì tác dụng phụ cũng dần
dần biến mất.
KẾT LUẬN
Dysport có vai trò trong điều trị co quắp mí
mắt vô căn, trong mẫu nghiên cứu mức độ cải
thiện tốt 95,83% ở tháng thứ nhất. BN hết co
quắp mí mắt, mắt mở tự nhiên, không còn rối
loạn chức năng về vận động mí gây ảnh hưởng
đến chức năng thị giác. Liều thuốc trung bình
cho co quắp mí riêng lẻ là 70 đơn vị, liều thuốc
trung bình cho BN bị H/C Meige là 88 đơn vị.
Thời gian thuốc Dysport bắt đầu có tác dụng liệt
cơ sau 1 tuần, đạt cao nhất vào tháng thứ 1 và
kéo dài 3 tháng dựa vào điểm số RLTG trong
đợt điều trị. Thuốc chỉ tác dụng trong khoảng
thời gian từ 3 đến 5 tháng Tỉ lệ tái phát trong
nghiên cứu là 22,91% ghi nhận vào tháng thứ 5.
Tác dụng phụ chiếm tỉ lệ 75% chỉ là tạm thời;
xuất hiện từ tuần thứ 1, biến mất sau 2 tuần và
không còn sau 3 tháng, trong đó triệu chứng
song thị là tác dụng phụ gây phiền toái nhất cho
bệnh nhân. Không có tác dụng phụ toàn thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brin MF (1991): The clinical use of boyulinum toxin, Symposium
Columbia University, October, 12.
2. Elston J.S. (1990): Botulinum toxin A in clinical medicine. J.
Physiol, Paris 1990; 84(4):285-9.
3. Elston J.S: (1988): Botulinum toxin treament of blepharospasm.
Adv. Neurol.; 50: 579-81.
4. Gillum W.N, Anderson R.L (1981): Blepharospasm surgery: an
anatomic approach. Arch. Ophthalmol.; 99 (6): 1056-62
5. Hà Huy Tiến (1972): Rối loạn vận động nhãn cầu, nhãn khoa tập
2, nhà xuất bản y học Hà Nội, 1972: 190 –1.
6. Hambleton P. (1992): Clostridium botulinum toxins: a general
review of involvement in discase, structure, mode of action and
preparation for clinical use review J. Neurol.; 239 (1):16-20.
7. Jankovic J, Brin M.F (1991): Therapeutic uses of botulinum toxin
review, N. Engl. J. Med. 1991: 324(17):1186-1194.
8. Lê Minh Thông và cộng sự (2004): Kết quả bước đầu của sử
dụng Dysport trong điều trị: Lé do liệt thần kinh VI, co quắp mí
mắt vô căn, co giật nửa mặt, các nếp nhăn vùng mặt. Bản tin
Nhãn khoa số 02/2004.
9. Lwanga SK., Lemeshow S. (1991): Xác định cỡ mẫu trong các
nghiên cứu sức khỏe, Sổ tay thực hành, Tổ chức Y Tế Thế Giới,
Geneva(Lê Hoàng Ninh dịch)
10. Melling J, Hambleto P, Shone CC (1988): Clotridium botulinum
toxin nature and preparation for clinical use Eye 1988; 2 (pt 1):
16-23.
11. Nguyễn Xuân Nguyên, Phan Dẫn, Thái Thọ (1974): Giải phẫu
mắt ứng dụng trong lâm sàng và Sinh lý thị giác, nhà xuất bản y
học Hà Nội.
12. Sni M; Weiberger D, Bourla D, Kristal-Shalit O: (2003):
Quantitative changes in botulinum toxin A treatment over time
in patient with essential blepharospasm and idiopathic
hemifacial spasm. Am J Ophthamol; 136: 99-105.
13. Soulayrol S, Caperan A, Penot-Ragon C, Beaulieu J.P, Gastaut J.I.
(1993): Traitement par injections locales de toxin botulique en
neurology Indications et resultants. La Presse Med.; 22:967-63.
14. Trịnh Bỉnh Dy (2002): Bài giảng sinh lý học, nhà xuất bản y học
Hà Nội.
15. Võ Văn Huy, Võ Thị Lan, Hoàng Trọng: (1997): Ứng dụng SPSS
for Windows để xử lý và phân tích dữ kiện nghiên cứu, Nhà
xuất bản khoa học và kỹ thuật 1997.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_su_dung_dysport_trong_dieu_tri_co_quap_mi.pdf