Tỷ lệ thu được mẫu phân tương đối cao
(77%). Do có sự chuẩn bị tốt về công tác triển
khai thực hiện đề tài, tuyên truyền, đặc biệt là có
sự phối tốt giữa y tế, nhà trường và phụ huynh
học sinh, các thầy cô giáo đã nhiệt tình phối hợp
với đoàn nghiên cứu, triển khai thực hiện đúng
tiến độ đề tài do đó công việc nghiên cứu đã
diễn ra như mong muốn.
Với 709 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ dương tính
với trứng giun là 7,8%, thấp hơn rất nhiều so với
tỷ lệ 37,9% của điều tra toàn quốc năm 2006 của
các Viện SR-KST-CT Trung ương và khu vực(4).
Có thể do sau thời điểm này, việc điều trị định
kỳ hàng năm cho các học sinh tiểu học được tiến
hành rộng rãi nên đã góp phần hạ tỷ lệ nhiễm
giun ở các đối tượng này.
Trong số các loại giun phát hiện, giun móc
chiếm đa số (77,8%), kế đến là giun đũa
(14,8%), giun tóc 7,4%. So với các khảo sát
trước đây tại các tỉnh thuộc khu vực phía
Nam là thứ tự các loài giun bị nhiễm nhiều là
giun móc, giun tóc, và sau cùng là giun đũa.
Tuy nhiên tại khảo sát này tỷ lệ nhiễm giun
đũa đứng thứ 2 sau giun móc.
Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng
giun trong phân đều là đơn nhiễm. Tuy nhiên vì
nhiễm giun móc chiếm đa số, kế đến là nhiễm
giun đũa, là hai loài giun gây thiếu máu, thiếu
chất dinh dưỡng nên hậu quả của nhiễm giun
cũng nặng nề hơn.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả tẩy giun của albendazole ở học sinh tiểu học tại xã Tân Thuỷ, Ba Tri, Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 99
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TẨY GIUN CỦA ALBENDAZOLE
Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI XÃ TÂN THUỶ, BA TRI, BẾN TRE
Nguyễn Ngọc Ánh*, Dương Công Thịnh*, Trương Văn Lợi**, Đỗ Tấn Hồng**, Phạm Thị Kim Thoa**,
Trần Thị Xuyến*, Nguyễn Thị Hồng Ân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Albendazole được sử dụng rộng rãi để điều trị giun tròn trên người từ nhiều năm nay. Tuy
nhiên từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y. Từ cơ sở trên
chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tẩy giun của Albendazole ở học sinh tiểu học
tại xã Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre từ tháng 6/2012 đến tháng 12/2012.
Phương pháp: Xét nghiệm định lượng số trứng giun bằng phương pháp Kato-Katz. Các học sinh nhiễm
giun sẽ được điều trị bằng Albendazole 400 mg theo phác đồ của Bộ Y tế. Sau khi uống thuốc 14 ngày, các học
sinh này được xét nghiệm lại để tính các chỉ số đánh giá hiệu quả của thuốc.
Kết quả: Có 709 học sinh của trường tiểu học xã Tân Thủy, Ba Tri, tỉnh Bến Tre được xét nghiệm. Tỷ lệ
nhiễm giun chung là 7,8%, đa số là nhiễm giun móc (77,8%), giun đũa (14,8%), giun tóc (7,4%). Tất cả đều là
đơn nhiễm (100%), cường độ nhiễm (98,1%). Xét nghiệm sau 14 ngày, tỷ lệ sạch trứng đối với giun đũa là
(100%), đối với giun tóc là (100%) và giun móc (98,0%). Trường hợp còn dương tính thì số lượng trứng giun
cũng giảm rất nhiều (83,90%).
Kết luận: Đa số học sinh địa điểm nghiên cứu nhiễm giun móc. Điều trị bằng Albendazole 400 mg theo
phác đồ của Bộ Y tế vẫn có hiệu quả.
Từ khóa: Albendazole / tẩy giun / xã Tân Thuỷ.
ABSTRACT
EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF DEWORMING USING ALBENDAZOLE IN PRIMARY
SCHOOL CHILDREN IN TAN THUY, BA TRI, BEN TRE
Nguyen Ngoc Anh, Duong Cong Thinh, Truong Van Loi, Đo Tan Hong, Pham Thi Kim Thoa,
Tran Thị Xuyen, Nguyen Thi Hong An
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 99 - 104
Background: Albendazole is widely used to treat roundworms in humans for many years. However since
the 90s there are reports on the deworming drug resistance in veterinary we perform this topic to: Assessment of
effectiveness of deworming using albendazole in primary school in Tan Thuy commune, Ba Tri, Ben Tre months
from 6/2012 to 12/2012.
Study objectives: Evaluate effectiveness of deworming of Albendazole in primary school children.
Method: Quantitative tests for number of eggs per gram feces by Kato-Katz method. Worm-infected children
will be treated with Albendazole 400 mg according to the instruction (regime) of the Ministry of Health. 14 days
after treatment, the children would be considered to test the indicators assessing the effectiveness of the drug.
Results: 709 children of primary school in Tan Thuy, Ba Tri, Ben Tre were tested. Worm infection rate is
*: Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. HCM; **: Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh BếnTre
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Ngọc Ánh, ĐT 0912171177; Email: nguyenanhnimpe@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 100
7.8% with majority were hookworm (77.8% positive cases), followed by an Ascaris (14.8%) and Trichuris
(7.4%). All positive cases are monosomy with light intensity of infection (98%), Reassessment was carried out
after 14 days of treatment showed the effect of Albendazole is applicable and effective in eliminate Ascaris (100%),
Trichuris (100%) and hookworm (cure rate: (98.0%). One positive case hookworm is remain after treatment also
showed significantly reducing EPG (83.90%).
Conclusion: Most pupils of primary school in Tan Thuy commune are infected with hookworm. Treatment
with albendazole 400 mg according to the regime of the Ministry of Health is still effective.
Keywords: Albendazole/ deworm/ Tan Thuy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm giun sán là vấn đề sức khỏe của cộng
đồng được nhiều tổ chức trên thế giới quan tâm
vì tính phổ biến và tác hại do bệnh gây ra. Bệnh
thường có ở các nước nhiệt đới, điều kiện kinh
tế khó khăn, môi trường ô nhiễm và tập quán
sinh hoạt (ăn uống, canh tác) của người dân.
Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Trung Ương năm 2011, tỷ lệ nhiễm
giun truyền qua đất ở trẻ 2-5 tuổi có tỷ lệ cao.
Trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm giun đường
ruột nhất. Các loại giun đường ruột phổ biến ở
trẻ em là: giun đũa, giun tóc, giun móc, trong đó
có nhiều trẻ bị nhiễm phối hợp hai hoặc cả ba
loại giun(4).
Từ những năm 90 bắt đầu có các báo cáo về
hiện tượng thuốc tẩy giun bị kháng trong thú y,
mà trong đó có nhóm Benzimidazole, xảy ra
trong chăn nuôi cừu tại Úc, Nam Phi và có thể
tại Nam Mỹ, với tỷ lệ kháng nhiều nơi vượt quá
50% (2). Ở người, cuối những năm 90 cũng đã có
nhiều báo cáo về hiện tượng thuốc giun bị
kháng tại nhiều nước, trong đó có Mebendazole
thuộc nhóm Benzimidazole đối với giun móc(1).
Năm 2011 Viện Sốt rét- KST- CT TP Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu đánh giá hiệu lực của
Albendazole trong điều trị giun tròn tại một số
trường tiểu học của huyện Bù Gia Mập tỉnh
Bình Phước với kết luận: Albendazole còn tác
dụng rất tốt trong điều trị giun tròn.
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam nói
chung, khu vực phía Nam nói riêng
Albendazole được sử dụng rộng rãi để điều trị
giun tròn trên người, liệu rằng Albendazole có
còn nguyên tác dụng với các loại giun tròn
đường ruột hay không? Từ cơ sở trên chúng tôi
tiến hành khảo sát nhằm trả lời câu hỏi: “Hiệu
quả tẩy giun hiện nay của Albendazole ở học
sinh tiểu học như thế nào?”.
Theo điều tra của Viện Sốt rét – KST – CT
TP.Hồ Chí Minh năm 2011 cho thấy: Xã Tân
Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre là vùng có tỷ lệ
nhiễm giun tròn đường ruột cao, nên được chọn
để thực hiện nghiên cứu. Kết quả thu thập được
sẽ cung cấp một số thông tin hữu ích và thực tế
trong điều trị nhiễm giun ở xã Tân Thủy. Hơn
nữa, thông tin này có thể gợi ý điều tra rộng hơn
cho các vùng nhiễm giun tròn khác vì mỗi cộng
đồng có đặc trưng riêng. Qua đó giúp các đơn vị
thực hiện chương trình phòng chống giun sán
lựa chọn chiến luợc sát hợp với từng địa
phương dựa trên khuyến cáo của WHO(5), góp
phần nâng cao sức khỏe và chất lượng sống cho
trẻ em nói riêng và người dân nói chung.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm, thời gian, đối tượng
Địa điểm
Tại trường tiểu học xã Tân Thủy, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre.
Thời gian
Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2012.
Đối tượng
Toàn bộ học sinh tiểu học có độ tuổi từ 6
đến 12 tuổi.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp.
Cỡ mẫu
Tất cả các học sinh của trường đều đươc XN
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 101
phân tìm trứng giun tròn. Cỡ mẫu điều tra được
tính sao cho đợt lấy mẫu phân thứ hai (14 ngày
sau điều trị) sẽ thu được toàn bộ số mẫu phân
dương tính của đợt điều tra ban đầu của học
sinh đã được điều trị trước đó với Albendazole.
Tỷ lệ nhiễm chung của tỉnh Bến Tre qua điều tra
năm 2006 là 25%. Như vậy để có 300 mẫu dương
tính trước khi điều trị sẽ cần điều tra 300*100/25
= 1200 học sinh.
Chọn mẫu
Các học sinh nhiễm bất kỳ một loại giun
tròn nào (giun đũa, giun móc, giun tóc) sẽ được
chọn vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ là có
tiêu chảy ở mẫu phân đầu tiên, hoặc không thể
đưa tiếp mẫu phân thứ hai 14 ngày sau đó, hoặc
đang mắc các bệnh khác cần phải điều trị.
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh
học
Đề cương nghiên cứu được Hội đồng Đạo
đức trong nghiên cứu y sinh học của Viện Sốt
rét - KST-CT TP. HCM thông qua và được cho
phép tiến hành. Các thầy cô giáo, phụ huynh
học sinh và học sinh được thông báo mục đích,
ý nghĩa của nghiên cứu. Qua sổ liên lạc của nhà
trường, phụ huynh ký tên đồng ý cho con em
mình được xét nghiệm và được tẩy giun nếu kết
quả xét nghiệm dương tính. Albendazole đã
được sử dụng rộng rãi qua nhiều năm và cho
thấy rất an toàn khi dùng để tẩy giun với các tác
dụng phụ hầu như không đáng kể, nếu có chỉ là
nhẹ và thoáng qua như nhức đầu, đau bụng.
Nội dung nghiên cứu
Kỹ thuật sử dụng
Mẫu phân của học sinh sẽ được xét
nghiệm trong ngày bằng phương pháp Kato-
Katz và nếu dương tính sẽ đếm số trứng giun
/gram phân. Các học sinh nhiễm giun sẽ được
điều trị bằng albendazole 400 mg theo phác
đồ điều trị của Bộ Y tế ban hành 2009. Mười
bốn ngày sau, các học sinh đã được điều trị
bằng Albendazole nói trên sẽ cung cấp mẫu
phân thứ hai. Mẫu phân này cũng sẽ được xét
nghiệm bằng phương pháp Kato-Katz và đếm
trứng /gram phân nếu dương tính.
Vật liệu, thuốc, hóa chất
Lọ lấy phân, bìa Kato-Katz, lưới lọc phân,
giấy cellophan, lam kính, dung dịch xanh
malachit, máy đếm, thuốc albendazole viên 400
mg. “Phác đồ chẩn đoán và điều trị một số bệnh
giun sán ở Việt Nam” do Bộ Y tế ban hành 2009.
Các thuốc nhóm Pyrimidin: Không có chống
chỉ định.
Kỹ thuật thu thập số liệu
Đếm số trứng giun có trong tiêu bản phân
và nhân với hệ số của bìa Kato-Katz được sử
dụng (x 24) để có số trứng giun trong một gram
phân.
Phương pháp xử lý số liệu
Số trứng giun/gram phân sẽ được tính trung
bình cho từng loại giun, đồng thời phân loại
theo mức độ nhiễm nhẹ, vừa và nặng. Tính tỷ lệ
nhiễm giun chung, tỷ lệ nhiễm đối với từng loài
giun, tỷ lệ đơn nhiễm, đa nhiễm. Đối với thuốc
tẩy giun sẽ tính các chỉ số: tỷ lệ giảm trứng giun,
tỷ lệ sạch trứng để đánh giá hiệu lực của thuốc.
Phần mềm thống kê được dùng là Epidata 3.1
Bảng 1. Mức độ nhiễm cho từng loại giun được quy
định như sau.
Giun Nhiễm nhẹ Nhiễm vừa Nhiễm nặng
Đũa 1-4999 trứng/g* 5000-49999 trứng/g 50000 trứng/g
Tóc 1-999 trứng/g 1000-9999 trứng/g 10000 trứng/g
Móc 1-1999 trứng/g 2000-3999 trứng/g 4000 trứng/g
*trứng/g: số trứng giun trong một gram phân.
Các chỉ số đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy
giun
Các chỉ số đánh giá hiệu lực của thuốc tẩy giun
Tỷ lệ giảm trứng (Egg reduction rate - ERR):
epg t. bình trước điều trị - epg t. bình sau điềutrị.
ERR = --------------------------------------------- x 100%
epg t. bình trước điều trị
Tỷ lệ sạch trứng (Cure rate - CR):
Số cas dương trước điều trị - số cas dương sau điều trị
CR =------------------------------------------------- x 100%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 102
Số cas dương tính trước điều trị
Hiệu lực của thuốc tẩy giun, theo Tổ chức Y
tế Thế giới, được đánh giá qua tỷ lệ sạch trứng
giun (cure rate - CR) như sau (4):
Nếu CR = 0 - 19%: Thuốc không có tác
dụng; 20 - 59 %: Thuốc tác dụng trung bình;
60 - 89 %: Thuốc tác dụng tốt; > 90 %: Thuốc
tác dụng rất tốt.
Thuốc sử dụng và liều dùng
Albendazole 400 mg viên nén do Holden
Medical Laboratories Pvt. Ltd. Sinnar, India sản
xuất, số lô sản xuất HEF22 tháng 6/2010, hạn
dùng đến tháng 5/2013, đã được Tổ chức Y tế
Thế giới kiểm nghiệm chất lượng. Liều dùng
(theo phác đồ trên), nhai kỹ trước khi uống.
KẾT QUẢ
Kết quả mẫu nghiên cứu
Bảng 2. Tỷ lệ thu được mẫu phân theo khối lớp.
Khối lớp
Thu được mẫu phân
Số học sinh
Có(%) Không(%)
Khối 1 135 (74,6%) 46 (25,4%) 181
Khối 2 155 (83,3%) 31 (16,7%) 186
Khối 3 146 (88,5%) 19 (11,5%) 165
Khối 4 166 (79,0%) 44 (21,0%) 210
Khối 5 107 (60,0%) 71 (40,0%) 178
Tổng 709 (77,1%) 211 (22,9%) 920
Tỷ lệ thu được mẫu phân đạt khá cao 77,1%.
Bảng 3: Tỷ lệ xét nghiệm dương tính với trứng giun.
Khối lớp
Kết quả xét nghiệm Số xét
nghiệm Dương tính (%) Âm tính(%)
Khối 1 9 (6,7%) 126 (93,3%) 135
Khối 2 5 (3,2%) 150 (96,7%) 155
Khối 3 8 (5,5%) 138 (94,5%) 146
Khối 4 21 (12,7%) 145 (87,3%) 166
Khối 5 12 (11,2%) 95 (88,8%) 107
Tổng 55 (7,8%) 654 (92,2%) 709
Bảng 4.Tỷ lệ nhiễm từng loại giun.
Nhiễm
Kết quả xét nghiệm Số xét
nghiệm Dương tính (%) Âm tính(%)
Giunđũa 8 (1,1%) 701 (98,9%) 709
Giuntóc 4 (0,6%) 705 (99,4%) 709
Giunmóc 42 (5,9%) 667 (94,1%) 709
Nhận xét: Giun móc chiếm đa số các trường
hợp (77,8%), đến giun đũa (14,8%), giun tóc
(7,4%). Ngoài ra còn phát hiện được 1 trường
hợp nhiễm giun kim (0,14%).
Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm
Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng
giun trong phân đều là đơn nhiễm.
Bảng 5. Cường độ nhiễm trứng giun (số trứng giun
/g phân - epg).
Nhiễm Số trường
hợp
Epg tối
thiểu
Epg tối
đa
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giun đũa 8 24 48 33,00 11,62
Giun tóc 4 24 168 60,00 62,35
Giun móc 42 24 9384 383,86 743,88
Bảng 6.Mức độ nhiễm cho từng loại giun (số trường
hợp).
Giun Nhiễm nhẹ Nhiễm vừa Nhiễm nặng Tổng
Đũa 8 00 00 8
Tóc 4 00 00 4
Móc 41 00 01 42
- Các trường hợp nhiễm giun chủ yếu là
nhiễm nhẹ (98,1%).
- Một trường hợp nhiễm nặng với giun móc
chiếm 1,9%.
So sánh kết quả trước và sau điều trị
Bảng7. Kết quả xét nghiệm lại sau khi điều trị 02
tuần (ở các trường hợp dương tính lần đầu với giun
đũa, giun tóc và giun móc).
Nhiễm
Trước điều trị Sau điều trị 14 ngày Tỷ lệ
sạch
trứng
(CR) %
Số trường hợp
(+) Số trường hợp (+)
Giun đũa 8 00 100,0
Giun tóc 4 00 100,0
Giun móc 42 01 98,00
Tổng 54 01
Nhận xét: Tỷ lệ sạch trứng (cure rate - CR)
trên, tác dụng của albendazole là rất tốt đối với
giun đũa, giun tóc, giun móc. 1 trường hợp
nhiễm giun kim được phát hiện, sau khi cho
uống thuốc và xét nghiệm lại thì không thấy
trứng giun kim nữa, nhưng không tính tỷ lệ
sạch trứng của albendazole đối với giun kim vì
kỹ thuật Kato-Katz không thích hợp để phát
hiện trứng giun kim.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 103
Bảng 8. Số trứng giun trung bình/g phân (epg) ở các
trường hợp chưa sạch trứng.
Nhiễm Epg trước
điều trị
Epg sau điều
trị
Tỷ lệ giảm trứng
(ERR) %
Giun móc 744 120 83,90
BÀN LUẬN
Tỷ lệ thu được mẫu phân tương đối cao
(77%). Do có sự chuẩn bị tốt về công tác triển
khai thực hiện đề tài, tuyên truyền, đặc biệt là có
sự phối tốt giữa y tế, nhà trường và phụ huynh
học sinh, các thầy cô giáo đã nhiệt tình phối hợp
với đoàn nghiên cứu, triển khai thực hiện đúng
tiến độ đề tài do đó công việc nghiên cứu đã
diễn ra như mong muốn.
Với 709 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ dương tính
với trứng giun là 7,8%, thấp hơn rất nhiều so với
tỷ lệ 37,9% của điều tra toàn quốc năm 2006 của
các Viện SR-KST-CT Trung ương và khu vực(4).
Có thể do sau thời điểm này, việc điều trị định
kỳ hàng năm cho các học sinh tiểu học được tiến
hành rộng rãi nên đã góp phần hạ tỷ lệ nhiễm
giun ở các đối tượng này.
Trong số các loại giun phát hiện, giun móc
chiếm đa số (77,8%), kế đến là giun đũa
(14,8%), giun tóc 7,4%. So với các khảo sát
trước đây tại các tỉnh thuộc khu vực phía
Nam là thứ tự các loài giun bị nhiễm nhiều là
giun móc, giun tóc, và sau cùng là giun đũa.
Tuy nhiên tại khảo sát này tỷ lệ nhiễm giun
đũa đứng thứ 2 sau giun móc.
Trong 55 trường hợp xét nghiệm thấy trứng
giun trong phân đều là đơn nhiễm. Tuy nhiên vì
nhiễm giun móc chiếm đa số, kế đến là nhiễm
giun đũa, là hai loài giun gây thiếu máu, thiếu
chất dinh dưỡng nên hậu quả của nhiễm giun
cũng nặng nề hơn.
Đa số các trường hợp dương tính có cường
độ nhiễm nhẹ (98,1%), thể hiện qua số trứng
giun trung bình trong một gram phân, nhưng
không vì thế mà coi nhẹ tình hình nhiễm, vì số
lượng trứng giun/g phân không phản ảnh trung
thực mức độ nhiễm do chỉ có giun cái mới đẻ
trứng và đẻ không đều, những con giun đực có
mặt và không phát hiện được cũng gây tác hại
không kém.
Tác dụng của thuốc, thể hiện qua tỷ lệ làm
sạch trứng giun là rất tốt đối với đối với tất cả
các loài giun trên. Phát hiện của nghiên cứu này
cũng phù hợp với các đánh giá trong y văn. Đối
với 01 trường hợp chưa sạch trứng giun, thì tỷ lệ
giảm trứng giun do tác dụng của thuốc là rất
cao (83,90%). Như vậy, dù không khỏi bệnh thì
tác hại của việc nhiễm giun cũng đã giảm nhẹ
rất nhiều. Phác đồ điều trị dùng là ba viên mỗi
ngày uống 1 viên trong ba ngày liên tiếp (đối
với giun móc, giun tóc) tác dụng của thuốc cao
hơn so với phác đồ điều trị 1 ngày.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này, tỷ lệ nhiễm giun của
các học sinh tiểu học ở Tân Thủy, Ba Tri, Bến Tre
là thấp, cường độ nhiễm nhẹ. Nhưng vì nhiễm
giun móc chiếm đa số (77,8%).
Tác dụng của Albendazole 400 mg liều dùng
ba viên, mỗi ngày uống 1 viên trong ba ngày
liên tiếp (đối với giun móc). Đã đáp ứng điều trị
tốt với tất cả các loài giun trên. Một trường hợp
chưa sạch trứng giun thì số lượng trứng cũng đã
giảm rất nhiều dưới tác dụng của thuốc.
Nghiên cứu này cho thấy phác đồ điều trị
theo ca bệnh mang lại hiệu quả và ít tốn kém so
với điều trị cộng đồng. Điều này cũng phù hợp
với khuyến cáo của WHO những vùng có tỷ lệ
nhiễm < 30% nên điều trị theo ca bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adugna S, Y Kebede, Moges F, Tiruneh M(2007). Efficacy of
mebendazole and albendazole for Ascaris lumbricoides and
hookworm infections in an area with long time exposure for
antihelminthes, Northwest Ethiopia. Department of
Biochemistry, College of Medicine and Health Sciences,
University of Gondar, PO Box 1391, Gondar, Ethiopia;45(3):301-
6.
2. Geerts S. and Gryseels B (2000), “Drug Resistance in Human
Helminths: Current Situation and Lessons from
Livestock”,Clinical Microbiology Reviews, Apr. 2000, p. 207-222.
3. Geerts S. and Gryseels B. (2001), “Anthelmintic resistance in
human helminths: a review”,Tropical Medicine and International
Health,Vol 6 no. 11: 915-921, Nov 2001.
4. Nguyễn Mạnh Hùng, Đỗ Trung Dũng. Viện Sốt rét-KST-CT TƯ
(2011), Hội nghị tổng kết công tác PCSR và giun sán 2006-2010,
triển khai kế hoạch năm 2011,HàNội, tr 8-9.
5. World Health Organization (1996), Report of the WHO informal
consultation on the use of chemotherapy for the control of
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 104
morbidity due to soil-transmitted nematodes in humans. WHO/CTD/SIP/96.2. 29 April to 1 May 1996.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_tay_giun_cua_albendazole_o_hoc_sinh_tieu_h.pdf