Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân Thuỷ, Ba Tri, Bến Tre

Tỷ lệ thu được mẫu phân tương đối cao (77%). Do có sự chuẩn bị tốt về công tác triển khai thực hiện đề tài, tuyên truyền, đặc biệt là có sự phối tốt giữa y tế, nhà trường và phụ huynh học sinh, các thầy cô giáo đã nhiệt tình phối hợp với đoàn nghiên cứu, triển khai thực hiện đúng tiến độ đề tài do đó công việc nghiên cứu đã diễn ra như mong muốn. Với 709 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ dương tính với trứng giun là 7,8%, thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ 37,9% của điều tra toàn quốc năm 2006 của các Viện SR-KST-CT Trung ương và khu vực(4). Có thể do sau thời điểm này, việc điều trị định kỳ hàng năm cho các học sinh tiểu học được tiến hành rộng rãi nên đã góp phần hạ tỷ lệ nhiễm giun ở các đối tượng này. Trong số các loại giun phát hiện, giun móc chiếm đa số (77,8%), kế đến là giun đũa (14,8%), giun tóc 7,4%. So với các khảo sát trước đây tại các tỉnh thuộc khu vực phía Nam là thứ tự các loài giun bị nhiễm nhiều là giun móc, giun tóc, và sau cùng là giun đũa. Tuy nhiên tại khảo sát này tỷ lệ nhiễm giun đũa đứng thứ 2 sau giun móc. Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng giun trong phân đều là đơn nhiễm. Tuy nhiên vì nhiễm giun móc chiếm đa số, kế đến là nhiễm giun đũa, là hai loài giun gây thiếu máu, thiếu chất dinh dưỡng nên hậu quả của nhiễm giun cũng nặng nề hơn.

pdf6 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân Thuỷ, Ba Tri, Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 99 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TẨY GIUN CỦA ALBENDAZOLE Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI XÃ TÂN THUỶ, BA TRI, BẾN TRE Nguyễn Ngọc Ánh*, Dương Công Thịnh*, Trương Văn Lợi**, Đỗ Tấn Hồng**, Phạm Thị Kim Thoa**, Trần Thị Xuyến*, Nguyễn Thị Hồng Ân* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Albendazole được sử dụng rộng rãi để điều trị giun tròn trên người từ nhiều năm nay. Tuy nhiên từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y. Từ cơ sở trên chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tẩy giun của Albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre từ tháng 6/2012 đến tháng 12/2012. Phương pháp: Xét nghiệm định lượng số trứng giun bằng phương pháp Kato-Katz. Các học sinh nhiễm giun sẽ được điều trị bằng Albendazole 400 mg theo phác đồ của Bộ Y tế. Sau khi uống thuốc 14 ngày, các học sinh này được xét nghiệm lại để tính các chỉ số đánh giá hiệu quả của thuốc. Kết quả: Có 709 học sinh của trường tiểu học xã Tân Thủy, Ba Tri, tỉnh Bến Tre được xét nghiệm. Tỷ lệ nhiễm giun chung là 7,8%, đa số là nhiễm giun móc (77,8%), giun đũa (14,8%), giun tóc (7,4%). Tất cả đều là đơn nhiễm (100%), cường độ nhiễm (98,1%). Xét nghiệm sau 14 ngày, tỷ lệ sạch trứng đối với giun đũa là (100%), đối với giun tóc là (100%) và giun móc (98,0%). Trường hợp còn dương tính thì số lượng trứng giun cũng giảm rất nhiều (83,90%). Kết luận: Đa số học sinh địa điểm nghiên cứu nhiễm giun móc. Điều trị bằng Albendazole 400 mg theo phác đồ của Bộ Y tế vẫn có hiệu quả. Từ khóa: Albendazole / tẩy giun / xã Tân Thuỷ. ABSTRACT EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF DEWORMING USING ALBENDAZOLE IN PRIMARY SCHOOL CHILDREN IN TAN THUY, BA TRI, BEN TRE Nguyen Ngoc Anh, Duong Cong Thinh, Truong Van Loi, Đo Tan Hong, Pham Thi Kim Thoa, Tran Thị Xuyen, Nguyen Thi Hong An * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 99 - 104 Background: Albendazole is widely used to treat roundworms in humans for many years. However since the 90s there are reports on the deworming drug resistance in veterinary we perform this topic to: Assessment of effectiveness of deworming using albendazole in primary school in Tan Thuy commune, Ba Tri, Ben Tre months from 6/2012 to 12/2012. Study objectives: Evaluate effectiveness of deworming of Albendazole in primary school children. Method: Quantitative tests for number of eggs per gram feces by Kato-Katz method. Worm-infected children will be treated with Albendazole 400 mg according to the instruction (regime) of the Ministry of Health. 14 days after treatment, the children would be considered to test the indicators assessing the effectiveness of the drug. Results: 709 children of primary school in Tan Thuy, Ba Tri, Ben Tre were tested. Worm infection rate is *: Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. HCM; **: Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh BếnTre Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Ngọc Ánh, ĐT 0912171177; Email: nguyenanhnimpe@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 100 7.8% with majority were hookworm (77.8% positive cases), followed by an Ascaris (14.8%) and Trichuris (7.4%). All positive cases are monosomy with light intensity of infection (98%), Reassessment was carried out after 14 days of treatment showed the effect of Albendazole is applicable and effective in eliminate Ascaris (100%), Trichuris (100%) and hookworm (cure rate: (98.0%). One positive case hookworm is remain after treatment also showed significantly reducing EPG (83.90%). Conclusion: Most pupils of primary school in Tan Thuy commune are infected with hookworm. Treatment with albendazole 400 mg according to the regime of the Ministry of Health is still effective. Keywords: Albendazole/ deworm/ Tan Thuy. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm giun sán là vấn đề sức khỏe của cộng đồng được nhiều tổ chức trên thế giới quan tâm vì tính phổ biến và tác hại do bệnh gây ra. Bệnh thường có ở các nước nhiệt đới, điều kiện kinh tế khó khăn, môi trường ô nhiễm và tập quán sinh hoạt (ăn uống, canh tác) của người dân. Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương năm 2011, tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở trẻ 2-5 tuổi có tỷ lệ cao. Trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm giun đường ruột nhất. Các loại giun đường ruột phổ biến ở trẻ em là: giun đũa, giun tóc, giun móc, trong đó có nhiều trẻ bị nhiễm phối hợp hai hoặc cả ba loại giun(4). Từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y, mà trong đó có nhóm Benzimidazole, xảy ra trong chăn nuôi cừu tại Úc, Nam Phi và có thể tại Nam Mỹ, với tỷ lệ kháng nhiều nơi vượt quá 50% (2). Ở người, cuối những năm 90 cũng đã có nhiều báo cáo về hiện tượng thuốc giun bị kháng tại nhiều nước, trong đó có Mebendazole thuộc nhóm Benzimidazole đối với giun móc(1). Năm 2011 Viện Sốt rét- KST- CT TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đánh giá hiệu lực của Albendazole trong điều trị giun tròn tại một số trường tiểu học của huyện Bù Gia Mập tỉnh Bình Phước với kết luận: Albendazole còn tác dụng rất tốt trong điều trị giun tròn. Trong những năm gần đây, tại Việt Nam nói chung, khu vực phía Nam nói riêng Albendazole được sử dụng rộng rãi để điều trị giun tròn trên người, liệu rằng Albendazole có còn nguyên tác dụng với các loại giun tròn đường ruột hay không? Từ cơ sở trên chúng tôi tiến hành khảo sát nhằm trả lời câu hỏi: “Hiệu quả tẩy giun hiện nay của Albendazole ở học sinh tiểu học như thế nào?”. Theo điều tra của Viện Sốt rét – KST – CT TP.Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy: Xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre là vùng có tỷ lệ nhiễm giun tròn đường ruột cao, nên được chọn để thực hiện nghiên cứu. Kết quả thu thập được sẽ cung cấp một số thông tin hữu ích và thực tế trong điều trị nhiễm giun ở xã Tân Thủy. Hơn nữa, thông tin này có thể gợi ý điều tra rộng hơn cho các vùng nhiễm giun tròn khác vì mỗi cộng đồng có đặc trưng riêng. Qua đó giúp các đơn vị thực hiện chương trình phòng chống giun sán lựa chọn chiến luợc sát hợp với từng địa phương dựa trên khuyến cáo của WHO(5), góp phần nâng cao sức khỏe và chất lượng sống cho trẻ em nói riêng và người dân nói chung. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Địa điểm, thời gian, đối tượng Địa điểm Tại trường tiểu học xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Thời gian Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2012. Đối tượng Toàn bộ học sinh tiểu học có độ tuổi từ 6 đến 12 tuổi. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu can thiệp. Cỡ mẫu Tất cả các học sinh của trường đều đươc XN Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 101 phân tìm trứng giun tròn. Cỡ mẫu điều tra được tính sao cho đợt lấy mẫu phân thứ hai (14 ngày sau điều trị) sẽ thu được toàn bộ số mẫu phân dương tính của đợt điều tra ban đầu của học sinh đã được điều trị trước đó với Albendazole. Tỷ lệ nhiễm chung của tỉnh Bến Tre qua điều tra năm 2006 là 25%. Như vậy để có 300 mẫu dương tính trước khi điều trị sẽ cần điều tra 300*100/25 = 1200 học sinh. Chọn mẫu Các học sinh nhiễm bất kỳ một loại giun tròn nào (giun đũa, giun móc, giun tóc) sẽ được chọn vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ là có tiêu chảy ở mẫu phân đầu tiên, hoặc không thể đưa tiếp mẫu phân thứ hai 14 ngày sau đó, hoặc đang mắc các bệnh khác cần phải điều trị. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đề cương nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của Viện Sốt rét - KST-CT TP. HCM thông qua và được cho phép tiến hành. Các thầy cô giáo, phụ huynh học sinh và học sinh được thông báo mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu. Qua sổ liên lạc của nhà trường, phụ huynh ký tên đồng ý cho con em mình được xét nghiệm và được tẩy giun nếu kết quả xét nghiệm dương tính. Albendazole đã được sử dụng rộng rãi qua nhiều năm và cho thấy rất an toàn khi dùng để tẩy giun với các tác dụng phụ hầu như không đáng kể, nếu có chỉ là nhẹ và thoáng qua như nhức đầu, đau bụng. Nội dung nghiên cứu Kỹ thuật sử dụng Mẫu phân của học sinh sẽ được xét nghiệm trong ngày bằng phương pháp Kato- Katz và nếu dương tính sẽ đếm số trứng giun /gram phân. Các học sinh nhiễm giun sẽ được điều trị bằng albendazole 400 mg theo phác đồ điều trị của Bộ Y tế ban hành 2009. Mười bốn ngày sau, các học sinh đã được điều trị bằng Albendazole nói trên sẽ cung cấp mẫu phân thứ hai. Mẫu phân này cũng sẽ được xét nghiệm bằng phương pháp Kato-Katz và đếm trứng /gram phân nếu dương tính. Vật liệu, thuốc, hóa chất Lọ lấy phân, bìa Kato-Katz, lưới lọc phân, giấy cellophan, lam kính, dung dịch xanh malachit, máy đếm, thuốc albendazole viên 400 mg. “Phác đồ chẩn đoán và điều trị một số bệnh giun sán ở Việt Nam” do Bộ Y tế ban hành 2009. Các thuốc nhóm Pyrimidin: Không có chống chỉ định. Kỹ thuật thu thập số liệu Đếm số trứng giun có trong tiêu bản phân và nhân với hệ số của bìa Kato-Katz được sử dụng (x 24) để có số trứng giun trong một gram phân. Phương pháp xử lý số liệu Số trứng giun/gram phân sẽ được tính trung bình cho từng loại giun, đồng thời phân loại theo mức độ nhiễm nhẹ, vừa và nặng. Tính tỷ lệ nhiễm giun chung, tỷ lệ nhiễm đối với từng loài giun, tỷ lệ đơn nhiễm, đa nhiễm. Đối với thuốc tẩy giun sẽ tính các chỉ số: tỷ lệ giảm trứng giun, tỷ lệ sạch trứng để đánh giá hiệu lực của thuốc. Phần mềm thống kê được dùng là Epidata 3.1 Bảng 1. Mức độ nhiễm cho từng loại giun được quy định như sau. Giun Nhiễm nhẹ Nhiễm vừa Nhiễm nặng Đũa 1-4999 trứng/g* 5000-49999 trứng/g 50000 trứng/g Tóc 1-999 trứng/g 1000-9999 trứng/g 10000 trứng/g Móc 1-1999 trứng/g 2000-3999 trứng/g 4000 trứng/g *trứng/g: số trứng giun trong một gram phân. Các chỉ số đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy giun Các chỉ số đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy giun Tỷ lệ giảm trứng (Egg reduction rate - ERR): epg t. bình trước điều trị - epg t. bình sau điềutrị. ERR = --------------------------------------------- x 100% epg t. bình trước điều trị Tỷ lệ sạch trứng (Cure rate - CR): Số cas dương trước điều trị - số cas dương sau điều trị CR =------------------------------------------------- x 100% Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 102 Số cas dương tính trước điều trị Hiệu lực của thuốc tẩy giun, theo Tổ chức Y tế Thế giới, được đánh giá qua tỷ lệ sạch trứng giun (cure rate - CR) như sau (4): Nếu CR = 0 - 19%: Thuốc không có tác dụng; 20 - 59 %: Thuốc tác dụng trung bình; 60 - 89 %: Thuốc tác dụng tốt; > 90 %: Thuốc tác dụng rất tốt. Thuốc sử dụng và liều dùng Albendazole 400 mg viên nén do Holden Medical Laboratories Pvt. Ltd. Sinnar, India sản xuất, số lô sản xuất HEF22 tháng 6/2010, hạn dùng đến tháng 5/2013, đã được Tổ chức Y tế Thế giới kiểm nghiệm chất lượng. Liều dùng (theo phác đồ trên), nhai kỹ trước khi uống. KẾT QUẢ Kết quả mẫu nghiên cứu Bảng 2. Tỷ lệ thu được mẫu phân theo khối lớp. Khối lớp Thu được mẫu phân Số học sinh Có(%) Không(%) Khối 1 135 (74,6%) 46 (25,4%) 181 Khối 2 155 (83,3%) 31 (16,7%) 186 Khối 3 146 (88,5%) 19 (11,5%) 165 Khối 4 166 (79,0%) 44 (21,0%) 210 Khối 5 107 (60,0%) 71 (40,0%) 178 Tổng 709 (77,1%) 211 (22,9%) 920 Tỷ lệ thu được mẫu phân đạt khá cao 77,1%. Bảng 3: Tỷ lệ xét nghiệm dương tính với trứng giun. Khối lớp Kết quả xét nghiệm Số xét nghiệm Dương tính (%) Âm tính(%) Khối 1 9 (6,7%) 126 (93,3%) 135 Khối 2 5 (3,2%) 150 (96,7%) 155 Khối 3 8 (5,5%) 138 (94,5%) 146 Khối 4 21 (12,7%) 145 (87,3%) 166 Khối 5 12 (11,2%) 95 (88,8%) 107 Tổng 55 (7,8%) 654 (92,2%) 709 Bảng 4.Tỷ lệ nhiễm từng loại giun. Nhiễm Kết quả xét nghiệm Số xét nghiệm Dương tính (%) Âm tính(%) Giunđũa 8 (1,1%) 701 (98,9%) 709 Giuntóc 4 (0,6%) 705 (99,4%) 709 Giunmóc 42 (5,9%) 667 (94,1%) 709 Nhận xét: Giun móc chiếm đa số các trường hợp (77,8%), đến giun đũa (14,8%), giun tóc (7,4%). Ngoài ra còn phát hiện được 1 trường hợp nhiễm giun kim (0,14%). Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng giun trong phân đều là đơn nhiễm. Bảng 5. Cường độ nhiễm trứng giun (số trứng giun /g phân - epg). Nhiễm Số trường hợp Epg tối thiểu Epg tối đa Trung bình Độ lệch chuẩn Giun đũa 8 24 48 33,00 11,62 Giun tóc 4 24 168 60,00 62,35 Giun móc 42 24 9384 383,86 743,88 Bảng 6.Mức độ nhiễm cho từng loại giun (số trường hợp). Giun Nhiễm nhẹ Nhiễm vừa Nhiễm nặng Tổng Đũa 8 00 00 8 Tóc 4 00 00 4 Móc 41 00 01 42 - Các trường hợp nhiễm giun chủ yếu là nhiễm nhẹ (98,1%). - Một trường hợp nhiễm nặng với giun móc chiếm 1,9%. So sánh kết quả trước và sau điều trị Bảng7. Kết quả xét nghiệm lại sau khi điều trị 02 tuần (ở các trường hợp dương tính lần đầu với giun đũa, giun tóc và giun móc). Nhiễm Trước điều trị Sau điều trị 14 ngày Tỷ lệ sạch trứng (CR) % Số trường hợp (+) Số trường hợp (+) Giun đũa 8 00 100,0 Giun tóc 4 00 100,0 Giun móc 42 01 98,00 Tổng 54 01 Nhận xét: Tỷ lệ sạch trứng (cure rate - CR) trên, tác dụng của albendazole là rất tốt đối với giun đũa, giun tóc, giun móc. 1 trường hợp nhiễm giun kim được phát hiện, sau khi cho uống thuốc và xét nghiệm lại thì không thấy trứng giun kim nữa, nhưng không tính tỷ lệ sạch trứng của albendazole đối với giun kim vì kỹ thuật Kato-Katz không thích hợp để phát hiện trứng giun kim. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 103 Bảng 8. Số trứng giun trung bình/g phân (epg) ở các trường hợp chưa sạch trứng. Nhiễm Epg trước điều trị Epg sau điều trị Tỷ lệ giảm trứng (ERR) % Giun móc 744 120 83,90 BÀN LUẬN Tỷ lệ thu được mẫu phân tương đối cao (77%). Do có sự chuẩn bị tốt về công tác triển khai thực hiện đề tài, tuyên truyền, đặc biệt là có sự phối tốt giữa y tế, nhà trường và phụ huynh học sinh, các thầy cô giáo đã nhiệt tình phối hợp với đoàn nghiên cứu, triển khai thực hiện đúng tiến độ đề tài do đó công việc nghiên cứu đã diễn ra như mong muốn. Với 709 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ dương tính với trứng giun là 7,8%, thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ 37,9% của điều tra toàn quốc năm 2006 của các Viện SR-KST-CT Trung ương và khu vực(4). Có thể do sau thời điểm này, việc điều trị định kỳ hàng năm cho các học sinh tiểu học được tiến hành rộng rãi nên đã góp phần hạ tỷ lệ nhiễm giun ở các đối tượng này. Trong số các loại giun phát hiện, giun móc chiếm đa số (77,8%), kế đến là giun đũa (14,8%), giun tóc 7,4%. So với các khảo sát trước đây tại các tỉnh thuộc khu vực phía Nam là thứ tự các loài giun bị nhiễm nhiều là giun móc, giun tóc, và sau cùng là giun đũa. Tuy nhiên tại khảo sát này tỷ lệ nhiễm giun đũa đứng thứ 2 sau giun móc. Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng giun trong phân đều là đơn nhiễm. Tuy nhiên vì nhiễm giun móc chiếm đa số, kế đến là nhiễm giun đũa, là hai loài giun gây thiếu máu, thiếu chất dinh dưỡng nên hậu quả của nhiễm giun cũng nặng nề hơn. Đa số các trường hợp dương tính có cường độ nhiễm nhẹ (98,1%), thể hiện qua số trứng giun trung bình trong một gram phân, nhưng không vì thế mà coi nhẹ tình hình nhiễm, vì số lượng trứng giun/g phân không phản ảnh trung thực mức độ nhiễm do chỉ có giun cái mới đẻ trứng và đẻ không đều, những con giun đực có mặt và không phát hiện được cũng gây tác hại không kém. Tác dụng của thuốc, thể hiện qua tỷ lệ làm sạch trứng giun là rất tốt đối với đối với tất cả các loài giun trên. Phát hiện của nghiên cứu này cũng phù hợp với các đánh giá trong y văn. Đối với 01 trường hợp chưa sạch trứng giun, thì tỷ lệ giảm trứng giun do tác dụng của thuốc là rất cao (83,90%). Như vậy, dù không khỏi bệnh thì tác hại của việc nhiễm giun cũng đã giảm nhẹ rất nhiều. Phác đồ điều trị dùng là ba viên mỗi ngày uống 1 viên trong ba ngày liên tiếp (đối với giun móc, giun tóc) tác dụng của thuốc cao hơn so với phác đồ điều trị 1 ngày. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu này, tỷ lệ nhiễm giun của các học sinh tiểu học ở Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre là thấp, cường độ nhiễm nhẹ. Nhưng vì nhiễm giun móc chiếm đa số (77,8%). Tác dụng của Albendazole 400 mg liều dùng ba viên, mỗi ngày uống 1 viên trong ba ngày liên tiếp (đối với giun móc). Đã đáp ứng điều trị tốt với tất cả các loài giun trên. Một trường hợp chưa sạch trứng giun thì số lượng trứng cũng đã giảm rất nhiều dưới tác dụng của thuốc. Nghiên cứu này cho thấy phác đồ điều trị theo ca bệnh mang lại hiệu quả và ít tốn kém so với điều trị cộng đồng. Điều này cũng phù hợp với khuyến cáo của WHO những vùng có tỷ lệ nhiễm < 30% nên điều trị theo ca bệnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adugna S, Y Kebede, Moges F, Tiruneh M(2007). Efficacy of mebendazole and albendazole for Ascaris lumbricoides and hookworm infections in an area with long time exposure for antihelminthes, Northwest Ethiopia. Department of Biochemistry, College of Medicine and Health Sciences, University of Gondar, PO Box 1391, Gondar, Ethiopia;45(3):301- 6. 2. Geerts S. and Gryseels B (2000), “Drug Resistance in Human Helminths: Current Situation and Lessons from Livestock”,Clinical Microbiology Reviews, Apr. 2000, p. 207-222. 3. Geerts S. and Gryseels B. (2001), “Anthelmintic resistance in human helminths: a review”,Tropical Medicine and International Health,Vol 6 no. 11: 915-921, Nov 2001. 4. Nguyễn Mạnh Hùng, Đỗ Trung Dũng. Viện Sốt rét-KST-CT TƯ (2011), Hội nghị tổng kết công tác PCSR và giun sán 2006-2010, triển khai kế hoạch năm 2011,HàNội, tr 8-9. 5. World Health Organization (1996), Report of the WHO informal consultation on the use of chemotherapy for the control of Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 104 morbidity due to soil-transmitted nematodes in humans. WHO/CTD/SIP/96.2. 29 April to 1 May 1996.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_tay_giun_cua_albendazole_o_hoc_sinh_tieu_h.pdf
Tài liệu liên quan