Đánh giá kết quả cắt amiđan bằng kỹ thuật Coblation
Tỷ lệ chảy máu muộn sau mổ
1 ca tỷ lệ 0,7% (1/142 ca) khá thấp, điều này
có thể là do hệ thống coblation hoạt động ở nhiệt
độ thấp nên ít bị tổn thương nhiệt đến mô lành
xung quanh (cơ xiết họng, mạch máu ở nền hố
amiđan ) nên ít gây hoại tử mô, mạch máu và
thành lập giả mạc. Giả mạc này sau đó tróc đi gây
ra chảy máu thứ phát.
Tình trạng đau sau mổ
Đau sau mổ là một trong những vấn đề bệnh
nhân quan tâm nhiều nhất và cũng là nỗi ám ảnh
lớn nhất của bệnh nhân sau cắt amiđan. Các
phương pháp trước đây nhất là phương pháp cắt
bằng dao điện đơn cực, laser bệnh nhân quá đau
sau mổ và đau kéo dài làm bệnh nhân không dám
ăn uống gây tình trạng suy kiệt và mất nước cho
bệnh nhân góp phần làm lâu lành vết thương.
theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi kết hợp với
kết quả của các nghiên cứu khác đã công bố cho
thấy phương pháp coblation rõ ràng ít gây đau sau
mổ hơn nhiều và đau ít ngày hơn.
Giá thành của phương pháp
Giá thành một đầu đốt coblation hiện nay còn
cao nên để phù hợp với tình hình Việt Nam chúng
tôi nghiên cứu việc tái sử dụng đầu đốt ( dùng 10
lần hoặc hơn) bằng cách tái sát trùng dụng cụ sau
mổ theo cách thức sau : dụng cụ sau khi sử dụng
được ngâm và rửa sạch bằng Cidezyme, lau và để
khô sau đó ngâm vào dung dịch CIDEX OPA
(ortho-Phthalaidehyde 0,55%) 0,05% trong 20
phút nên chi phí sử dụng là hoàn toàn phù hợp với
người Việt Nam.
Tình trạng lành thương và trở lại làm việc
ăn uống bình thường
Bệnh nhân trở lại ăn uống sớm, và nhanh
chóng trở lại làm việc bình thường rất có ý nghĩa
trong thời buổi làm việc công nghiệp bệnh nhân
không thể nghỉ làm việc lâu được. Điều này có
thể do mô lành ít bị tổn thương, bệnh nhân không
phải kiêng ăn lâu nên sức khỏe bệnh nhân nhanh
hồi phục và hố mổ mau lành.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả cắt amiđan bằng kỹ thuật Coblation, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng - Mắt 158
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT AMIĐAN BẰNG KỸ THUẬT COBLATION
Trần Anh Tuấn*, Nguyễn Văn Đức*, Nguyễn Hữu Khôi
TÓN TẮT
Giới thiệu : Coblation là một phương pháp phẫu thuật dùng điện mới được thế giới đưa vào áp dụng
trong phẫu thuật tai mũi họng từ năm 1998 với nhiều ưu điểm như hệ thống cắt đốt lưỡng cực (bipolar) sử
dụng đầu đốt lạnh, nhiệt độ cắt đốt thấp nên ít tổn thương mô lành xung quanh.
Mục tiêu nghiên cứu : Đánh giá hiệu quả và các ưu khuyết điểm của phương pháp cắt amiđan bằng
Coblation.
Phương pháp nghiên cứu : nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu có can thiệp lâm sàng. 142 bệnh nhân tuổi
từ 10 đến 62 có viêm amiđan mạn tính tái đi tái lại nhiều lần hoặc amiđan quá phát được chỉ định cắt
amiđan bằng hệ thống Coblator II.
Kết quả : lượng máu mất trong mổ : trung bình 7ml (1-60ml); thời gian phẫu thuật : trung bình 18 phút
(10-45phút); tỷ lệ chảy máu sớm phải can thiệp : 1,4% (2/142); tỷ lệ chảy máu muộn sau mổ phải can thiệp
: 0,7% (1/142); tình trạng đau sau mổ : dựa vào bảng câu hỏi và sự tự đánh giá của bệnh nhân cho kết quả
như sau : ngày 1 : 4 (1-8); ngày 2 : 3 (1-8); ngày 3 : 3,5 (0-7); ngày 4 : 2,75 (0-6) ngày 5 : 2,5 (0-6); ngày 6
: 2 (0-6); ngày 7 : 1,8 (0-6); Thời gian ăn uống gần như bình thường (cháo, cơm nhão) : 3,12 ngày (1-8) và
thời gian trở lại ăn cơm bình thường là 6,80 ngày (3-17); thời gian trở lại làm việc bình thường là : 6,26 (1-
12).
Kết luận : cắt amiđan bằng phương pháp coblation an toàn, hiệu quả với thời gian cắt nhanh, ít mất
máu trong mổ, ít đau sau mổ, thời gian lành thương nhanh và ít chăm sóc hậu phẫu.
ABSTRACT
TO EVALUATE RESULT OF TONSILLECTOMY BY COBLATION
Tran Anh Tuan, Nguyen Van Duc, Nguyen Huu Khoi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 1 - 2007: 157 - 161
Introduction : Coblation, is a new electrosurgical techniques, that has applied to otolaryngological
surgery in 1998 in the world. This method have many advancements such as bipolar probe systems, cool
probes (Plasma Wand), a low temperature molecular disintegration. The result is volumetric tissue removal
with minimal collateral tissue necrosis.
Objectives : to assess the morbidity and efficacy of radiofrequency thermal ablation tonsillectomy
(Coblation).
Study design and setting : Prospective, randomized, controlled clinical study 142 patients aged 10 to
62 years admitted for tonsillectomy by coblator II system with recurrent or chronic tonsillitis, obstructive
tonsillar hypertrophy.
Results : intraoperative blood loss : median 7ml (1-60ml); Operating time : median 18 minute (10-45
minute); rate of primary bleeding need to manage: 1,4% (2/142), Rates of secondary bleeding after the first
24 hours postoperatively need to manage 0.7% (1/142), Median postoper ative pain scores : to rely on
questionaire completed by the patient during the next 3 weeks after operate : day 1 : 4 (1-8); day 2 : 3 (1-
8); day 3 : 3 (0-7); day 4 : 2,75 (0-6) day 5 : 2,5 (0-6); day 6 : 2 (0-6); day 7 : 1,8 (0-6), Time of return to a
nearly normal diet (soft foods): 3,12 ngày (1-8) và time of return to a normal diet : 6,80 ngày (3-17); the
day each patient return to work normaly : 6,26 (1-12).
Conclusion : tonsillectomy by Coblation is a safety and effect method with time of surgery is short,
* Bệnh viện Đại học Y Dược - Tp. Hồ Chí Minh
** Bộ môn Tai Mũi Họng - Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007
Tai Mũi Họng 159
decrease in blood lost, less pain after operation, faster healing and reduced postoperative care.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cắt amiđan là một trong những phẫu thuật
thường gặp nhất trong chuyên khoa tai mũi họng.
Mỗi năm trên thế giới có hàng chục triệu ca cắt
amidan. Trên thế giới, từ trước đến nay đã đưa ra
rất nhiều cách cắt amiđan : cắt bóc tách lạnh, cắt
bằng sluder, bằng dao điện đơn cực, lưỡng cực,
bằng laser, bằng dao siêu âm (ultrasonic scalpel)
mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược
điểm riêng. Một trong những hạn chế thường gặp
phải của các phương pháp trên là về vấn đề đau
và chảy máu sau mổ. Tại Việt Nam hiện nay,
cũng áp dụng nhiều phương pháp cắt amiđan khác
nhau, mỗi nơi dùng mỗi kiểu. Từ năm 1998, trên
thế giới đã đưa vào áp dụng một phương pháp
phẫu thuật mới gọi là phương pháp Coblation. Với
những ưu điểm về nhiệt độ cắt đốt thấp ( 40-
70°C) nó đang thu hút được sự quan tâm của giới
y học nói chung và tai mũi họng nói riêng.
Phương pháp phẫu thuật này hiện nay đã được áp
dụng trong nhiều chuyên khoa khác nhau như tai
mũi họng, tim mạch, thần kinh, tiết niệu, da liễu,
thẩm mỹ, vv... Trong tai mũi họng, người ta có
thể dùng nó để cắt amiđan, đốt cuốn mũi dưới,
điều trị ngủ ngáy, nạo VA vv...Về nguyên tắc thì
phẫu thuật Coblation cũng là một dạng phẫu thuật
điện lưỡng cực nên về nguyên lý hoạt động cơ
bản giống như các phương pháp phẫu thuật điện
trước đây, nhưng do hệ thống Coblation có sử
dụng đầu đốt lạnh (dùng nước lưu thông trong
điện cực để làm mát và làm môi trường đệm
truyền dẫn nhiệt) nên điện áp và nhiệt độ cắt đốt
của chúng khá thấp (40-70
0
C) từ đó giảm thiểu
được hiện tượng tổn thương mô lành xung quanh
do nhiệt và điện. Cơ chế hoạt động đó là nước
trong điện cực sẽ tạo một lớp dịch nằm giữa điện
cực và mô, qua trung gian lớp dịch này dưới tác
dụng của điện trường. Các nguyên tử trong lớp
dịch này biến đổi thành các ion (sự ion hóa) tạo
thành một lớp plasma. Hạt tích điện trong lớp
plasma được gia tốc dưới tác dụng của điện trường
và đạt được đủ năng lượng để bẻ gãy cầu nối
phân tử của tế bào. Sản phẩm phụ của quá trình
này là các phân tử cấu thành và khí nhẹ thay vì
những mô bị cháy.
Hình 1 : nguyên lý hoạt động
Nhiệt độ cắt của phương pháp coblation
thấp hơn bình thường là do :
1. Dòng điện không trực tiếp qua mô trong
quá trình phẫu thuật, hầu hết năng lượng được
tiêu thụ trong lớp plasma để ion hóa lớp dịch này.
Sau đó những ion này mới công phá mô nên giảm
thiểu được lượng nhiệt vào mô.
2. Sự lưu thông của nước trong điện cực làm
hạ nhiệt độ của điện cực và làm lạnh mô xung
quanh điện cực, đồng thời nước làm giảm trở
kháng của mô (thể tích nước tại nơi đốt có ảnh
hưởng đến trở kháng của mô, trở kháng của mô
khô sẽ cao hơn mô ngậm nước) trở kháng mô thấp
cho phép tạo ra năng luợng cực đại đối với 1 thể
tích cắt lớn hơn.
Từ năm 2003 Bệnh viện đại học Y Dược Cơ
sở 2 là đơn vị đầu tiên trong cả nước đã đưa kỹ
thuật Coblation vào phẫu thuật tai mũi họng. Sau
một thời gian sử dụng chúng tôi nhận thấy đây là
một phương pháp phẫu thuật an toàn, hiệu quả.
Bệnh nhân ít mất máu, ít đau sau mổ và thời gian
lành thương nhanh.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng - Mắt 160
PHƯƠNG PHÁP - VẬT LIỆU NGHIÊN
CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu có can thiệp lâm sàng.
Làm bệnh án theo mẫu, bệnh nhân nhịn đói trước
mổ tối thiểu 6 giờ, vô cảm bằng gây mê nội khí
quản. Bệnh nhân nằm ngửa đầu cổ ngửa tối đa.
Sau mổ cho thuốc kháng sinh, giảm đau và chế độ
chăm sóc như nhau ở tất cả các bệnh nhân. Khi
mổ xong yêu cầu bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi
(theo mẫu) cho đến 21 ngày sau mổ. Hẹn bệnh
nhân tái khám sau một tuần, 3 tuần, 3 tháng, 6
tháng và 1 năm. Sau đó định kỳ đánh giá tình
trạng bệnh nhân qua điện thoại. Chúng tôi đánh
giá các thông số sau :
Thời gian mổ : tính từ lúc mở miệng bệnh
nhân cho đến lúc tháo banh miệng
Lượng máu mất trong mổ : lấy lượng nước và
máu trong bình hút có phân vạch, sau mổ trừ đi
lượng dung dịch NaCL 0,9% đã dùng.
Bảng thang đau dựa vào bảng trả lời câu hỏi
của bệnh nhân chia mức độ đau từ không đau đến
đau dữ dội nhất thành 10 mức độ, ngoài ra dựa
vào bảng này còn đánh giá các thông số khác như
ngày ăn uống trở lại bình thường, ngày sinh hoạt
làm việc trở lại, v.v... Đánh giá tình trạng hố mổ,
giả mạc bằng nội soi họng ống cứng.
Đối tượng nghiên cứu
Cỡ mẫu : 142 ca chọn ngẫu nhiên trong số
bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Cơ sở 2 có chỉ định cắt amiđan không hạn
chế tuổi và giới. Chỉ định cắt amiđan giống như
chỉ định trong các phương pháp cắt amiđan khác
chủ yếu là : amiđan tái đi tái lại trên 3 lần trong
một năm, viêm amiđan kèm viêm tai giữa, thấp
tim. Amiđan quá phát gây nuốt vướng hoặc khó
thở, ngủ ngáy, viêm amiđan gây hôi miệng không
đáp ứng với điều trị nội khoa, v.v...
Khi có chỉ định cắt amiđan bệnh nhân được cho
làm các xét nghiệm tiền phẫu, xquang phổi, đo điện
tim cho kết quả bình thường, đối với bệnh nhân nữ
dự đoán không có kinh trước và sau cắt 1 tuần.
Phương tiện nghiên cứu
Hệ thống coblator II của hãng ArthroCare
Mỹ, đầu đốt Evac T&A, hệ thống hút và máy gây
mê nội khí quản.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu đánh giá 142 bệnh nhân được cắt
amiđan trong thời gian nghiên cứu bằng phương
pháp coblation trong đó có 48 nam và 94 nữ.
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 29,30 (nhỏ nhất
là 10 và cao nhất là 62 độ lệch chuẩn 11,7).
Kỹ thuật cắt amiđan bằng coblator
Tương tự như các phẫu thuật cắt amiđan khác,
bệnh nhân nằm ngửa đầu ngửa tối đa (tùy theo
chiều cao của phẫu thuật viên, thói quen thao tác
mà đầu có thể ngửa ít hay nhiều sao cho phẫu
thuật viên nhìn rõ phẫu trường nhất và dễ dàng
thao tác nhất, thoải mái nhất để tránh mỏi tay ảnh
hưởng đến sự khéo léo của phẫu thuật viên) Phẫu
thuật viên ngồi trên đầu bệnh nhân, mở miệng
bằng banh David’s dùng allis kẹp khối amidan
kéo nhẹ vào trong sao cho bộc lộ được ranh giới
giữa a và trụ trước rõ nhất, dùng đầu cắt coblator
áp vào vị trí muốn cắt để cắt (set máy coblator ở
chế độ cắt 7 đốt 3). Do đầu đốt coblator khá lớn
(đường kính khoảng 3mm) nên để bảo vệ không
làm tổn thương trụ trước và trụ sau cũng như vết
cắt rộng quá chúng tôi đảo ngược đầu cắt để đầu
nhọn của điện cực tiếp xúc với mô sẽ tạo được
đường cắt sắc, mảnh như dao thông thường. Có
thể cắt amiđan từ dưới lên hoặc trên xuống tùy
theo đặc điểm của amiđan nằm trong hố : đối với
những amiđan có cực trên không nằm nấp sâu qua
trong hố hoặc những amiđan có cuống thì chúng
tôi cắt từ trên xuống còn đa phần cắt từ dưới lên.
Những amiđan
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007
Tai Mũi Họng 161
nằm núp sâu dưới trụ trước thì có thể dùng vén trụ
vén nhẹ nhàng ra để bộc lộ đường cắt tốt hơn. Nói
chung cắt bằng coblator người phụ chỉ hỗ trợ phẫu
thuật viên trong việc chuẩn bị dụng cụ.
Lượng máu mất trong mổ
Trung bình 7ml (1-60ml)
Thời gian phẫu thuật
Trung bình 18 phút (10-45 phút).
Tỷ lệ chảy máu sớm phải can thiệp
1,4% (2/142)
Tỷ lệ bệnh nhân chảy máu muộn cần phải trở
vào bệnh viện can thiệp là 0,7% (1/142).
Tình trạng đau sau mổ
Dựa vào bảng câu hỏi và sự tự đánh giá của bệnh
nhân cho kết quả như sau: ngày 1: 4 (1-8); ngày 2: 3
(1-8); ngày 3: 3 (0-7); ngày 4: 2,75 (0-6) ngày 5: 2,5
(0-6); ngày 6: 2 (0-6); ngày 7: 1,8 (0-6).
Thời gian ăn uống gần như bình thường (cháo,
cơm nhão): 3,12 ngày (1-8) và thời gian trở lại ăn
cơm bình thường là 6,80 ngày (3-17).
Thời gian trở lại làm việc: 3,23 ngày (1-12ngày)
và thời gian làm việc bình thường là 6,26 (1-12).
BÀN LUẬN
Tính an toàn và thuận tiện của phương
pháp phẫu thuật
Coblation là phương pháp phẫu thuật dùng
điện lưỡng cực ở tần số radio (500KHz) nên rất an
toàn: không có dòng điện chạy qua người nên hạn
chế được những tác hại của dòng điện đối với
toàn thân, có thể dùng được trên bệnh nhân đặt
máy tạo nhịp và máy phá rung (máy đốt đơn cực
không dùng được) và tần số dòng điện rất cao nên
so với giới hạn an toàn mà ở đó dòng điện gây hại
cho thần kinh cơ là 100KHz thì phương pháp này
thực sự an toàn cho bệnh nhân và e kíp phẫu
thuật. Hệ thống Coblator II dùng dao cắt 2 cực, vì
dao cắt, hệ thống hút và tưới nước đều nằm trên
tay phẫu thuật viên nên khi phẫu thuật phẫu thuật
viên vừa cắt vừa đốt và hút sạch phẫu trường nên
rút ngắn được thời gian phẫu thuật và khi cần có
thể không cần người phụ.
Thời gian phẫu thuật
18 phút tương tự như các phẫu thuật dùng dao
điện đơn cực nhưng nếu làm thành thạo có kinh
nghiệm thì thời gian này có thể rút ngắn hơn vì hệ
thống vừa cắt đốt vừa hút luôn nên không cần sự
hợp tác nhịp nhàng của người phụ hút. Máy làm
việc tốt trong môi trường nước là môi trường rất
thường gặp trong các phẫu thuật còn phương pháp
dao điện đơn cực phải hút khô mới hoạt động có
hiệu quả. Cũng do vừa cắt vừa hút nên phương
pháp này nhanh hơn phương pháp cắt bóc tách là
phương pháp có hai thì riêng biệt : cắt bỏ amiđan
xong rồi mới cầm máu.
Lượng máu mất trong mổ
7ml tương tự như các phương pháp cắt bằng dao
điện đơn cực nhưng ít hơn nhiều so với phương pháp
cắt bóc tách (30-80ml tùy tác giả) là do hệ thống
coblator vừa cắt vừa đốt nên gần như không chảy
máu, theo kết quả của chúng tôi thì lượng mất máu
càng giảm dần theo trình độ và sự quen với việc sử
dụng đầu đốt to như hệ thống coblator. Càng về sau
tỷ lệ các ca có số lượng máu mất <1ml càng nhiều và
chiếm đa số các ca phẫu thuật.
Tỷ lệ chảy máu muộn sau mổ
1 ca tỷ lệ 0,7% (1/142 ca) khá thấp, điều này
có thể là do hệ thống coblation hoạt động ở nhiệt
độ thấp nên ít bị tổn thương nhiệt đến mô lành
xung quanh (cơ xiết họng, mạch máu ở nền hố
amiđan ) nên ít gây hoại tử mô, mạch máu và
thành lập giả mạc. Giả mạc này sau đó tróc đi gây
ra chảy máu thứ phát.
Tình trạng đau sau mổ
Đau sau mổ là một trong những vấn đề bệnh
nhân quan tâm nhiều nhất và cũng là nỗi ám ảnh
lớn nhất của bệnh nhân sau cắt amiđan. Các
phương pháp trước đây nhất là phương pháp cắt
bằng dao điện đơn cực, laser bệnh nhân quá đau
sau mổ và đau kéo dài làm bệnh nhân không dám
ăn uống gây tình trạng suy kiệt và mất nước cho
bệnh nhân góp phần làm lâu lành vết thương.
theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi kết hợp với
kết quả của các nghiên cứu khác đã công bố cho
thấy phương pháp coblation rõ ràng ít gây đau sau
mổ hơn nhiều và đau ít ngày hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng - Mắt 162
Giá thành của phương pháp
Giá thành một đầu đốt coblation hiện nay còn
cao nên để phù hợp với tình hình Việt Nam chúng
tôi nghiên cứu việc tái sử dụng đầu đốt ( dùng 10
lần hoặc hơn) bằng cách tái sát trùng dụng cụ sau
mổ theo cách thức sau : dụng cụ sau khi sử dụng
được ngâm và rửa sạch bằng Cidezyme, lau và để
khô sau đó ngâm vào dung dịch CIDEX OPA
(ortho-Phthalaidehyde 0,55%) 0,05% trong 20
phút nên chi phí sử dụng là hoàn toàn phù hợp với
người Việt Nam.
Tình trạng lành thương và trở lại làm việc
ăn uống bình thường
Bệnh nhân trở lại ăn uống sớm, và nhanh
chóng trở lại làm việc bình thường rất có ý nghĩa
trong thời buổi làm việc công nghiệp bệnh nhân
không thể nghỉ làm việc lâu được. Điều này có
thể do mô lành ít bị tổn thương, bệnh nhân không
phải kiêng ăn lâu nên sức khỏe bệnh nhân nhanh
hồi phục và hố mổ mau lành.
KẾT LUẬN
Với những ưu điểm như : hệ thống phẫu thuật
dùng điện hai cực, sử dụng điện cực lạnh, nhiệt độ
cắt đốt thấp, hệ thống tưới nước và hút nằm trên
cùng một điện cực nên hệ thống phẫu thuật
coblation sử dụng trong cắt amidan hoạt động an
toàn, hiệu quả, ít gây mất máu trong mổ, không
gây đau sau mổ nhiều, thời gian lành thương
nhanh. Đây có thể là một phương pháp phẫu thuật
cắt amiđan tốt có nhiều hứa hẹn trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ArthroCare Corporation. Coblation (website). Sunnyvale, CA:
Arthrocare; 1999. Available at:
Accessed June 15, 1999.
2. Belloso A. et al (2003), Coblation tonsillectomy versus
dissection tonsillectomy: Postoperative hemorrhage.
Laryngoscope, 113(11):2010-2013.
3. Timms M.S., Temple R.H. (2002), Coblation tonsillectomy: A
double blind randomized controlled study, J Laryngol Otol,
116(6): 450-452.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_cat_amidan_bang_ky_thuat_coblation.pdf