KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu sử dụng khung xương
khử khoáng trong phẫu thuật nâng xoang hở
cho 30 bệnh nhân gồm 40 xoang đặt 64 trụ
implant, cho phép rút ra các kết luận sau:
- Độ vững ổn của implant (ISQ) ngay sau
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật: Cả hai
thông số ISQ (N-T) và ISQ (G-X) đều tăng ở 6
tháng sau phẫu thuật, trung bình ISQ ngay sau
phẫu thuật: 58,44±11,45 so với 73,12±15,38. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
- Mật độ xương (HU) trước phẫu thuật và 6
tháng sau phẫu thuật: Chỉ số HU tăng nhiều 6
tháng sau phẫu thuật, trung bình HU trước phẫu
thuật 181,94±524,65 so với 1327±418,68. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Có sự thay đổi
tỉ lệ phân bố giữa các nhóm mật độ xương 6
tháng sau phẫu thuật, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,001).
- Chiều dày đáy xoang hàm trước phẫu thuật
và 6 tháng sau phẫu thuật: Chiều dày đáy xoang
hàm trước phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật
có tăng, trung bình chiều dày đáy xoang trước
phẫu thuật 3,85 ± 1,45 so với 10,61 ± 2,82. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
- Kết quả lâm sàng 6 tháng sau đặt implant
với kỹ thuật nâng xoang hở sử dụng khung
xương khử khoáng CGDBM100:
59 implant thành công (92,2%).
5 implant thất bại (7,8%).
1 xoang bị thủng (2,5%) trên 40 xoang.
Khung xương khử khoáng CGDBM100: dễ sử
dụng vì ở dạng vữa trong ống tiêm, không rớt
xương ghép vào mô mềm. Tăng thể tích xương
trong phẫu thuật nâng xoang hở. Hàm lượng
DBM cao, rút ngắn thời gian tái tạo xương
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 40 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng khung xương khử khoáng CGDBM100 để nâng xoang hở đồng thời đặt implant nha khoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 303
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG KHUNG XƯƠNG KHỬ KHOÁNG
CGDBM100 ĐỂ NÂNG XOANG HỞ ĐỒNG THỜI ĐẶT IMPLANT NHA
KHOA
Trần Xuân Thắng*, Lê Đức Lánh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Sử dụng khung xương khử khoáng CGDBM100 để nâng xoang hở đặt Implant đồng thời nhằm
đánh giá các mục tiêu sau: (1) Xác định độ vững ổn của Implant (ISQ) ngay sau phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu
thuật, (2) Xác định mật độ xương trước phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật, (3) Xác định chiều dày đáy xoang
trước phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật, (4) Đánh giá kết quả lâm sàng 6 tháng sau phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 30 bệnh nhân nâng 40 xoang, đặt 64
trụ Implant. Đo chỉ số ISQ ngay sau phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật. Đo chỉ số HU, mật độ xương, chiều
dày đáy xoang trước và 6 tháng sau phẫu thuật.
Kết quả: Nghiên cứu bước đầu các chỉ số ISQ, HU, mật độ xương, chiều dày đáy xoang đều tăng 6 tháng
sau phẫu thuật, 01 ca thủng xoang (2,5%) trên 40 xoang, 59 Implant thành công (92,2%) trên 64 trụ implant.
Kết luận: Nghiên cứu sử dụng khung xương khử khoáng CGDBM100 để nâng xoang hở đặt Implant đồng
thời rất hữu ích trong lâm sàng cho sự gia tăng thể tích xương trong phẫu thuật nâng xoang hở nhờ tác động tích
cực của nó lên sự hình thành xương mới và sử dụng dễ dàng.
Từ khoá: Cấy ghép implant, vật liệu ghép, độ ổn định của implant.
ABSTRACT
EVALUATION OF BONE MATRIX CGDBM100 USING IN OPEN SINUS LIFT
WITH IMMEDIATELY IMPLANT PLACEMENT
Tran Xuan Thang, Le Duc Lanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 303 - 309
Objective: The objective of this study was to use Bonematrix CGDBM100 in open sinus lift and immediate
implant for: (1) Defining primary implant stability and after 6 months, (2) Defining bone density pre-op and 6
months post operation, (3) Defining the pre-op height of sinus floor and 6 months post-op, (4) Evaluating clinical
results 6 months post-op.
Materials and method: the research was done on 30 patients and 40 sinus lift cases and 64 implants. ISQ
was measured immediately post-op and 6 months later. HU, density of bone, height of sinus floor were measured
pre-op and 6 months post-op.
Results: ISQ, HU, bone density, height of sinus floor almost increased after 6 months, 1 sinus perforation
(2.5%) out of 40 cases, 59 successful implants out of 64 implants.
Conclusion: Bone matrix CGDBM100 was very useful in increasing bone volume during sinus lift
operation, with positive stimulation to reconstruct new bone and easy use.
Key word: Implant placement, graft material, implants stability.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 304
MỞ ĐẦU
Cấy ghép nha khoa là một phương pháp điều
trị hiệu quả trong trường hợp bệnh nhân mất
răng toàn bộ hay bán phần. Tỉ lệ thành công phụ
thuộc yếu tố toàn thân và tại vùng đặt implant,
nhất là chất lượng và số lượng xương ở vùng mất
răng cối nhỏ và răng cối lớn hàm trên thường bị
tiêu nhiều, có trường hợp thành xoang còn dưới
5mm do tiêu xương sau mất răng dẫn đến khó đặt
implant. Vì vậy trong trường hợp chiều cao xoang
hàm bị thiếu xương và chất lượng xương kém,
việc tăng số lượng xương nâng đỡ implant có
chiều dài thích hợp để tăng sự ổn định của
implant khi đặt ở vùng răng sau hàm trên rất
quan trọng. Khi đó có chỉ định nâng xoang cùng
với màng xoang là cần thiết, để những implant
dài có thể tăng neo chặn ở vùng chịu lực nhai
nhiều mà vẫn không làm chóp implant chui vào
xoang hàm. Ghép xương từ mặt xương để tăng
khối lượng xương ở vùng sau hàm trên có tỉ lệ
thất bại cao hơn nhiều so với nơi khác vì sự giới
hạn của thể tích xương, xương vỏ mỏng, xương
xốp, các cơ dày hơn. Năm 1970, Tatum(3) tiến hành
phẫu thuật nâng xoang hàm ghép xương có nâng
màng xoang và tác giả đã công bố kết quả nâng
xoang có ghép xương thuận lợi và tốt hơn việc
ghép xương khối.
Theo Wallace S.S (2003)(4,5), mất răng cối hàm
trên sau 2 năm mức tiêu xương trên 3mm. Trong
thực tế lâm sàng, xương ổ răng, thành xương
vùng răng cối hàm trên tiêu nhanh sau nhổ răng
hoặc tiêu do bệnh nha chu nên thành xương
mỏng, rất trở ngại cho đặt implant. Từ những
năm đầu thế kỷ 21, nâng xoang hàm là kỹ thuật
phổ biến trong cấy ghép nha khoa để tăng thể
tích xương thiếu ở thành xoang hàm.
Vật liệu dùng để nâng xoang hàm trên có thể
là xương tự thân, xương đồng loại, xương dị loại
và xương tổng hợp. Trong những vật liệu này
xương tự thân được coi là tiêu chuẩn vàng để
nâng xoang vì: xương tự thân có các protein tạo
dạng xương (BMP), BMP sẽ kích ứng nguyên bào
xương tạo thành xương từ các mô xung quanh và
các yếu tố tăng trưởng có vai trò trong việc phục
hồi, sửa chữa các xương ghép. Với xương vỏ,
BMP có vai trò tạo thành các khung sườn có tính
dẫn tạo xương cần cho sự hình thành xương,
nhanh lành thương. Với những lý do trên, xương
tự thân là vật liệu lý tưởng nhất cho việc tái thiết
lập sự thiếu hụt xương. Nhưng muốn sử dụng
xương tự thân, đòi hỏi phải có thêm một số vị trí
phẫu thuật khác, vì thế thời gian phẫu thuật tăng,
rủi ro cũng tăng lên, biến cố sau phẫu thuật cũng
cao; Đặc biệt, bệnh nhân phải chịu thêm một số
vùng đau do phẫu thuật lấy xương (xương mào
chậu, xương cằm, xương góc hàm). Các loại
xương dị loại là vật liệu ghép đáp ứng về số lượng
xương nhưng thời gian lành thương kéo dài, mức
độ tiêu xương sau ghép còn cao và tỉ lệ thành
công thấp; Đặc biệt về vấn đề tôn giáo, nhất là một
số quốc gia hồi giáo rất hạn chế sử dụng xương dị
loại để nâng xoang hàm. Xương đồng loại với chất
liệu được khử khoáng có nhiều ưu điểm hơn
xương dị loại.Những năm gần đây có nhiều công
trình nghiên cứu ứng dụng xương đồng loại khử
khoáng như nghiên cứu của tác giả: Groeneveld
và cộng sự (1998)(2), Dong Seok Sohn và cộng sự
(2009)(1). Vật liệu xương được sử dụng trong
nghiên cứu của chúng tôi là khung xương khử
khoáng CGDBM100 dưới dạng vữa (past) trong
ống tiêm bao gồm 100% DBM lấy từ mô người
cùng với các mảnh xương xốp để tăng dẫn tạo của
DBM, duy trì độ bền cơ học ở vị trí ghép và giúp
cho mạch máu đi vào vật liệu ghép nhanh, rút
ngắn thời gian lành thương và tạo xương mới.
Tại khoa Cấy Ghép Nha Khoa Bệnh Viện
Răng Hàm Mặt TP.HCM, nơi có số lượng bệnh
nhân khá cao đến điều trị về cấy ghép nha khoa,
chúng tôi sử dụng nhiều loại vật liệu ghép
xương trong phẫu thuật nâng xoang. Để đánh
* Khoa Cấy Ghép Nha Khoa, BV Răng Hàm Mặt Tp. Hồ Chí Minh
** Bộ môn Cấy ghép Nha khoa, Khoa RHM ĐHYD Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Trần Xuân Thắng ĐT: 0903730089 Email: kinhluan.it@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 305
giá và so sánh hiệu quả trong điều trị, bước đầu
chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử
dụng khung xương khử khoáng CGDBM100 để nâng
xoang hở đồng thời đặt implant nha khoa.” với mục
tiêu tổng quát như sau: “Đánh giá hiệu quả sử
dụng khung xương khử khoáng CGDBM100 để
nâng xoang hở đồng thời đặt implant nha khoa
trên bệnh nhân được điều trị tại Bệnh Viện Răng
Hàm Mặt Thành Phố Hồ Chí Minh”.
Mục tiêu chuyên biệt
1. Xác định độ vững ổn của implant (ISQ)
ngay sau phẫu thuật nâng xoang hở đặt implant
đồng thời và 6 tháng sau phẫu thuật.
2. Xác định mật độ xương trước phẫu thuật
và 6 tháng sau phẫu thuật.
3. Xác định chiều dày đáy xoang hàm trước
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật.
4. Đánh giá kết quả lâm sàng 6 tháng sau
phẫu thuật đặt implant với kỹ thuật nâng xoang
hở sử dụng khung xương khử khoáng
CGDBM100.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng loạt ca
không nhóm chứng, bằng cách thực hiện phẫu
thuật nâng xoang hở ghép khung xương khử
khoáng CGDBM100 đồng thời đặt implant nha
khoa trên 30 bệnh nhân tại khoa Cấy Ghép Nha
Khoa (Implant) bệnh viện Răng Hàm Mặt
Tp.HCM từ tháng 01 năm 2011 đến tháng 06
nămh 2013.
Trình tự nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Khung xương khử khoáng CGDBM100;
Implant Nobel Biocare.
Phương tiện nghiên cứu
Phòng vô trùng cho phẫu thuật, găng tay, nón
phẫu thuật, khẩu trang. Bộ máy ghế chữa răng
tổng hợp. Bộ dụng cụ khám, bộ dụng cụ tiểu phẫu
thuật trong miệng. Bộ dụng cụ nâng xoang hở. Bộ
mũi khoan Implant. Máy khoan Implant.
Tốc độ quay thông thường khi khoan xương
khoảng 800 - 1200 vòng/phút; tốc độ khi tạo ren
và vặn implant khoảng 10 – 25 vòng/phút.
Hình: Bộ phẫu thuật Nobel Biocare
Hình: Máy khoan
Bệnh án (phẫu thuật), thuốc tê, chỉ khâu
phẫu thuật các loại. Máy chụp hình (Sony DSC-
W570). Máy phẫu thuật Implant (Surgic XT
PLUS) và dụng cụ phẫu thuật. Máy đo Osstell
(SN 5824), máy chụp CT Cone Beam (Sirona 3D).
Các bước nghiên cứu
Bước 1: Khám tổng quát.
Bước 2: Chụp X-quang, CT Conebeam, công
thức máu, đo điện tâm đồ.
Bước 3: Lập kế hoạch điều trị.
Bước 4: Phẫu thuật nâng xoang, ghép xương
khử khoáng và đặt Implant.
Bước 5: Phục hình.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 306
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đo chỉ số ISQ.
Phương pháp đo mức độ tiêu xương quanh
Implant trên phim CT Conebeam.
Phương pháp xác định ca thành công.
Phương pháp xác định khả năng phục hình.
Thu thập và xử lý số liệu:
Thu thập số liệu: Thu thập tất cả kích
thước, số lượng Implant, chiều dày đáy xoang
hàm, mật độ xương, số đo ISQ trên 30 bệnh
nhân đã chọn.
Xử lý phân tích số liệu:
Bệnh án điều trị được kiểm soát.
Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5.
Mô tả về: tuổi, giới tính.
Thống kê phân tích
Về tỷ lệ tích hợp xương theo chỉ số ISQ ngay
sau phẫu thuật nâng xoang hở đặt implant tức
thì và 6 tháng sau phẫu thuật. Sử dụng phép
kiểm T-test và phép kiểm 2.
Về mật độ xương trên CT Cone Beam trước
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật bằng phép
kiểm T-test.
Phân tích về chiều dày đáy xoang hàm trước
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật bằng phép
kiểm T-test và phép kiểm 2.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tuổi
Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu
là 50,97 ± 10,28 tuổi, nhóm tuổi nhiều nhất
khoảng 50-59 tuổi (43,3%), tuổi nhỏ nhất là 24
tuổi, tuổi lớn nhất là 72 tuổi. Đây là lứa tuổi hay
gặp các bệnh lý răng miệng, hơn nữa ở lứa tuổi
này người bệnh có khả năng tài chính tốt hơn và
ý thức thẩm mỹ, nhu cầu phục hình cao hơn nên
đã lựa chọn kỹ thuật Implant.
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của
E.H.J.Groeneveld(2) và cộng sự (1998) từ 31-76
tuổi, tuổi trung bình là 57 tuổi, tuổi nhỏ nhất là
31 tuổi, tuổi lớn nhất là 76 tuổi.
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của Dong
Seak Sohn(1) (2009) từ 41-67 tuổi, tuổi trung bình
là 55 tuổi, tuổi nhỏ nhất là 41 tuổi và tuổi lớn
nhất là 67 tuổi.
Biểu đồ 1: Phân bố tuổi của mẫu nghiên cứu
Giới tính
Trong nghiên cứu này của chúng tôi, tỉ lệ
bệnh nhân nam là 53,3% và nữ là 46,7% gần như
tương đương nhau.
Theo nghiên cứu của E.H.J.Groeneveld(2)
(1998) và cộng sự tỉ lệ nam là 62,5% và nữ là
37,5%. Theo nghiên cứu của Dong Seak Sohn(1)
(2009) tỉ lệ nam là 80% và nữ là 20%.
Tỷ lệ phần trăm số đo ISQ (N-T) theo các
nhóm ngay sau PT và 6 tháng sau PT
Bảng 1: Số đo ISQ (N-T) ngay sau PT và 6 tháng sau
PT
Số đo ISQ Ngay sau phẫu
thuật n (%)
6 tháng sau phẫu
thuật n (%)
p
< 55 25 (39,1%) 5 (7,8%) <0,001
55-65 21 (32,8%) 5 (7,8%)
65-70 9 (14,1%) 8 (12,5%)
> 70 9 (14,1%) 46 (71,9%)
Trung bình 57,21 ± 13,04 70,17 ± 14,74 <0,001
Sự khác biệt trung bình giữa 2 thông số ISQ
(N-T) tăng 12,96 điểm (p < 0,001).
Số đo ISQ (N-T) ngay sau phẫu thuật và 6
tháng sau phẫu thuật: Cho thấy số đo ISQ (N-T)
phân 4 nhóm đo ngay sau khi đặt implant có giá
trị ISQ (N-T) thấp hơn so với số đo ISQ (N-T) ở
thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật đặt implant. Sự
khác biệt về sự phân bố giữa các nhóm được ghi
nhận có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 307
Tỷ lệ phần trăm số đo ISQ (G-X) theo các
nhóm ngay sau PT và 6 tháng sau PT
Bảng 2: Số đo ISQ (G-X) ngay sau PT và 6 tháng sau
PT
Số đo ISQ Ngay sau phẫu
thuật n (%)
6 tháng sau
phẫu thuật n (%)
p
< 55 18 (28,1%) 5 (7,8%) <0,001
55-65 26 (40,6%) 1 (1,6%)
65-70 12 (18,8%) 4 (6,3%)
> 70 8 (12,5%) 54 (84,4%)
Trung bình 60,14 ± 10,70 76,53 ± 16,39 <0,001
Sự khác biệt trung bình giữa 2 thông số ISQ
(G-X) tăng 16,39 điểm (p < 0,001).
Số đo ISQ (G-X) ngay sau phẫu thuật và 6
tháng sau phẫu thuật: Cho thấy số đo ISQ (G-X)
phân 4 nhóm đo ngay sau khi đặt implant có giá
trị ISQ (G-X) thấp hơn so với số đo ISQ (G-X) ở
thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật đặt implant. Sự
khác biệt về sự phân bố giữa các nhóm được ghi
nhận có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Trong đó
khuynh hướng phân bố số đo ISQ (G-X) tập
trung ở nhóm số đo cao.
Tỷ lệ phần trăm số đo ISQ (N-T + G-X)/2
theo các nhóm ngay sau PT và 6 tháng sau
PT
Bảng 3: Số đo ISQ (N-T + G-X)/2 ngay sau PT và 6
tháng sau PT
Số đo ISQ Ngay sau phẫu
thuật n (%)
6 tháng sau phẫu
thuật n (%)
p
< 55 20 (31,3%) 5 (7,8%) <0,001
55-65 24 (37,5%) 3 (4,7%)
65-70 12 (20,3%) 4 (6,3%)
> 70 8 (12,5%) 52 (81,3%)
Trung bình 58,44 ± 11,45 73,12 ± 15,38 <0,001
Sự khác biệt trung bình giữa 2 thông số ISQ
(N-T + G-X)/2 tăng 14,68 điểm (p < 0,001).
Số đo ISQ (N-T+G-X)/2 ngay sau phẫu thuật
và 6 tháng sau phẫu thuật: Cho thấy số đo ISQ
(N-T+G-X)/2 phân 4 nhóm đo ngay sau khi đặt
implant có giá trị ISQ (N-T+G-X)/2 thấp hơn so
với số đo ISQ (N-T+G-X)/2 ở thời điểm 6 tháng
sau phẫu thuật đặt implant. Sự khác biệt phân bố
giữa các nhóm được ghi nhận có ý nghĩa thống
kê (p<0,001). Trong đó khuynh hướng phân bố
số đo (N-T+G-X)/2 tập trung ở nhóm số đo cao,
có nghĩa là sự cải thiện tốt về số đo ISQ cả 2
chiều đo sau 6 tháng.
Kết quả số đo Hounsfiel Units (HU)
Bảng 4: Số đo Hounsfield Units (HU) trước phẫu
thuật và 6 tháng sau phẫu thuật
Trước
phẫu thuật
6 tháng
sau phẫu thuật
p
Trung bình 195,44 ± 534,39 1350,07 ± 425,45 <0,001
Thấp nhất -764 523
Cao nhất 2379 2475
Giá trị trung bình giữa 2 lần đo tăng
(p<0,001).
Số đo HU trung bình trước phẫu thuật và 6
tháng sau phẫu thuật: Sự khác biệt trung bình số
đo HU trước phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu
thuật tăng 1145,23 đơn vị HU (SD=558,60), sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001.
Tỷ lệ phần trăm mật độ xương trước phẫu
thuật và 6 tháng sau phẫu thuật
Bảng 5: Mật độ xương trước phẫu thuật và 6 tháng
sau phẫu thuật
Trước
phẫu thuật n (%)
6 tháng
sau phẫu thuật n (%)
p
D1 2 (3,1) 27 (45,8) <0,001
D2 2 (3,1) 26 (44,1)
D3 12 (18,8) 6 (10,1)
D4 17 (26,6) 0
D5 31 (48,4) 0
6 tháng sau phẫu thuật 90% implant ở D1
và D2.
Không có implant nào ở D4, D5
Có sự thay đổi tỷ lệ phân bổ giữa các nhóm
mật độ xương (khác biệt có ý nghĩa thống kê
p<0,001). Trong đó xu hướng mật độ xương
được cải thiện 6 tháng sau phẫu thuật theo dõi
với hơn 87,5% chỉ nằm ở nhóm D1, D2 và không
có implant có mật độ xương nằm trong nhóm
D4, D5 (0%).
Tỷ lệ phần trăm chiều dày đáy xoang trước
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật
Trong nghiên cứu Geurs và cộng sự năm
2001, trong số 349 Implant được cấy ghép, có 20
Implant bị đào thải. Tuy nhiên, tác giả đã chỉ ra
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 308
rằng, đối với 13 implant bị đào thải, phần xương
hàm trên có bề dày là 4mm. 7 Implant còn lại thì
có bề dày xương hàm trên nằm trong khoảng 4-
8mm. không có Implant nào bị đào thải trong
nhóm có bề dày xương hàm trên 8mm. Với kết
quả đó, tác giả đã kết luận rằng bề dày xương
hàm sau khi nâng xoang hàm có giá trị tương
quan rất cao với khả năng thành công của đặt
implant. Bề dày này bao gồm xương hàm trên và
phần nâng chiều cao của xoang hàm trên.
Trong một nghiên cứu gần đây của
Lundgren năm 2004, tác giả đã đặt 19 Implant
vào 12 xoang hàm mà không sử dụng bất cứ vật
liệu ghép nào. Báo cáo không có bất cứ trường
hợp Implant nào bị thất bại, gợi ý khả năng
không dùng vật liệu ghép trong trường hợp
nâng xoang có khả thi. Tuy nhiên, tác giả cũng
ghi nhận rằng các bệnh nhân trong mẫu nghiên
cứu có phần xương hàm trên có bề dày 7mm.
Vấn đề đặt ra là báo cáo đã không nêu rõ bề dày
này được đo trước hay sau khi can thiệp phẫu
thuật nâng xoang hàm trên.
Đối với phần lớn các nghiên cứu khác, hoặc
là các tác giả không báo cáo bề dày trung bình
của xương hàm trên, hoặc là mẫu nghiên cứu
loại trừ một cách hiển nhiên tất cả các bệnh nhân
có bề dày xương hàm trên dưới 6mm.
Theo nghiên cứu của chúng tôi gồm 30 bệnh
nhân nâng 40 xoang và đặt 64 trụ implant đều
tăng thể tích và chiều dày đáy xoang 6 tháng sau
phẫu thuật (Bảng 6).
Kết quả chiều dày đáy xoang hàm 6 tháng
sau phẫu thuật tăng, điều này có nghĩa là 6 tháng
sau phẫu thuật sử dụng xương khử khoáng
CGDBM100 làm vật liệu thay thế xương để phẫu
thuật nâng xoang hàm, có sự tăng chiều dày đáy
xoang hàm, tăng thể tích xương và chất lượng
xương vùng xoang hàm cần cấy ghép. Do đó,
chúng ta sử dụng implant có chiều dài và chiều
rộng thích hợp để tăng diện tích tiếp xúc giữa
xương và implant, tăng khả năng ổn định sơ
khởi của implant.
Bảng 6: Số đo chiều dày đáy xoang trước phẫu thuật
và 6 tháng sau phẫu thuật
Số đo chiều dày
đáy xoang
Trước
phẫu thuật n (%)
6 tháng sau phẫu
thuật n (%)
< 5mm 51 (79,7%) 0 (0%)
5 – 10mm 13 (20,3%) 22 (37,3%)
10 – 12 mm 0 (0%) 21 (35,6%)
12mm > 0 (0%) (27,1%)
Kết quả về kỹ thuật mở xoang
30 bệnh nhân nghiên cứu nâng 40 xoang:
Tỷ lệ thủng xoang là 2,5%.
Tỷ lệ không thủng chiếm 97,5%.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu sử dụng khung xương
khử khoáng trong phẫu thuật nâng xoang hở
cho 30 bệnh nhân gồm 40 xoang đặt 64 trụ
implant, cho phép rút ra các kết luận sau:
- Độ vững ổn của implant (ISQ) ngay sau
phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật: Cả hai
thông số ISQ (N-T) và ISQ (G-X) đều tăng ở 6
tháng sau phẫu thuật, trung bình ISQ ngay sau
phẫu thuật: 58,44±11,45 so với 73,12±15,38. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
- Mật độ xương (HU) trước phẫu thuật và 6
tháng sau phẫu thuật: Chỉ số HU tăng nhiều 6
tháng sau phẫu thuật, trung bình HU trước phẫu
thuật 181,94±524,65 so với 1327±418,68. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Có sự thay đổi
tỉ lệ phân bố giữa các nhóm mật độ xương 6
tháng sau phẫu thuật, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,001).
- Chiều dày đáy xoang hàm trước phẫu thuật
và 6 tháng sau phẫu thuật: Chiều dày đáy xoang
hàm trước phẫu thuật và 6 tháng sau phẫu thuật
có tăng, trung bình chiều dày đáy xoang trước
phẫu thuật 3,85 ± 1,45 so với 10,61 ± 2,82. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
- Kết quả lâm sàng 6 tháng sau đặt implant
với kỹ thuật nâng xoang hở sử dụng khung
xương khử khoáng CGDBM100:
59 implant thành công (92,2%).
5 implant thất bại (7,8%).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 309
1 xoang bị thủng (2,5%) trên 40 xoang.
Khung xương khử khoáng CGDBM100: dễ sử
dụng vì ở dạng vữa trong ống tiêm, không rớt
xương ghép vào mô mềm. Tăng thể tích xương
trong phẫu thuật nâng xoang hở. Hàm lượng
DBM cao, rút ngắn thời gian tái tạo xương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dong Seok Sohn (2009), "Efficacy of demineralized bone
matrix paste for maxillary sinus augmentation: A histologic
and clinical study in humans", Oral Surg Oral Med Oral Pathol
Oral Radiol Endod, p. 108:e30-e35.
2. Groeneveld EHJ, Van Den Bergh JPA, Holzmannn P, Ten
Bruggenkate CM, Tuinzing DB, Burger EH (1998),
"Mineralization processes in demineralized bone matrix grafts
in human mmaxillary sinus floor elevations", Department of
Oral and Maxillofacial Surgery, p. 393-402.
3. Tatum H Jr (1986), "Maxillary and sinus implant
reconstructions", Dent Clin North Am. 30, p. 207-29.
4. Wallace SS, Froum SJ (2003), "Effect of maxillary sinus
augmentation on the survival of endossious dental implants
as compared to the survival of implants placed in the non-
grafted posterior maxilla: an evidence-based literature
review", Ann. Periodontol. 8, p. 328-343.
5. Wallace SS, Froum SJ, Cho SC, Elian N, Monteiro D, Kim BS,
Tarnow DP (2005), "Sinus augmenttation utilizing anorganic
bovine bone (Bio-Oss) with absorbable and non-absorbable
membranes placed over the lateral window:
histomorphometric and clinical analysis", Int. J. Periodontics
Restorative Dent. 25, p. 551-559.
Ngày nhận bài báo: 12/02/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/03/2015
Người phản biện: TS Phan Ái Hùng
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_su_dung_khung_xuong_khu_khoang_cgdbm100_de.pdf