Như vậy kết quả của chúng tôi là tương tự với các
tác giả trong nước và thế giới: tỷ lệ sạch sỏi sau
phẫu thuật nội soi là cao, dao động từ 80 – 100%.
Ngày nay, nhiều nghiên cứu đã ứng dụng kết hợp
sử dụng ống nội soi mềm trong phẫu thuật nội soi
nhằm nâng cao tỷ lệ sạch sỏi, đặc biệt là trong những
trường hợp sỏi đài thận nhiều viên kèm theo. Ống nội
soi mềm sẽ được đưa qua trocar phẫu thuật để vào đài
bể thận qua chỗ mở bể thận hoặc qua vị trí mở nhu mô
thận. Các viên sỏi đài thận sẽ được gắp ra ngoài bằng
rọ gắp sỏi (Dormia) hoặc kềm gắp sỏi hoặc tán vụn
sỏi bằng laser [3], [7], [10], [11].
Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật được tính từ lúc rạch da đặt
trocar đầu tiên cho đến khi khâu lại lỗ trocar cuối
cùng. Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi là 95,3 ± 25,5 phút, ngắn nhất là
70 phút, dài nhất là 165 phút. Ban đầu khi mới triển
khai, thời gian phẫu thuật còn dài, nhưng về sau khi
kỹ năng ngày càng hoàn thiện thì thời gian phẫu
thuật được rút ngắn nhiều, chỉ khoảng 80 – 100 phút
và tai biến, biến chứng cũng giảm.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả ban đầu phẫu thuật nội soi sau phúc mạc điều trị sỏi san hô bán phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 25
Bệnh viện Trung ương Huế
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI
SAU PHÚC MẠC ĐIỀU TRỊ SỎI SAN HÔ BÁN PHẦN
Hoàng Đức Minh1, Nguyễn Văn Bình1, Trương Xuân Nhuận1,
Trương Vĩnh Quý1, Phan Khánh Việt1, Trần Quốc Tuấn1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.61.4
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu phẫu thuật nội soi sau phúc mạc điều trị sỏi san hô bán phần.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 9 bệnh nhân sỏi san hô bán phần được điều trị bằng phẫu
thuật nội soi sau phúc mạc trong khoảng thời gian từ tháng 6/2015 đến tháng 6/2019 tại Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Quảng Trị. Tuổi trung bình là 51,2 (31-65 tuổi); 5 nam và 4 nữ (55,6% và 44,4% tương ứng). Kích thước
sỏi trung bình là 5,1 cm (3,2-6,8 cm).
Kết quả: thành công 8/9 trường hợp (88,9%), 1 trường hợp chuyển mổ mở là do chảy máu (11,1%).
Lượng máu mất ước tính trong mổ là 20-50 ml. Thời gian phẫu thuật trung bình là 95,3 phút (70-165 phút).
Tất cả trường hợp đều đặt JJ niệu quản (100%). Thời gian nằm viện trung bình sau phẫu thuật là 5,2 ngày
(4-7 ngày). Về biến chứng có: 1 trường hợp (12,5%) nhiễm trùng đường tiểu sau mổ; 3 trường hợp (37,5%)
đái máu sau phẫu thuật.
Kết luận: phẫu thuật nội soi sau phúc mạc có thể thực hiện được với sỏi san hô bán phần với kích thước
lên đến 6,8 cm. Kết quả phẫu thuật phụ thuộc vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên và sự lựa chọn bệnh
cẩn thận, đúng đắn.
Từ khóa: kỹ thuật nội soi sau phúc mạc mở bể thận, sỏi san hô, điều trị.
ABSTRACT
THE INITIAL EVALUATION OF
THE RETROPERITONEOSCOPIC PYELOLITHOTOMY
FOR THE PARTIAL STAGHORN RENAL STONE
Hoang Duc Minh1, Nguyen Van Binh1, Truong Xuan Nhuan1,
Truong Vinh Quy1, Phan Khanh Viet1, Tran Quoc Tuan1
Objective: To evaluate initial outcomes of retroperitoneoscopic pyelolithotomy for treating partial
staghorn renal stones.
Materials and Methods: 9 patients with partial staghorn renal stones were treated by retroperitoneal
laparoscopic pyelolithotomy from June 2015 to June 2019. The mean age was 51.2 years (range 31-65);
1. Bệnh viện Đa Khoa tỉnh
Quảng Trị
- Ngày nhận bài (Received): 10/4/2020; Ngày phản biện (Revised): 25/04/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 29/05/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Hoàng Đức Minh
- Email: hoangducminhqt@gmail.com; ĐT: 0915013017
26 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, sỏi tiết niệu nói chung và sỏi thận
nói riêng là một bệnh lý rất phổ biến, chiếm tỷ lệ
dao động từ 2-14% dân số [5], [8], [9], [12]. Cho
đến ngày nay, trong các loại sỏi niệu nói chung thì
sỏi san hô vẫn là một thử thách trong niệu khoa do
những đặc điểm về hình thái, sinh bệnh học, hậu quả
của chúng gây ra trên thận và nhiều khó khăn trong
điều trị. Nó thường gây ra các biến chứng tắc nghẽn
gây ứ nước thận, viêm thận bể thận, giảm chức năng
thận, cuối cùng là thận mất chức năng, thậm chí đe
dọa đến tính mạng bệnh nhân [8], [10], [12].
Trên thế giới, trước kia việc điều trị sỏi san hô
đầu tay vẫn là phẫu thuật mở, cho đến những năm
80, Chaussy (1980) đã cho ra đời phương pháp tán
sỏi ngoài cơ thể, đây là một cuộc cách mạng trong
điều trị bệnh sỏi thận. Bên cạnh đó với sự ra đời của
hàng loạt các phương pháp can thiệp ít xâm lấn khác
như lấy sỏi thận qua da, nội soi niệu quản tán sỏi
ngược dòng, phẫu thuật nội soi xuyên và sau phúc
mạc thì phẫu thuật mở trong điều trị sỏi san hô đã
giảm đi đáng kể. Lựa chọn phương pháp điều trị sỏi
san hô tuỳ thuộc vào vị trí, tính chất, số lượng sỏi,
tình trạng chức năng thận, trang thiết bị hiện có và
kinh nghiệm của phẫu thuật viên... [8], [9], [13]. Có
nhiều cách phân loại, nhưng thông thường thì chia
sỏi san hô ra làm 2 loại: bán phần và toàn phần [5],
[6], [8].
Hiện nay trên thế giới và tại Việt Nam đã có
nhiều nghiên cứu về phẫu thuật nội soi xuyên và sau
phúc mạc trong điều trị sỏi san hô và cho kết quả tốt,
tỷ lệ tai biến, biến chứng thấp với tỷ lệ sạch sỏi cao
[2], [6], [10], [12].
Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị, phẫu
thuật nội soi sau phúc mạc điều trị sỏi niệu quản đã
được tiến hành từ năm 2007, đến năm 2011 thì được
áp dụng đối với sỏi bể thận. Kể từ 2013, chúng tôi
cũng triển khai thành công phẫu thuật nội soi sau phúc
mạc trên một số trường hợp sỏi san hô bán phần.
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá khả
năng thực hiện của phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
trong điều trị sỏi san hô bán phần tại Bệnh viện của
chúng tôi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 9 bệnh nhân
được chẩn đoán sỏi san hô và được điều trị bằng
phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Quảng Trị từ tháng 06 năm 2015 đến
tháng 06 năm 2019.
* Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Sỏi san hô bán phần.
Phân loại sỏi san hô [5], [6], [8]:
+ Sỏi san hô toàn phần: sỏi chiếm toàn bộ bể
thận và các đài thận.
+ Sỏi san hô bán phần: gồm sỏi bể thận và ít nhất
một đài thận.
5 males (55.6%) and 4 females (44.4%). The mean stone size was 5.1 cm (3.2-6.8 cm).
Results: The retroperitoneoscopic pyelolithotomy for the management of staghorn renal stones were
completely successful in 8/9 cases (88.9%), 1 case (11.1%) required conversion to open surgery dueto
heavy bleeding. The estimated blood losts was 20-50ml. The mean duration of the procedure time is 95.3
mins (70-165 mins). Double-J ureteral stents were used for all cases (100%). The mean post-operative
hospital stay was 5.2 days (4-7 days). About complications: 1 case (12.5%) of urinary infection; 3 cases
(37.5%) of postoperative hematuria.
Conclusions: Retroperitoneal laparoscopic pyelolithotomy could be realized to remove the partial
staghorn renal stones up to a maximum size of 6.8 cm. Success depends on the experience of surgeons
and judicious selection of cases.
Keywords: Retroperitoneoscopic pyelolithotomy, staghorn renal stones, treatment.
Đánh giá kết quả ban đầu phẫu thuật nội soi
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 27
Bệnh viện Trung ương Huế
- Bể thận ngoài xoang.
- Khám trước mê có ASA ≤ 3.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật nội
soi: có các bệnh lý tim mạch, hô hấp, rối loạn đông
chảy máu, nội tiết...
- Bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật sau phúc mạc.
- Dị dạng đường tiết niệu.
- Sỏi bể thận trong xoang hoặc trung gian.
- Các trường hợp Viêm thận bể thận biến chứng
do sỏi đang tiến triển hoặc có biến chứng nặng
(thận mủ, viêm dính quanh thận, ap-xe quanh
thận).
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô
tả, hồi cứu không đối chứng.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Kỹ thuật nội soi sau phúc mạc điều trị sỏi san
hô bán phần
Tư thế bệnh nhân và vị trí kíp mổ
- Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, tư thế
như phẫu thuật sỏi thận mở.
- Phẫu thuật viên và người phụ đứng sau lưng
BN, đối diện với màn hình.
- Dụng cụ viên đứng dưới chân bệnh nhân.
Vị trí đặt Trocar
- Trocar thứ nhất (camera) (10 mm) được đặt gần
đầu xương sườn XI, dưới xương sườn XII (hình 1).
- Trocar thứ hai (5 mm) được đặt trên đường mào
chậu đường nách sau.
- Trocar thứ ba (5 mm) được đặt ở vị trí đường
nách trước sao cho 3 trocar tạo ra một tam giác đều
(hình 2).
Hình 1: Vị trí đặt Trocar thứ nhất Hình 2: Vị trí đặt Trocar
- Khi cần đặt trocar thứ 4: 5 mm dưới bờ sườn để
vén vào bể thận bóc tách khoang sau phúc mạc đủ
rộng cho thao tác trong khi mổ.
Tuy nhiên vị trí đặt trocar và số trocar có thể thay
đổi tùy theo tính chất của khối u cũng như thói quen
của phẫu thuật viên.
Bơm hơi khoang sau phúc mạc:
- Vị trí trocar đầu tiên còn là vị trí để tách phúc
mạc ra khỏi thành bụng. Rạch da dài 1,2 cm vị trí
đầu xương sườn XI, dưới xương sườn XII. Cơ và
cân ở dưới được tách bằng dao điện hoặc Kelly
cho đến khi sờ hoặc thấy được cân ngực thắt lưng.
Cân ngực thắt lưng được cắt bằng dao điện hoặc
kéo Metzenbaum. Tiếp theo, ngón tay được dùng để
bóc tách để tạo một khoảng trống giữa phía sau cân
Gerota và cân cơ Psoas.
- Đưa sonde Foley có buộc bao cao su ở đầu
(hoặc sonde dạ dày có buộc ngón găng ở đầu) vào
khoảng trống vừa được tạo.
- Tạo khoang sau phúc mạc bằng cách hơm hơi
qua sonde Foley vào bao cao su đã tiệt khuẩn (hoặc
ngón găng buộc vào sonde dẫn lưu) khoảng 200 –
300 ml (hình 3).
28 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
Hình 3: Bóng tạo khoang sau phúc mạc bằng ngón
găng và sonde dẫn lưu
- Sau đó đặt trocar 10 mm đầu tù vào khoang
sau phúc mạc vừa tạo xong rồi bơm hơi đến áp lực
12 - 13 mm.
- Mở cân Gerota, định vị cơ thắt lưng chậu để
xác định cực dưới thận và niệu quản. Cực dưới thận
được di động và nâng lên để cho phép tiếp cận bể
thận. Dùng kẹp phẫu tích để phẫu tích vào xoang
thận ở mặt sau đủ rộng đến khi nào thấy được một
phần của sỏi (hình 4).
Hình 4: Phẫu tích bể thận
- Sau khi phẫu tích bể thận đủ rộng, mở bể thận,
lấy sỏi san hô qua chỗ mở bể thận. Quá trình lấy sỏi
phải cẩn thận, vì sỏi san hô thường dính vào niêm
mạc bể thận và các đài thận nên nguy cơ chảy máu
có thể xảy ra (hình 5).
- Lấy sỏi đài thận kèm theo qua vị trí mở bể thận
hoặc mở nhu mô để lấy sỏi đài thận (hình 6, 7, 8).
Hình 5: Mở bể thận lấy sỏi
Hình 6: Lấy sỏi đài thận
Hình 7: Sỏi đài thận
Hình 8 Mở nhu mô cực dưới
- Đặt ống thông nhựa cỡ 8 Fr vào chỗ rạch bể
thận xuống phía dưới niệu quản để kiểm tra tình
trạng thông thương bên dưới viên sỏi. Đặt sonde JJ
thận - niệu quản - bàng quang, khâu vắt hoặc mũi
rời chỗ mở bể thận bằng chỉ Vicryl 4.0 (hình 9).
Đánh giá kết quả ban đầu phẫu thuật nội soi
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 29
Bệnh viện Trung ương Huế
Hình 9: Đặt sonde JJ niệu quản và khâu bể thận
- Lấy sỏi (hình 10), đặt dẫn lưu hố thận, xả hơi, đóng thành bụng.
Hình 10: Sỏi san hô thận
Bệnh nhân được hẹn đến khám lại để rút sonde JJ
NQ vào tuần thứ tư sau mổ. Khám lại sau mổ vào
tháng thứ nhất sau mổ. Bệnh nhân được siêu âm
hệ tiết niệu, chụp XQ hệ tiết niệu không chuẩn bị,
thử nước tiểu thường quy, chụp niệu đồ tĩnh mạch
hoặc chụp niệu quản bể thận ngược dòng nếu thấy
bể thận và đài thận dãn tăng lên sau lần siêu âm
thứ hai hoặc nghi ngờ có hẹp bể thận - niệu quản.
2.4. Xử lí số liệu
Tất cả các trường hợp nằm trong tiêu chuẩn chọn
bệnh sẽ được ghi nhận vào phiếu theo dõi và số liệu
sẽ được xử lý bằng phần mềm Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
9 bệnh nhân bị sỏi san hô bán phần được chỉ định
phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi có kết quả
như sau:
- Đặc điểm chung:
+ Tuổi: trung bình là 51,2 ± 10,1 tuổi (31-65).
+ Giới: Nam/nữ = 5/4.
+ Vị trí: bên phải chiếm 5 TH (55,6%), bên trái
chiếm 4 TH (44,4%).
+ Kích thước sỏi: trung bình 5,1 ± 1,2 cm (3,2 -
6,8 cm).
+ Đặc điểm bể thận mang sỏi: 100% bể thận
ngoài xoang.
- Quá trình phẫu thuật:
+ Số trocar sử dụng: Tất cả các trường hợp đều
sử dụng 3 trocar, gồm 1 trocar 10mm và 2 trocar
5mm (100%).
+ Phẫu thuật lấy sỏi thành công: 8/9 trường hợp
(88,9%), trường hợp chuyển mổ mở là do chảy máu
động mạch cực trên, không cầm máu được (11,1%).
+ Mở nhu mô thận kèm theo: có 2/8 trường hợp
(25,0%) được mở nhu mô thận cực dưới để lấy sỏi.
+ Đặt sode JJ niệu quản: 100% các trường hợp
30 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
đều được đặt sonde JJ niệu quản sau phẫu thuật và
rút sau 4 tuần.
+ Thời gian phẫu thuật: trung bình là 95,3 ± 25,5
phút (70-165 phút).
- Theo dõi sau phẫu thuật:
+ Biến chứng hậu phẫu: Có 1/8 trường hợp
nhiễm trùng đường tiểu (12,5%); 3/8 trường hợp đái
máu (37,5%) sau phẫu thuật và đều được điều trị nội
khoa thành công.
+ Thời gian hậu phẫu trung bình: là 5,2 ± 1,0
ngày (4 - 7 ngày).
+ Tỷ lệ sạch sỏi sau 1 tháng theo dõi: 7/8 trường
hợp sạch sỏi chiếm 87,5%.
IV. BÀN LUẬN
Mặc dù hiện nay đã có sự phát triển vượt bậc của
các kỹ thuật ít xâm lấn trong điều trị sỏi thận nhưng
sỏi san hô vẫn luôn là một thử thách khó khăn đối
với các phẫu thuật viên tiết niệu [8], [10], [12].
Phẫu thuật lấy sỏi thận qua da được xem là lựa
chọn đầu tiên đối với điều trị sỏi san hô, nhưng
thường cần nhiều lần, tạo nhiều đường hầm hoặc
kết hợp với tán sỏi thận ngoài cơ thể mới mang lại
kết quả sạch sỏi cao. Bên cạnh đó thì tỷ lệ tai biến,
biến chứng và tái phát sỏi cũng cao [9], [14], [15].
Trong lúc đó, phẫu thuật nội soi cho kết quả
sạch sỏi cao chỉ trong một lần phẫu thuật. Thêm
nữa, những phẫu thuật đồng thời như tạo hình khúc
nối bể thận – niệu quản và những phẫu thuật liên
quan đến niệu quản cũng có thể thực hiện đồng thời.
Tương tự như đối với những bệnh nhân có thận lạc
chỗ thì phẫu thuật nội soi cho kết quả tốt hơn so với
các kỹ thuật ít xâm nhập khác [2], [6], [7], [10].
Theo một nghiên cứu đa trung tâm của Wang X.
và cộng sự (2013) [15] (tổng cộng 363 bệnh nhân)
về so sánh sự an toàn và hiệu lực trong điều trị sỏi
thận lớn giữa Phẫu thuật nội soi (PTNS) và Phẫu
thuật lấy sỏi thận qua da (PCNL) thì cho kết quả
như sau: Thời gian phẫu thuật và thời gian nằm
viện của PTNS có dài hơn PCNL; PTNS là an toàn,
mất máu và các biến chứng sau mổ là ít hơn so với
PCNL (Goel A. (2003) [7], Tefekli A. (2012) [14]);
Biến chứng chảy máu trong và sau mổ của PTNS là
thấp hơn, có lẽ là do PTNS ít gây tổn thương nhu
mô thận hơn; Tỷ lệ sạch sỏi của PTNS là cao hơn.
Về đường tiếp cận trong PTNS, có 2 đường: xuyên
phúc mạc và sau phúc mạc. Theo một số tác giả thì
sử dụng đường xuyên phúc mạc có ưu điểm là phẫu
trường rộng, dễ thao tác trong mổ. Tuy nhiên nhược
điểm là dễ gây tổn thương ruột, nước tiểu có thể dò vào
trong ổ bụng, tắc ruột do dính về sau [1], [4].
Theo nhiều tác giả khác thì PTNS sau phúc mạc
có nhiều ưu điểm hơn so với xuyên phúc mạc. Ưu
điểm của đường tiếp cận sau phúc mạc là giảm biến
chứng tổn thương các tạng trong ổ bụng, liệt ruột và
dính ruột về sau. Thêm nữa đường tiếp cận này giúp
dễ dàng bộc lộ bể thận ngay từ đầu. Hạn chế của
đường tiếp cận này là phẫu trường hẹp, thao tác mổ
khó khăn đặc biệt là lúc khâu phục hồi lại bể thận
[1], [4], [11].
Sạch sỏi sau phẫu thuật
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sạch sỏi
sau phẫu thuật là 87,5%.
Bảng 4.1: So sánh kết quả phẫu thuật với các tác giả
Nghiên cứu Năm n Tỷ lệ sạch sỏi sau PT (%)
Aminsharifi A. [2] 2013 9 88,9
Chander J. [3] 2009 184 100
Gaur DD. [6] 2002 3 100
Goel A. [7] 2003 16 100
Nouralizadeh A. [9] 2012 13 84,6
Pastore AL. [10] 2014 9 88,9
Qin C. [11] 2014 75 88,0
Chúng tôi 2019 9 87,5
Đánh giá kết quả ban đầu phẫu thuật nội soi
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 31
Bệnh viện Trung ương Huế
Như vậy kết quả của chúng tôi là tương tự với các
tác giả trong nước và thế giới: tỷ lệ sạch sỏi sau
phẫu thuật nội soi là cao, dao động từ 80 – 100%.
Ngày nay, nhiều nghiên cứu đã ứng dụng kết hợp
sử dụng ống nội soi mềm trong phẫu thuật nội soi
nhằm nâng cao tỷ lệ sạch sỏi, đặc biệt là trong những
trường hợp sỏi đài thận nhiều viên kèm theo. Ống nội
soi mềm sẽ được đưa qua trocar phẫu thuật để vào đài
bể thận qua chỗ mở bể thận hoặc qua vị trí mở nhu mô
thận. Các viên sỏi đài thận sẽ được gắp ra ngoài bằng
rọ gắp sỏi (Dormia) hoặc kềm gắp sỏi hoặc tán vụn
sỏi bằng laser [3], [7], [10], [11].
Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật được tính từ lúc rạch da đặt
trocar đầu tiên cho đến khi khâu lại lỗ trocar cuối
cùng. Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi là 95,3 ± 25,5 phút, ngắn nhất là
70 phút, dài nhất là 165 phút. Ban đầu khi mới triển
khai, thời gian phẫu thuật còn dài, nhưng về sau khi
kỹ năng ngày càng hoàn thiện thì thời gian phẫu
thuật được rút ngắn nhiều, chỉ khoảng 80 – 100 phút
và tai biến, biến chứng cũng giảm.
Bảng 4.2: So sánh thời gian phẫu thuật với các tác giả
Nghiên cứu Năm n Thời gian PT TB (%)
Chander J. [3] 2009 184 135
Gaur DD. [6] 2002 3 150
Goel A. [7] 2003 16 120
Nouralizadeh A. [9] 2012 13 177
Pastore AL. [10] 2014 9 140 (90-190)
Qin C. [11] 2014 75 96
Chúng tôi 2019 9 95,3 (70 – 165)
Như vậy thời gian phẫu thuật của chúng tôi là tương tự với các tác giả khác. Đường cong huấn luyện trong
phẫu thuật nội soi sau phúc mạc là rất quan trọng.
V. KẾT LUẬN
Bước đầu qua nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng phẫu thuật nội soi sau phúc mạc có thể thực
hiện được với sỏi san hô bán phần với kích thước
lên đến 6,8 cm. Kết quả phẫu thuật phụ thuộc vào
kinh nghiệm của phẫu thuật viên và sự lựa chọn
bệnh cẩn thận, đúng đắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Hunayan, A., Kehinde E. (2009),
“Laparoscopic pyelolithotomy: is the
retroperitoneal route a better approach?”, Int J
Urol, 16, pp. 181 - 186.
2. Aminsharifi A., Hadian P. (2013), “Laparoscopic
Anatrophic Nephrolithotomy for Management
of Complete Staghorn Renal Stone: Clinical
Efficacy and Intermediate-Term Functional
Outcome”, Journal of Endourology, Vol. 27,
No. 5, pp. 573 - 578.
3. Chander J., Dangi AD. (2010), “Evaluation
of the role of preoperative Double-J ureteral
stenting in retroperitoneal laparoscopic
pyelolithotomy”, Surg Endosc, 24, pp. 1722-6.
4. Dongol UMS., Khambu B. et al. (2011),
“Laparascopic Retroperitoneoscopic Pyelolithotomy
for management of Renal Stones”, Journal of NAMS,
Vol. 1, No. 2, pp. 50 - 53.
5. Đặng Hanh Đệ (2009), “Sỏi đường tiết niệu”,
Bệnh học Ngoại khoa, Nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam, tr. 72 - 76.
6. Gaur DD. (2002), “Retroperitoneal
Laparoscopic Pyelolithotomy for
Staghorn Stones”, Journal of Laparoendoscopic
& Advanced Surgical Techniques, Vol. 12, No.
4, pp.209 - 303.
32 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
7. Goel A. (2003), “Evaluation of role of
retroperitoneoscopic pyelolithotomy and its
comparison with percutaneous nephrolithotripsy”,
Int Urol Nephrol, 35, pp. 73 - 76.
8. Trần Văn Hinh (2008), “Chiến lược điều trị sỏi
đường tiết niệu”, Điều trị sỏi niệu bằng phẫu
thuật ít xâm lấn, Nhà xuất bản Y học, tr. 20 - 29.
9. Nouralizadeh A., Simforoosh N., Soltani
MH., (2012), “Laparoscopic Transperitoneal
Pyelolithotomy for Management of Staghorn
Renal Calculi”, Journal Of Laparoendoscopic
& Advanced Surgical Techniques, Vol. 22, No.
1, pp. 61 - 5.
10. Pastore AL., Palleschi G. (2016), “Combined
laparoscopic pyelolithotomy and endoscopic
pyelolithotripsy for staghorn calculi: long-term
follow-up results from a case series”, Ther Adv
Urol, Vol. 8(1), pp. 3 - 8.
11. Qin C., Wang S. et al (2014), “Retroperitoneal
laparoscopic technique in treatment of complex
renal stones: 75 cases”, BMC Urology, pp. 1–6.
12. Simforoosh N., Aminsharifi A. (2008),
“Laparoscopic anatrophic nephrolithotomy for
managing large staghorn calculi”, BJU Int, 101,
pp. 1293 - 1296.
13. Stein R., Turna B., Nguyen M. (2008),
“Laparoscopic pyeloplasty with concomitant
pyelolithotomy: technique and outcomes”, J
Endourol, 22, pp. 1251 - 1255.
14. Tefekli A., Tepeler A. (2012), “The comparison
of laparoscopic pyelolithotomy and
percutaneous nephrolithotomy in the treatment
of solitary large renal pelvic stones”, Urol Res,
40, pp. 549 - 555.
15. Wang X., Li S. (2013), “Laparoscopic
Pyelolithotomy Compared to Percutaneous
Nephrolithotomy as Surgical Management for
Large Renal Pelvic Calculi: A Meta-Analysis”,
The Journal of Urology, Vol. 190, pp.888 - 893.
Đánh giá kết quả ban đầu phẫu thuật nội soi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_ban_dau_phau_thuat_noi_soi_sau_phuc_mac_die.pdf