Đánh giá in vitro vi kẽ phục hồi xoang loại II sử dụng Inlay Cerec

Ý nghĩa thực tiễn và ứng dụng lâm sàng Hệ thống CEREC 2 là hệ thống gia công tự động nhiều loại phục hồi nha khoa khác nhau. Nhiều nghiên cứu được tiến hành trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng đã khẳng định phục hồi của hệ thống CEREC có kết quả tốt về thẩm mỹ và chức năng. Mặt khác, vật liệu sứ dùng trong hệ thống CEREC, đặc biệt Vita Blocs Mark II có nhiều đặc tính tốt: dễ mài, dễ đánh bóng, thẩm mỹ, khung feldspar dễ xoi mòn giúp cho việc dán có hiệu quả, khả năng chịu nén cao, không bị mài mòn và không làm mòn răng đối diện. Ưu điểm nổi bật của hệ thống CEREC là thực hiện được các phục hồi đạt chất lượng cao chỉ trong một lần hẹn. Khi sử dụng hai loại vật liệu là Calibra (composite lưỡng trùng hợp) và xi-măng Fuji Plus (resin-modified glass ionomer hóa trùng hợp) để gắn/dán inlay xoang loại II của hệ thống CEREC 2, các phục hồi đạt được sự tiếp hợp bờ khá tốt ở cả hai nhóm, đặc biệt ở nhóm I với vật liệu gắn dán là Calibra, tỷ lệ phục hồi hoàn toàn không có vi kẽ đạt tới 80%. Như vậy, có thể nhận thấy inlay CEREC có chất lượng đáng tin cậy, đặc biệt khi sử dụng vật liệu gắn/dán thích hợp, inlay CEREC đạt độ tiếp hợp bờ rất cao và điều này có thể mang lại kết quả khả quan trên lâm sàng. Thử nghiệm bước đầu cho thấy việc áp dụng hệ thống CEREC 2 để chế tạo nhanh các phục hồi nha khoa thẩm mỹ, giúp tiết kiệm thời gian và sức lao động là giải pháp khả thi và có ý nghĩa thiết thực.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá in vitro vi kẽ phục hồi xoang loại II sử dụng Inlay Cerec, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 94 ĐÁNH GIÁ IN VITRO VI KẼ PHỤC HỒI XOANG LOẠI II SỬ DỤNG INLAY CEREC Võ Văn Nhân*, Hoàng Đạo Bảo Trâm*, Hoàng Tử Hùng* TÓM TẮT Mục tiêu: Thử nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá in vitro vi kẽ của phục hồi xoang loại II sử dụng inlay CEREC, với hai loại vật liệu gắn/dán khác nhau. Đối tượng và phương pháp: Hai mươi inlay CEREC được tạo tương ứng với các xoang loại II đã sửa soạn trên các răng cối lớn vĩnh viễn không sâu mới nhổ. Inlay được gắn bằng hai loại vật liệu gắn/dán khác nhau là composite lưỡng trùng hợp Calibra (nhóm I) và xi-măng resin-modified glass ionomer hóa trùng hợp Fuji Plus (nhóm II). Điều kiện thử thách của thử nghiệm là chu trình nhiệt (100 chu kỳ, 50C - 550C). Mức độ thâm nhập chất màu dọc thành nướu được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 3 dưới kính hiển vi nổi với độ phóng đại 30 lần. Kết quả: Inlay CEREC gắn bằng Calibra có chất lượng tiếp hợp bờ tốt (80% phục hồi hoàn toàn không có vi kẽ), trong khi đó inlay CEREC gắn bằng xi-măng Fuji Plus thể hiện vi kẽ ở những mức độ khác nhau (60% độ 1, 30% độ 2, 10% độ 3). Kết luận: Phục hồi inlay CEREC có chất lượng tiếp hợp bờ tốt, composite lưỡng trùng hợp là một vật liệu gắn/dán thích hợp đối với phục hồi inlay CEREC. Từ khóa: inlay CEREC, xoang loại II, vi kẽ. ABSTRACT MICROLEAKAGE OF CLASS II RESTORATIONS USING CEREC INLAY: AN IN VITRO STUDY Vo Van Nhan, Hoang Dao Bao Tram, Hoang Tu Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 94- 98 Objective: The aim of the study was to evaluate in vitro microleakage of Class II restorations using CEREC inlay with different luting cements. Materials and method: Twenty Class II cavities were prepared on freshly extracted non-carious permanent molars and customized CEREC inlays were fabricated. All specimens were randomly divided into two groups and two different materials (Calibra, dual cure composite - group I; and Fuji Plus, resin-modified glass ionomer - group II) were used for luting inlays. After passing 100 thermocycles of 50C and 550C, specimens were isolated with sticky wax and nail polish except the restoration surface with an extent of 1mm around its margin then immersed in 2% methylene blue for 12 hours. Specimens were embedded in transparent acrylic resin and sectioned mesiodistally through the center of the restorations. The extent of dye penetration along the gingival wall was assessed under stereomicroscope with a magnification of 30 following a grade scale from 0 to 3. Results: 80% restorations of group I showed excellent marginal adaptation at the gingival wall while there were different levels of microleakage in group II; there was a significant difference of microleakage level between two groups (p<0.05). Conclusion: CEREC inlays may achieve high quality of marginal adaptation, especially with dual cure composite as lutting material. *: Khoa RHM - Đại học Y Dược TP HCM Tác giả liên lạc: TS. Hoàng Đạo Bảo Trâm ĐT: 0917512242, Email: hdbtram@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 95 Key words: CEREC inlay, Class II restoration, microleakage . ĐẶT VẤN ĐỀ Sự phát triển của máy tính và kỹ thuật điều khiển tự động là cơ sở cho cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong y khoa hiện đại nói chung và nha khoa hiện đại nói riêng. Công nghệ CAD/CAM đã làm thay đổi nhanh chóng cách thức thực hành nha khoa. Đặc biệt nhờ phương pháp chế tạo tự động phục hồi nha khoa, việc điều trị có thể được hoàn tất chỉ trong một lần hẹn. Với mong muốn áp dụng kỹ thuật mới, tìm thêm những khả năng và mở rộng sự lựa chọn cho bác sỹ và bệnh nhân để đạt được những phục hồi có chất lượng cao đồng thời rút ngắn được thời gian điều trị, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này nhằm đánh giá in vitro vi kẽ thành nướu của inlay CEREC, sử dụng hai loại vật liệu gắn/dán khác nhau là Calibra (composite lưỡng trùng hợp) và xi-măng Fuji Plus (xi-măng resin-modified glass ionomer hóa trùng hợp). PHƯƠNG TIỆN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương tiện Hệ thống CEREC 2 Vật liệu gắn/dán: Nhóm I: Calibra (composite lưỡng trùng hợp) (Dentsply). Nhóm II: Fuji Plus (resin-modified glass ionomer) (GC). Phương pháp nghiên cứu Thử nghiệm được thực hiện trên 20 răng cối vĩnh viễn của người, bị nhổ không vì lý do sâu răng hay tổn thương mất chất khác. Răng còn nguyên vẹn, đã đóng chóp. Tạo xoang inlay: Các răng được cố định trên mẫu hàm. Các xoang inlay MO được tạo theo tiêu chuẩn: độ sâu sàn xoang từ 2-3mm, thành nướu và thành tủy phẳng, các thành khác song song và vuông góc với thành nướu, thành trục thẳng, không cong lồi theo hình dáng bên ngoài của răng, không vát bờ men ở các thành. Tạo phục hồi bằng hệ thống CEREC Thu thập dữ liệu răng đã sửa soạn bằng camera Xoang inlay được rửa sạch và thổi khô, phủ keo và một lớp mỏng bột CEREC lên toàn bộ xoang và răng kế cận. Hình ảnh ba chiều của xoang inlay được ghi nhận bằng camera theo hướng sao cho góc nhìn của camera trùng với hướng lắp inlay, và xoang inlay trên màn hình đảm bảo các tiêu chuẩn: rõ nét, tương phản tốt, các thành được nhìn thấy rõ ràng, và nằm ngay ngắn giữa màn hình. Thiết kế phục hồi Qui trình thiết kế inlay được thực hiện theo các lệnh được thông báo trên màn hình: Vẽ đường đáy, hệ thống tự động thiết kế đường bề mặt, đường tiếp xúc phía bên, vẽ đường trũng giữa, hệ thống tự động thiết kế đường gờ bên. Mài phục hồi Chọn khối sứ có kích thước thích hợp theo thông báo trên màn hình cho vào máy mài. Chọn lệnh mài. Sau khi các xoang inlay và inlay đã được sửa soạn xong. Các mẫu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm, mỗi nhóm 10 răng: nhóm I được gắn inlay bằng Calibra và nhóm II bằng Fuji Plus. Chu trình nhiệt Các mẫu đều trải qua 100 chu kỳ nhiệt, mỗi chu kỳ kéo dài 1 phút, nhiệt độ thay đổi giữa 50C và 550C (thời gian ở mỗi điều kiện trong mỗi chu kỳ là 25 giây). Làm tiêu bản Cách ly: Bít kín phần chóp chân răng bằng sáp dính. Phủ một lớp sơn bóng chống thấm lên toàn bộ bề mặt răng, trừ một “cửa sổ” là bề mặt phục hồi và mở rộng ra 1mm xung quanh bờ phục hồi. Nhuộm màu vi kẽ: Mẫu được ngâm trong dung dịch xanh methylene 2% trong 12 giờ ở Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 96 nhiệt độ 250C. Sau đó mẫu được làm sạch, làm khô, bao nhựa trong. Mẫu được cắt qua trung tâm phục hồi theo mặt phẳng qua trục răng và theo chiều gần xa bằng đĩa kim cương mỏng có nước làm mát. Đánh giá vi kẽ Mức độ thâm nhập chất màu được đánh giá dưới kính hiển vi nổi với độ phóng đại 30 lần, bởi hai quan sát viên độc lập, theo thang điểm: 0: không thấy chất màu ở thành nướu. 1: chất màu thâm nhập chưa quá một nửa chiều dài thành nướu. 2: chất màu thâm nhập quá một nửa chiều dài thành nướu. 3: chất màu thâm nhập toàn bộ thành nướu và lan tới thành trục. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Nhóm I: 8 phục hồi không có thâm nhập chất màu và 2 phục hồi có chất màu thâm nhập đến thành trục (độ 3). Nhóm II: 6 phục hồi có chất màu thâm nhập chưa tới một nửa chiều dài thành nướu (độ 1), 3 phục hồi có chất màu thâm nhập quá nửa chiều dài thành nướu (độ 2) và 1 phục hồi có chất màu đến thành trục (độ 3). Bảng 1: Độ vi kẽ ở hai nhóm thử nghiệm Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3 Nhóm I 8 0 0 2 10 Nhóm II 0 6 3 1 10 8 6 3 3 20 Sử dụng phép kiểm định tổng xếp hạng Mann-Whitney cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mức độ thâm nhập chất màu ở thành nướu trong hai nhóm thử nghiệm (p<0,05). Thử nghiệm sử dụng hệ thống CEREC 2, với phần mềm Cos 4.31, là một hệ thống cho phép tạo ra nhiều loại phục hồi chính xác (như inlay, onlay, mão răng trước, răng sau, veneer laminate), đặc biệt có thể chế tạo phục hồi có mặt nhai chức năng. Hệ thống CEREC 2 chế tạo phục hồi hoàn toàn tự động, với số lần hẹn bệnh nhân và thời gian thực hiện phục hồi ít hơn so với hệ thống cổ điển. Với kỹ thuật này, toàn bộ tiến trình từ sửa soạn xoang đến gắn phục hồi có thể hoàn tất chỉ trong một lần hẹn, bỏ qua các giai đoạn như lấy dấu, đổ mẫu, làm phục hồi tạm, cũng như các giai đoạn trong labo. Hệ thống CEREC cũng có thể được sử dụng gián tiếp. Các bộ điểm màu cho phép tạo màu đặc trưng cho từng phục hồi, khắc phục được hạn chế về màu sắc làm sẵn của khối sứ. Kết quả thử nghiệm cho thấy inlay CEREC gắn bằng Calibra có chất lượng tiếp hợp bờ tốt (80% phục hồi hoàn toàn không có vi kẽ), trong khi đó inlay CEREC gắn bằng xi-măng Fuji Plus thể hiện vi kẽ ở những mức độ khác nhau: 60% độ 1, 30% độ 2, và 10% độ 3. MÖrmann thấy rằng sử dụng composite quang trùng hợp (Heliomolar) để gắn inlay CEREC cho kết quả tốt, và inlay CEREC được gắn bằng composite lưỡng trùng hợp có chất lượng tiếp hợp bờ tốt hơn so với inlay được gắn bằng các thế hệ composite trước đó, thành phần hóa trùng hợp giúp composite cải thiện mức độ trùng hợp ở những vùng mà ánh sáng trùng hợp bị cản trở(2). So sánh độ bền gắn của các loại xi măng: glass ionomer, resin-modified glass ionomer, composite lưỡng trùng hợp trên phục hồi toàn sứ tạo ra từ hệ thống CAD/CAM, De Boer kết luận rằng glass ionomer không phù hợp để gắn phục hồi toàn sứ của hệ thống CAD/CAM, composite lưỡng trùng hợp có độ bền dán tốt nhất. Khi so sánh độ bền dán của xi-măng glass ionomer và xi-măng resin-modified glass ionomer dùng gắn phục hồi sứ, Vallittu và cộng sự đã kết luận: tỷ lệ bong dán cao ở nhóm sử dụng xi-măng glass ionomer, trong khi không có sự bong dán trong nhóm sử dụng xi-măng resin-modified glass ionomer gắn phục hồi xử lý silane(4). Zuellig-Singer R và cộng sự thực hiện nghiên cứu đánh giá sau 3 năm chất lượng tiếp hợp bờ của phục hồi inlay CEREC, sử dụng các Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 97 vật liệu gắn: composite hạt độn nhỏ đồng nhất, composite lai hạt độn nhỏ, composite lai hạt độn thô, xi-măng glass ionomer. Các tác giả kết luận: Bờ nhai của inlay CEREC đạt mức độ tiếp hợp tốt và ổn định trong 3 năm. Nhựa composite hạt độn nhỏ có độ kháng mài mòn tốt hơn so với composite lai và glass ionomer(5). Trong một nghiên cứu in vitro sử dụng chu trình nhiệt và chu trình lực, Schmalz và cộng sự nhận thấy có mối tương quan thuận giữa mức độ vi kẽ và độ dày xi-măng gắn khi đánh giá trên inlay composite, trong khi không thấy mối tương quan này ở inlay CEREC. Tuy nhiên, khi đánh giá in vitro chất lượng bờ nướu của phục hồi CEREC xoang loại II, áp dụng hai tiêu chuẩn: 1- độ nguyên vẹn của bề mặt phục hồi (phân tích dưới kính hiển vi điện tử, trước và sau chu trình nhiệt và chu trình lực, và 2- độ bền dán của phục hồi (quan sát mức độ thâm nhập chất màu, sau chu trình nhiệt và chu trình lực), các tác giả nhận định rằng chất lượng bờ phục hồi ảnh hưởng bởi độ dày của vật liệu gắn. Với độ dày của vật liệu gắn đạt 100μm, tỷ lệ thất bại của việc gắn/dán là 3% -14%. Khi vật liệu gắn có độ dày lớn hơn 100μm, sự bù đắp của composite gắn không hoàn chỉnh(3). Tóm lại, có thể thấy rằng yếu tố chính ảnh hưởng chất lượng dán bờ phục hồi là sự chọn lựa vật liệu gắn/dán, vật liệu tạo phục hồi, độ khít sát giữa phục hồi và mô răng. Qua nghiên cứu trên nhiều loại vật liệu gắn khác nhau, các tác giả đều đi đến nhận định: composite hạt độn nhỏ lưỡng trùng hợp được sử dụng như là vật liệu gắn đối với phục hồi CEREC tỏ ra có hiệu quả hơn so với các vật liệu lai và xi-măng glass iomomer. Ý nghĩa thực tiễn và ứng dụng lâm sàng Hệ thống CEREC 2 là hệ thống gia công tự động nhiều loại phục hồi nha khoa khác nhau. Nhiều nghiên cứu được tiến hành trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng đã khẳng định phục hồi của hệ thống CEREC có kết quả tốt về thẩm mỹ và chức năng. Mặt khác, vật liệu sứ dùng trong hệ thống CEREC, đặc biệt Vita Blocs Mark II có nhiều đặc tính tốt: dễ mài, dễ đánh bóng, thẩm mỹ, khung feldspar dễ xoi mòn giúp cho việc dán có hiệu quả, khả năng chịu nén cao, không bị mài mòn và không làm mòn răng đối diện. Ưu điểm nổi bật của hệ thống CEREC là thực hiện được các phục hồi đạt chất lượng cao chỉ trong một lần hẹn. Khi sử dụng hai loại vật liệu là Calibra (composite lưỡng trùng hợp) và xi-măng Fuji Plus (resin-modified glass ionomer hóa trùng hợp) để gắn/dán inlay xoang loại II của hệ thống CEREC 2, các phục hồi đạt được sự tiếp hợp bờ khá tốt ở cả hai nhóm, đặc biệt ở nhóm I với vật liệu gắn dán là Calibra, tỷ lệ phục hồi hoàn toàn không có vi kẽ đạt tới 80%. Như vậy, có thể nhận thấy inlay CEREC có chất lượng đáng tin cậy, đặc biệt khi sử dụng vật liệu gắn/dán thích hợp, inlay CEREC đạt độ tiếp hợp bờ rất cao và điều này có thể mang lại kết quả khả quan trên lâm sàng. Thử nghiệm bước đầu cho thấy việc áp dụng hệ thống CEREC 2 để chế tạo nhanh các phục hồi nha khoa thẩm mỹ, giúp tiết kiệm thời gian và sức lao động là giải pháp khả thi và có ý nghĩa thiết thực. KẾT LUẬN Trong khuôn khổ thử nghiệm, có thể đưa ra một số nhận định sau: 1. Các hệ thống CAD / CAM nha khoa ra đời đánh dấu một bước phát triển mới trong kỹ thuật nha khoa hiện đại. Phục hồi inlay CEREC thực hiện trong một lần hẹn có thể cho kết quả tốt. 2. Sử dụng composite lưỡng trùng hợp Calibra cho chất lượng tiếp hợp bờ cao hơn so với sử dụng xi-măng resin-modified glass ionomer hóa trùng hợp Fuji Plus, composite lưỡng trùng hợp là một vật liệu gắn/dán thích hợp đối với phục hồi inlay CEREC. Ý nghĩa ứng dụng: Ứng dụng hệ thống CEREC 2 trong việc tạo nhanh inlay, onlay trong nha khoa là một giải pháp khả thi, đáp ứng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 98 được yêu cầu thẩm mỹ và chức năng, đồng thời có thể hoàn tất được công việc điều trị trong một lần hẹn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. De Boer HD et al (2001). Bond strength of luting cements to synthoceram ceramic. 79th general session & exhibition of the IADR - chiba. 2. Mormann WH et al (1990). CAD-CAM ceramic inlays and onlays: a case report after 3 years in place. JADA May: 517 – 520. 3. Schmalz G et al (1995) Effect of dimension of luting space and luting composite on marginal adaptation of a class II ceramic inlay. J-Prosthet-Dent. Apr; 73(4): 392-9. 4. Vallittu PK et al (1997). A study of bonding glass polyalkenoate cement to the surface of dental ceramic material. Int-Dent-J Feb; 47(1): 53-8. 5. Zuellig-Singer R et al (1998). Three-year evaluation of computer-machined ceramic inlays: influence of luting agent. Quintessence-Int Sep; 29(9): 573-82.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_in_vitro_vi_ke_phuc_hoi_xoang_loai_ii_su_dung_inlay.pdf
Tài liệu liên quan