Trong nghiên cứu này, 3 bệnh nhân (14,3%)
bị bí tiểu sau phẫu thuật, được xác định bởi tiêu
chuẩn sau: bí tiểu cấp hoặc nước tiểu tồn lưu đo
được qua siêu âm > 200 ml. Tỉ lệ này cao hơn so
với một số nghiên cứu khác, tỉ lệ bí tiểu và rối
loạn đi tiểu sau phẫu thuật trong khoảng 2.3–
10%(6,7,8,13), có thể tiêu chuẩn bí tiểu mà chúng tôi
đưa ra hơi khắt khe. Tuy nhiên vì số lượng bệnh
nhân không nhiều nên cần có một nghiên cứu
với cỡ mẫu lớn hơn để xác nhận kết quả này. Bí
tiểu và rối loạn đi tiểu sau phẫu thuật gây khổ sở
cho bệnh nhân và làm giảm chất lượng cuộc
sống. Trong nghiên cứu của Klutke(4), bí tiểu > 1
tuần chiếm tỉ lệ 2,8% được xem là biến chứng
của phẫu thuật. Chúng tôi có 2 trường hợp; 1
trường hợp (4,8%) bí tiểu kéo dài > 2 tuần phải
đặt thông tiểu sạch ngắt quảng và 1 trường hợp
tiểu khó trong 3 tháng đầu sau phẫu thuật.
Trong khi phẫu thuật có 3 bệnh nhân bị
thủng bàng quang chiếm tỉ lệ 14,3%. Tỉ lệ này
cao hơn các nghiên cứu khác, khoảng 0–6%(7,9,11).
Chúng tôi nhận thấy biến chứng này có thể
phòng ngừa được bằng các biện pháp đơn giản
sau: làm trống bàng quang, dùng que dẫn luồn
trong thông tiểu đẩy lệch cổ bàng quang về phía
đối diện và quan trọng hơn hết là đưa kim từ
thành trước âm đạo hướng theo đường nách
giữa sát bờ dưới xương mu.
Biến chứng muộn (sau 3 tháng) có thể gặp
bao gồm: khó chịu dai dẵng trên xương mu và lộ
dải băng ở vết mổ thành trước âm đạo làm giảm
chất lượng cuộc sống bệnh nhân(7). Chúng tôi
chưa gặp những biến chứng này trong nghiên
cứu hiện tại.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 157 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả ban đầu điều trị tiểu không kiểm soát ở phụ nữ bằng băng nâng niệu đạo kiểu TVT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 1
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐẦU ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT
Ở PHỤ NỮ BẰNG BĂNG NÂNG NIỆU ĐẠO KIỂU TVT
Nguyễn Tân Cương*, Từ Thành Trí Dũng*, Trần Lê Linh Phương*, Vũ Hồng Thịnh**,
Nguyễn Hoàng Đức**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu áp dụng phẫu thuật đặt băng nâng niệu đạo trong điều trị tiểu không
kiểm soát khi gắng sức
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Có 21 bệnh nhân được điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức
bằng phẫu thuật đặt băng nâng niệu đạo kiểu TVT. Nghiên cứu tiến cứu, mô tả và phân tích hiệu quả phẫu thuật
và các biến chứng.
Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình khoảng 60 phút và thời gian nằm viện trung bình là 1,3 ngày. Tỉ
lệ khỏi bệnh là 90,5%, tỉ lệ cải thiện triệu chứng và thất bại là 4,8%. Biến chứng trong phẫu thuật gồm: 3 trường
hợp (14,3%) thủng bàng quang, 1 trường hợp (4,8%) mất máu > 300 ml. Biến chứng nhẹ gồm: 2 trường hợp
(9,5%) bí tiểu dưới 48 giờ được đặt thông tiểu lưu và 1 trường hợp (4,8%) bí tiểu kéo dài trên 2 tuần được đặt
thông tiểu sạch ngắt quảng. Không có bệnh nhân nào có biến chứng muộn sau phẫu thuật 3 tháng. Hầu hết các
biến chứng có thể điều trị khỏi bằng nội khoa.
Kết luận: Với tỉ lệ thành công cao, phẫu thuật TVT là phẫu thuật ít xâm hại, hiệu quả và an toàn trong điều
trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ.
ABSTRACT
TREATMENT OF STRESS URINARY INCONTINENCE: THE INITIAL OUTCOME OF TVT
PROCEDURE
Nguyen Tan Cuong, Tu Thanh Tri Dung, Tran Le Linh Phưong, Vu Hong Thinh,
Nguyen Hoang Đuc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 205 - 209
Objective: We report the initial outcomes of tension-free vaginal tape (TVT) surgery, a minimally invasive
alternative for treating patients with stress urinary incontinence, at University Medical Center, and to evaluate
the effectiveness in the management of this procedure.
Patients and methods: In all, 21 patients who had a TVT procedure were reviewed prospectively. Cure rate
and complications during and after surgery were analysed.
Results: Twenty-one SUI patients were treated with TVT procedure. The mean operation time was about 1
hour and the mean hospitalization was 1.3 days. The cure rate was 90.5%, both of the improvement and failure
were 4.8%. Complications during surgery included bladder perforation in 3 patients (14.3%) and blood loss >300
mL in only 1patient (4.3%). Immediate complications after surgery were urinary retention (>24 h after) in 2
patients (9.5%) treated with an indwelling catheter and prolonged retention over 2 weeks in 1 patient (4.8%)
treated with clean intermittent catheterization. No patient had the complications after 3 months. Most of these
complications resolved with observation and medical management.
Conclusion: With the high success rates reported previously the TVT procedure remains a minimally
invasive, effective and safe technique for treating female SUI.
∗ Phân môn Niệu – Bộ môn Ngoại – Đại học Y Dược TPHCM
∗∗ Phân khoa Niệu – Bệnh viện Đại học Y Dược
Chuyên Đề Ngoại Khoa 2
MỞ ĐẦU
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức là bệnh
phổ biến ở phụ nữ, chiếm 10 – 20 % dân số(3).
Trên Y văn có trên 150 phẫu thuật khác nhau
điều trị bệnh này, cho thấy cơ chế bệnh sinh
vẫn chưa được hiểu một cách toàn vẹn và
không có điều trị chuẩn mang tính tham khảo.
Điều này thực sự gây khó khăn cho bác sĩ khi
ra quyết định chọn lựa phẫu thuật điều trị cho
bệnh nhân.
Dựa trên lý thuyết của DeLancey(1) về sinh
bệnh học của tiểu không kiểm soát ở phụ nữ và
những khảo sát thực nghiệm, Ulmsten và cộng
sự(12) đã phát triển phẫu thuật đặt băng nâng
niệu đạo, một loại phẫu thuật trong ngày để
điều trị bệnh này. Trong phẫu thuật này, một dải
băng làm bằng polypropylene được dùng để tái
tạo lại thành phần nâng đỡ niệu đạo. Từ khi
được áp dụng trong điều trị, nhiều nghiên cứu
cho thấy tính hiệu quả hứa hẹn với tỉ lệ chữa
khỏi bệnh lên đến trên 85%-92%(2,7,8,9). Kết quả
khả quan này làm gia tăng một cách đáng kinh
ngạc trong việc áp dụng phẫu thuật TVT điều trị
tiểu không kiểm soát khi gắng sức.
Tại nước ta, phẫu thuật này chỉ mới được áp
dụng trong những năm gần đây. Trước mắt tuy
có nhiểu ưu điểm nhưng chưa có nhiều công
trình nghiên cứu đánh giá về tính an toàn và
hiệu quả của phẫu thuật này. Đề tài này báo cáo
kết quả ban đẩu của chúng tôi áp dụng phẫu
thuật TVT tại bệnh viện Đại Học Y Dược Tp.
HCM trong khoảng thời gian gần đây.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiền cứu mô tả tất cả bệnh nhân
nữ được phẫu thuật đặt băng nâng đỡ niệu đạo
kiểu TVT điều trị tiểu không kiểm soát tại bệnh
viện Đại Học Y Dược Tp. HCM từ tháng 01/2007
– tháng 10/2008. Các thông tin thu thập gồm:
tuổi bệnh nhân, bệnh sử niệu – phụ khoa, số lần
sinh, phẫu thuật điều trị tiểu không kiểm soát
hoặc phẫu thuật sàn chậu trước đó, bệnh lý kết
hợp, số lượng băng vệ sinh sử dụng trong ngày.
Triệu chứng đường tiểu dưới cũng được ghi
nhận và thăm khám lâm sàng để đánh giá các
bệnh lý sa sàn chậu kết hợp cũng như sự tăng
động của niệu đạo.
Phẫu thuật TVT: bệnh nhân được gây tê tủy
sống và nằm tư thế sản phụ khoa. Chúng tôi
dùng bộ Gynecare TVT của Johnson & Johnson
bao gồm: 1 dải băng polypropylene cố định hai
đầu vào hai kim được gắn vào 1 tay cầm. Sau
mỗi lần đưa kim TVT từ thành trước âm đạo lên
trên xương mu, chúng tôi soi bàng quang kiểm
tra. Sau đó, chúng tôi cho bệnh nhân ho ở dung
tích bàng quang 250 – 300 ml để điều chỉnh dải
băng nâng niệu đạo cho đến khi có vài giọt nước
chảy ra ngoài miệng niệu đạo.
Những biến số trong quá trình phẫu thuật
được ghi nhận: phẫu thuật viên, loại vô cảm,
thời gian phẫu thuật, lượng máu mất và biến
chứng. Đánh giá sau phẫu thuật gồm: thời gian
nằm viện, bí tiểu (lượng nước tiểu tồn lưu > 200
ml trong 24 giờ), nhiễm trùng vết mổ và tụ máu
thành trước âm đạo.
Tất cả bệnh nhân được tái khám sau 1 tháng,
3 tháng và 6 tháng. Chúng tôi đánh giá hiệu quả
của phẫu thuật và các than phiền khác của bệnh
nhân như: đau vùng chậu dai dẳng, tiểu gấp,
tiểu khó và nhiễm trùng niệu Tiêu chuẩn
đánh giá hiệu quả điều trị như sau:
Khỏi bệnh: hết són tiểu khi gắng sức
Cải thiện: bớt són tiểu so với trước phẫu
thuật
Thất bại: không giảm so với trước phẫu
thuật.
KẾT QUẢ
Có 21 bệnh nhân đuợc theo dõi trung bình 6
tháng. Đặc điểm bệnh nhân đuợc mô tả trong
bảng 1 và đặc điểm phẫu thuật cũng như biến
chứng sau phẫu thuật được mô tả trong bảng 2.
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân
Đặc điểm Giá trị
Số lượng Bệnh nhân 21
Tuổi 49,8 ± 7,2 (33 – 69)
Số lần sinh 2,5 (0 - 10)
Tiểu gấp 8 (38,1%)
Sa sàn chậu Sa thành trước 04 (19%)
Chuyên Đề Ngoại Khoa 3
Đặc điểm Giá trị
Sa thành sau 02 (9,5%)
Sa tử cung / mỏm
cắt âm đạo
0
Trong 21 bệnh nhân được phẫu thuật, 7 bệnh
nhân (33,3%) xuất viện trong ngày, 12 bệnh nhân
(57,1%) xuất viện vào ngày hôm sau và 2 trường
hợp (9,5%) nằm viện hơn 2 ngày. Thời gian nằm
viện trung bình là 1,3 (1 – 5) ngày. Thời gian
phẫu thuật trung bình là 59 ± 16,4 (30 – 90) phút
và lượng máu mất không đáng kể. Chỉ có 1
trường hợp chảy máu nhiều, ước lượng máu
mất khoảng 300ml, không có bệnh nhân nào cần
phải truyền máu trong và sau khi phẫu thuật. Có
3 (14,3%) bệnh nhân bị thủng bàng quang. Trong
quá trình đặt băng nâng niệu đạo phát hiện ngay
khi soi bàng quang kiểm tra. Trường hợp thủng
bàng quang đầu tiên chúng tôi ngưng thủ thuật.
Hai trường hợp thủng bàng quang còn lại chúng
tôi rút kim ra và tiếp tục đặt lại băng nâng niệu
đạo. Hai trường hợp này được lưu thông niệu
đạo 7 ngày. Trong quá trình theo dõi không thấy
biến chứng có liên quan với tai biến do thủng
bàng quang.
Bảng 2: Đặc điểm phẫu thuật
Đặc điểm Giá trị
Số lượng BN 21
Thời gian phẫu thuật 59 ± 16,4 (30 -
90)
< 48 giờ 18 (85,7%) Thời gian nằm
viện > 48 giờ 3 (14,3%)
Chảy máu > 300 ml 01 (4,8%) Tai biến
Thủng bàng quang 03 (14,3%)
Bí tiểu < 2 ngày 02 (9,5%)
Bí tiểu > 2 ngày 01 (4,8%)
Tiểu khó > 2 tuần 01 (4,8%)
Tiểu gấp / tiểu nhiều lần 03 (14,3%)
Biến chứng
Đau vùng chậu dai dẳng 0
Khỏi bệnh 19 (90,5%)
Cải thiện 01 (4,8%) Hiệu quả
Thất bại 01 (4,8%)
Trong 3 trường hợp bí tiểu sau phẫu thuật có
2 trường hợp bí tiểu < 48 giờ được đặt thông tiểu
lưu và 1 trường hợp bí tiểu kéo dài trên 2 tuần
phải thông tiểu sạch ngắt quảng. Không có
trường hợp nào bị tụ máu thành trước âm đạo
hoặc tụ máu vùng chậu.
Theo dõi sau 3 tháng cho tất cả 21 bệnh
nhân: 4 bệnh nhân có triệu chứng tiểu gấp trong
lần tái khám đầu tiên, 19 bệnh nhân (90,5%) khỏi
bệnh (không bị són tiểu khi gắng sức) và 1
trường hợp (4,8%) có cải thiện (chỉ bị són tiểu khi
hoạt động thể lực mạnh). Trong số những bệnh
nhân than phiền tiểu gấp trước phẫu thuật, triệu
chứng này có cải thiện sau mổ ở 4 bệnh nhân
chiếm tỉ lệ 50%. Một bệnh nhân (4,8%) trong quá
trình theo dõi than phiền tiểu khó trong 3 tháng
đầu, không có bệnh nhân nào có cảm giác khó
chịu về vết mổ và vùng trên xương mu. Không
có bệnh nhân nào băng TVT bị lộ ra ở vết mổ
thành trước âm đạo.
BÀN LUẬN
Không như những phẫu thuật điều trị tiểu
không kiểm soát khi gắng sức trước đây, nâng
chỗ nối bàng quang – niệu đạo, mục tiêu của
phẫu thuật TVT là tạo ra lực căng thành âm đạo
duới niệu đạo và dây chằng mu niệu đạo(1,12).
Nhiều nghiên cứu cho thấy TVT là phẫu thuật
an toàn và hiệu quả trong điều trị tiểu không
kiểm soát ở phụ nữ(2,5,7,11,13). Trong nghiên cứu
đầu tiên của Rezapour(11), theo dõi trong 3 năm tỉ
lệ khỏi bệnh là 86% và nhiều công trình nghiên
cứu sau đó có tỉ lệ điều trị thành công từ 74 đến
92%, cải thiện 4–17,5% và thất bại 3,3–
14%(2,5,7,9,11,13,). Trong nghiên cứu của chúng tôi 21
bệnh nhân được phẫu thuật bởi những phẫu
thuật viên được tập huấn bài bản bởi các chuyên
gia nước ngoài. Vì thế, kết quả phẫu thuật đạt
được khá cao. Tỉ lệ khỏi bệnh khoảng 90%, chỉ có
1 trường hợp thất bại không đặt được băng nâng
niệu đạo do thủng bàng quang. Thủng bàng
quang là một tai biến thường gặp, hoàn toàn có
thể rút kim và làm lại trong cùng cuộc mổ. Các
trường hợp thủng bàng quang sau này, chúng
tôi vẫn tiếp tục tiến hành đặt lại băng nâng niệu
đạo.
Tất cả các bệnh nhân đuợc phẫu thuật dưới
gây tê tủy sống. Đây là điểm khác biệt so với
nghiên cứu của Ulmsten, gây tê tại chỗ(12). Chúng
tôi nhận thấy tê tủy sống làm bênh nhân ít đau
và hợp tác tốt hơn. Tuy nhiên trong một nghiên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 4
cứu tiền cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng so sánh
giữa tê tại chổ và tê vùng(14) cho thấy kết quả
phẫu thuật không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa hai nhóm nhưng nhóm bệnh nhân
được gây tê vùng có biểu hiện bế tắc đường tiểu
nhiều hơn (thời gian khởi phát đi tiểu kéo dài và
nước tiểu tồn lưu nhiều). Điều này có thể giải
thích tỉ lệ bệnh nhân bị bí tiểu ngắn hạn (< 48
giờ) trong nghiên cứu này cao hơn tỉ lệ của các
nghiên cứu khác. Tuy nhiên, biện pháp vô cảm
tốt nhất cho phẫu thuật vẫn cần có nghiên cứu
ngẫu nhiên với cỡ mẫu lớn hơn xác nhận.
Mặc dù phẫu thuật TVT được thiết kế để
điều trị tiểu không kiểm soát đơn thuần ở phụ
nữ, Rezapour và Ulmsten(11) nhận thấy phẫu
thuật này cũng có hiệu quả tốt đối với bệnh
nhân nữ tiểu không kiểm soát kết hợp. Trong
nghiên cứu này có 8 (38%) bệnh nhân tiểu gấp
góp phần gây tiểu không kiểm soát. Tỉ lệ bênh
nhân có cải thiện triệu chứng này sau phẫu thuật
là 50%, tương tự với các nghiên cứu khác, hiệu
quả trong khoảng 43–75%(7,8,9,15).
Trong nghiên cứu này, 3 bệnh nhân (14,3%)
bị bí tiểu sau phẫu thuật, được xác định bởi tiêu
chuẩn sau: bí tiểu cấp hoặc nước tiểu tồn lưu đo
được qua siêu âm > 200 ml. Tỉ lệ này cao hơn so
với một số nghiên cứu khác, tỉ lệ bí tiểu và rối
loạn đi tiểu sau phẫu thuật trong khoảng 2.3–
10%(6,7,8,13), có thể tiêu chuẩn bí tiểu mà chúng tôi
đưa ra hơi khắt khe. Tuy nhiên vì số lượng bệnh
nhân không nhiều nên cần có một nghiên cứu
với cỡ mẫu lớn hơn để xác nhận kết quả này. Bí
tiểu và rối loạn đi tiểu sau phẫu thuật gây khổ sở
cho bệnh nhân và làm giảm chất lượng cuộc
sống. Trong nghiên cứu của Klutke(4), bí tiểu > 1
tuần chiếm tỉ lệ 2,8% được xem là biến chứng
của phẫu thuật. Chúng tôi có 2 trường hợp; 1
trường hợp (4,8%) bí tiểu kéo dài > 2 tuần phải
đặt thông tiểu sạch ngắt quảng và 1 trường hợp
tiểu khó trong 3 tháng đầu sau phẫu thuật.
Trong khi phẫu thuật có 3 bệnh nhân bị
thủng bàng quang chiếm tỉ lệ 14,3%. Tỉ lệ này
cao hơn các nghiên cứu khác, khoảng 0–6%(7,9,11).
Chúng tôi nhận thấy biến chứng này có thể
phòng ngừa được bằng các biện pháp đơn giản
sau: làm trống bàng quang, dùng que dẫn luồn
trong thông tiểu đẩy lệch cổ bàng quang về phía
đối diện và quan trọng hơn hết là đưa kim từ
thành trước âm đạo hướng theo đường nách
giữa sát bờ dưới xương mu.
Biến chứng muộn (sau 3 tháng) có thể gặp
bao gồm: khó chịu dai dẵng trên xương mu và lộ
dải băng ở vết mổ thành trước âm đạo làm giảm
chất lượng cuộc sống bệnh nhân(7). Chúng tôi
chưa gặp những biến chứng này trong nghiên
cứu hiện tại.
KẾT LUẬN
Với tỉ lệ thành công cao, phẫu thuật TVT
được đánh giá là phẫu thuật ít xâm hại, hiệu quả
và an toàn trong điều trị tiểu không kiểm soát ở
phụ nữ. Hầu hết các biến chứng của phẫu thuật
đều có thể phòng tránh được và điều trị bảo tồn,
hiếm khi phải can thiệp phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DeLancey JOL (1994). Structural support of the urethra as it
relates to stress urinary incontinence: the hammock
hypothesis. Am J Obstet Gynecol; 170: 1713–23
2. Haab F, Sananes S, Amarenco G et al. (2001). Results of the
tension-free vaginal tape procedure for the treatment of type
II stress urinary incontinence at a minimum followup of 1
year. J Urol, 165: 159–62
3. Hunskaar S, Arnold EP, Burgio K et al. 1999Epidemiology and
natural history of urinary incontinence. In Abrams P, Khoury
S, Wein AJ eds, Incontinence. Plymouth, UK: Health
Publications: 199
4. Klutke C, Siegel S, Carlin B et al. (2001). Urinary retention after
tension-free vaginal tape procedure: incidence and treatment.
Urology, 58: 697–701
5. Klutke JJ, Carlin BI, Klutke CG. (2000). The tension-free
vaginal tape procedure: correction of stress incontinence with
minimal alteration in proximal urethral mobility. Urology, 55:
512–4
6. Kuuva N, Nilsson CG. (2002). A nation-wide analysis of
complication associated with the tension-free vaginal tape
(TVT procedure). Acta Obstet Gynecol Scand, 81: 72–7
7. Meschia M, Pifarotti P, Bernasconi F et al. (2001). Tension-free
vaginal tape. Analysis of outcomes and complications in 404
stress incontinent women. Int Urogynecol J Pelvic Floor
Dysfunct, 12 (Suppl. 2): S24–S27
8. Moran PA, Ward KL, Johnson D et al. (2000). Tension-free
vaginal tape for primary genuine stress incontinence: a two-
centre follow-up study. BJU Int, 86: 39–42
9. Nilsson CG, Kuuva N, Falconer C, Rezapour M, Ulmsten U.
(2001). Long-term results of the tension-free vaginal tap (TVT)
procedure for surgical treatment of female stress urinary
Chuyên Đề Ngoại Khoa 5
incontinence. Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct,12 (Suppl.
2): S5–S8
10. Nilsson CG, Kuuva N. (2001). The tension-free vaginal tape
procedure is successful in the majority of women with
indications for surgical treatment of urinary stress
incontinence. Br J Obstet Gynaecol, 108: 414–9
11. Rezapour M, Ulmsten U. (2001). Tension-free vaginal tape
(TVT) in women with mixed urinary incontinence – a long-
term follow-up. Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct, 12
(Suppl. 2): S15–S18
12. Ulmsten U, Henriksson L, Johnson P, Varhos G. (1996). An
ambulatory surgical procedure under local anesthesia for
treatment of female urinary incontinence. Int Urogynecol J
Pelvic Floor Dysfunc, 7: 81–6
13. Ulmsten U, Johnson P, Rezapour M. (1999). A three-year
follow up of tension free vaginal tape for surgical treatment of
female stress urinary incontinence. Br J Obstet Gynaecol, 106:
345–50
14. Wang AC, Chen MC. (2001). Randomized comparison of local
versus epidural anesthesia for tension-free vaginal tape
operation. J Urol, 165: 1177–80
15. Wang AC, Lo TS. (1998). Tension-free vaginal tape. A
minimally invasive solution to stress urinary incontinence in
women. J Reprod Med, 43: 429–34
Chuyên Đề Ngoại Khoa 6
Chuyên Đề Ngoại Khoa 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_ban_dau_dieu_tri_tieu_khong_kiem_soat_o_phu.pdf