Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận
thành công
Bảng 1. So sánh kết quả phẫu thuật với các tác giả
Nghiên cứu Thành
công (%)
Chuyển mổ mở
và nguyên nhân (%)
Nguyễn P. C.
Hoàng(10) 91,6% 8,4% (4,2% viêm d 4,2% chảy máu). ính nhiều;
Đỗ Trường Thành(5) 97,7% 2,3% do chảy máu
Dương Văn Trung(4) 85,7% 14,3% do rách phúc mạc
Gupta N. P.(6) 93,7% 6,3%
Cheema I. A.(1) 95,0% 5,0% (2,5% do chảy máu,
2,5% do viêm dính nhiều)
Hemal A. K.(8) 90,3% 9,7%
Chúng tôi 93,9 6,1% (đều do viêm dính
nhiều)
Từ bảng 1 cho thấy tỷ lệ thành công của
chúng tôi là tương tự với các tác giả khác. Qua
đó cho thấy PTNS sau phúc mạc cắt thận là một
phẫu thuật an toàn, tỷ lệ thành công cao và
nguyên nhân chuyển mổ mở hay gặp nhất là do
tình trạng viêm dính tại rốn thận cũng như
quanh thận(10,7,9).
Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: bệnh lý
gây thận mất chức năng, tình trạng bệnh nhân,
trình độ và kinh nghiệm của phẫu thuật viên
Trong 10 trường hợp đầu tiên thì cả 2 trường
hợp chuyển mổ mở đều xảy ra trong thời điểm
này và thời gian phẫu thuật kéo dài trung bình
đến 178,3 phút. Tuy nhiên trong 21 trường hợp
sau thì không có trường hợp nào chuyển mổ mở
và thời gian phẫu thuật trung bình được rút
ngắn còn 104,7 phút. Điều này phù hợp với các
nghiên cứu là đường cong tri thức trong kỹ
thuật này là rất quan trọng(7,11,12).
Thời gian hậu phẫu
Bảng 3. So sánh thời gian hậu phẫu với các tác giả
Nghiên cứu n Năm TG hậu phẫu TB (ngày)
Nguyễn P. C.
Hoàng(10) 24 2006 1,66 ± 0,63 ngày (1 – 3 ngày)
Đỗ Trường Thành(5) 86 2010 5,3 ± 1,7 ngày
Dương Văn Trung(4) 7 2008 3,5 ngày (3 – 5 ngày)
Gupta N. P.(6) 120 2010 3,9 ngày (3 – 6 ngày)
Cheema I. A(1) 351 2005 3,8 ngày (2 – 7 ngày)
Hemal A. K.(8) 185 2001 3 ngày (2 – 8 ngày)
Chúng tôi 31 2015 4,2 ± 1,1 ngày
(3 – 7 ngày)
Như vậy thời gian hậu phẫu của chúng tôi là
tương tự với các tác giả khác.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 36 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả cắt thận qua nội soi sau phúc mạc trong thận mất chức năng do bệnh lý lành tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
220
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT THẬN QUA NỘI SOI SAU PHÚC MẠC
TRONG THẬN MẤT CHỨC NĂNG DO BỆNH LÝ LÀNH TÍNH
Hoàng Đức Minh*, Nguyễn Văn Bình*, Trương Vĩnh Quý*, Phan Khánh Việt*
TÓM TẮT
Mục đích: Để đánh giá kết quả cắt thận qua nội soi sau phúc mạc trong thận mất chức năng do bệnh lý lành
tính từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 5 năm 2015.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi giới thiệu 33 trường hợp được phẫu thuật nội soi sau
phúc mạc cắt thận trong khoảng thời gian 29 tháng bắt đầu từ tháng 1 năm 2013. Chúng tôi ghi nhận thông tin
và phân tích, bao gồm tuổi, giới, chỉ định phẫu thuật, thời gian phẫu thuật, lượng máu mất, tai biến, tỷ lệ chuyển
mổ mở và biến chứng sau phẫu thuật.
Kết quả: Tuổi trung bình là 53,5 tuổi (29-71 tuổi). 18 nam và 15 nữ. 19 bên trái, 14 bên phải. Phẫu thuật
nội soi sau phúc mạc cắt thận thành công trong 31 trường hợp (93,9%). 2 trường hợp chuyển mổ mở (6,1%) đều
do tiếp cận khó khăn trong mổ. Thời gian phẫu thuật trung bình là 125,8 phút (70-215 phút), máu mất trung
bình trong mổ là 41,5ml (15-130 ml) và thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 4,2 ngày (3-7 ngày). 19,4%
biến chứng, không có biến chứng nặng. Không có trường hợp nào can thiệp lại sau mổ. Không có trường hợp nào
tử vong. Chỉ định cắt thận mất chức năng cho thận ứ nước là 18 trường hợp, thận teo là 8 trường hợp, thận lạc
chỗ là 2 trường hợp và thận đa nang trong 3 trường hợp.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận có thể được thực hiện an toàn và hiệu quả với ưu điểm
vượt trội trong điều trị thận mất chức năng do bệnh lý lành tính mà không chịu ảnh hưởng bởi nguyên nhân hay
sinh bệnh học.
Từ khóa: cắt thận, thận, bệnh lý lành tính, phẫu thuật nội soi sau phúc mạc.
ABSTRACT
EVALUATION OUTCOMES OF THE LAPAROSCOPIC RETROPERITONEAL NEPHRECTOMY
FOR BENIGN NON-FUNCTIONING KIDNEYS
Hoang Duc Minh, Nguyen Van Binh, Truong Vinh Quy, Phan Khanh Viet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 220 - 225
Purpose: To assess results of retroperitoneoscopy nephrectomy for benign non-function kidneys from
January 2013 to May 2015 at Quang Tri general hospital.
Materialsand Methods: The present study comprised 33 patients who underwent retroperitoneoscopic
nephrectomy during a 29 month period beginning from January 2013. Their data were entered into a database
and analyzed, including age, gender, indications for surgery, operative time, blood loss, intraoperative
complications, conversion rates and postoperative complications.
Results: Mean age of surgery was 53.5 years (29-71 years). 18 males and 15 females. 19 patients underwent
left nephrectomy; 14 underwent right nephrectomy. Retroperitoneoscopic nephrectomy were completed
successfully in 31 patients (93.9%). 2 patients required conversion to open surgery (6.1%), all by poor
progression. The mean operating time was 125.8 minutes (range 70 to 215), mean blood loss was 41.5 mL (range
15 to 130), and mean post-operation hospital stay was 4.2 days (range 3 to 7). A total of 19.4% complications, no
severe complications occurred. No re-intervention was needed. No mortality resulted. The indications for surgery
* Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Lê Đình Khánh ĐT: 0913453945 Email: ledinhkhanh@hotmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
221
included hydronephrosis in 18/31 cases, atrophic kidney in 8 cases, ectopic atrophic kidney in 2 cases, multicystic
kidney in 3 cases.
Conclusions: Retroperitoneoscopic nephrectomy can be performed safely and successfully with obvious
advantages for benign nonfunctioning kidneys regardless of the etiology or pathogenesis.
Key words: nephrectomy, kidney, benign, retroperitoneoscopy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thận mất chức năng là một bệnh lý đường
tiết niệu khá thường gặp và do nhiều nguyên
nhân khác nhau gây ra: viêm thận bể thận mạn,
bệnh lý thận do tắc nghẽn hoặc trào ngược, lao
thận, thận đa nang loạn sản, tăng huyết áp do
mạch máu thận, bệnh lý xơ cứng thận, tăng
huyết áp sau ghép thận, teo thận...(10,1)
Trước đây, phẫu thuật mở là thường quy
trong các phẫu thuật cắt thận(10,1). Vào năm 1990,
Clayman R. V. và cộng sự đã thực hiện thành
công cắt thận nội soi qua phúc đầu tiên trên thế
giới đối với bệnh nhân lớn tuổi với khối u thận
khoảng 3cm(2). Đến năm 1992, Gaurr lần đầu tiên
sử dụng bong bóng để bóc tách tạo khoang phẫu
thuật cho vùng sau phúc mạcmở ra hướng phát
triển cho phẫu thuật nội soi sau phúc mạc. Và
vào năm 1993, Gau D. áp dụng cắt thận nội soi
qua đường tiếp cận sau phúc mạc (8). Kể từ đó,
nhiều trung tâm tiết niệu lớn trên thế giới đã
ứng dụng phẫu thuật nội soi (PTNS) trong điều
trị nhiều bệnh lý thận tiết niệu lành tính cũng
như ác tính.
PTNS trong cắt thận có thể tiếp cận qua 2
đường: xuyên phúc mạc và sau phúc mạc(6,9).
Ở Việt Nam, PTNS sau phúc mạc đã được
ứng dụng điều trị các bệnh lý tiết niệu từ năm
2000, đến năm 2003 thì được ứng dụng trong cắt
thận lần đầu tiên tại bệnh viện Bình Dân(10), năm
2004 tại bệnh viện Việt Đức (5) và ngày càng được
ứng dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm tiết niệu
trên cả nước(10,5,4).
Tại khoa Ngoại Tổng hợp Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Quảng Trị, phẫu thuật nội soi đã được triển
khai từ năm 2005 và đã ứng dụng vào khá nhiều
lĩnh vực và nhiều mặt bệnh khác nhau như sản
khoa, tiêu hóa, tiết niệu, chấn thương, tai mũi
họng, răng hàm mặt,
Trong đó, phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
điều trị sỏi niệu quản đã được tiến hành từ năm
2007, đến 2009 thì được áp dụng đối với cắt thận
trong điều trị những bệnh lý lành tính gây mất
chức năng thận.
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá
sự an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi
sau phúc mạc trong điều trị thận mất chức
năng do các bệnh lý lành tính được thực hiện
từ tháng 1/2013 đến tháng 5/2015 tại Bệnh viện
của chúng tôi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 33 bệnh nhân được chẩn đoán thận mất
chức năng có biến chứng do các bệnh lý lành
tính và được điều trị bằng phẫu thuật cắt thận
qua nội soi sau phúc mạc tại khoa Ngoại Tổng
hợp bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị từ tháng
1 năm 2013 đến tháng 5 năm 2015.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
– Bệnh nhân có thận mất chức năng do bệnh
lý lành tính gây ra biến chứng: đau thắt lưng,
tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu máu, tiểu đục, tăng huyết
áp, nhiễm trùng đường tiểu dai dẳng, khám thấy
thận lớn, ....
– Chức năng thận còn lại còn tốt.
– Bệnh nhân được cắt thận qua PTNS sau
phúc mạc.
– Khám trước mê có ASA ≤ 3.
Tiêu chuẩn loại trừ
– Bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật
nội soi: có các bệnh lý tim mạch, hô hấp, rối loạn
đông chảy máu, nội tiết ...
– Bệnh lý thận ác tính.
– Nhiễm khuẩn thành bụng.
– Bệnh nhân có tiền sử mổ sau phúc mạc.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
222
– Nhiễm khuẩn tiết niệu tiến triển.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu, hồi
cứu có đối chứng.
Nội dung nghiên cứu
Mỗi bệnh nhân được phẫu thuật nội soi đều
được chúng tôi tư vấn trước mổ về những lợi ích
cũng như những nguy cơ mà phẫu thuật nội soi
có thể mang lại và khả năng chuyển sang phẫu
thuật mở trong những trường hợp không thể
tiếp tục phẫu thuật nội soi.
Tất cả bệnh nhân được ghi nhận thông tin
theo mẫu thống nhất bao gồm tiền sử, lý do vào
viện, bệnh sử, triệu chứng lâm sàng, các xét
nghiệm cận lâm sàng,siêu âm hệ tiết niệu, chụp
niệu đồ tĩnh mạch và chụp CLVT hệ tiết niệu có
thuốc.
Kỹ thuật nội soi sau phúc mạc điều trị sỏi bể
thận
Tư thế bệnh nhân và vị trí kíp mổ (hình 1)
– Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, tư
thế như phẫu thuật sỏi thận mở. Bàn mổ được
nghiêng về phía trước nhằm làm phúc mạc và
ruột đổ về phía trước và giảm nguy cơ tổn
thương khi đặt trocars.
– Phẫu thuật viên và người phụ đứng sau
lưng BN, đối diện với màn hình.
– Dụng cụ viên đứng dưới chân bệnh nhân.
Hình 1. Tư thế bệnh nhân
Vị trí đặt Trocars
– Trocar thứ nhất (camera) (10 mm) được đặt
gần đầu xương sườn XI, dưới xương sườn XII
(hình 2).
– Trocar thứ hai (10 mm) được đặt trên
đường mào chậu đường nách sau.
– Trocar thứ ba (5 mm) được đặt ở vị trí
đường nách trước sao cho 3 trocars tạo ra một
tam giác đều.
– Khi cần đặt trocar thứ 4: được dùng trong
các trường hợp khó, vị trí tùy từng trường hợp.
Tuy nhiên vị trí đặt trocars và số trocars có
thể thay đổi tùy theo tính chất của khối u cũng
như thói quen của phẫu thuật viên.
– Sau đó đặt trocar 10 mm đầu tù vào
khoang sau phúc mạc vừa tạo xong rồi bơm hơi
đến áp lực 12 – 13 mm.
Hình 2. Vị trí đặt Trocar thứ nhất
Kỹ thuật cắt thận qua phẫu thuật nội soi
sau phúc mạc
– Mở cân Gerota, định vị cơ thắt lưng chậu
để xác định cực dưới thận và niệu quản. Cực
dưới thận được di động và nâng lên để cho phép
tiếp cận rốn thận.
– Các mạch máu rốn thận được phẫu tích
bộc lộ. Xác định động, tĩnh mạch thận, kẹp cắt
bằng hem-o-lok động mạch thận trước sau đó
tĩnh mạch sau.
– Tiếp theo, niệu quản cũng được phẫu tích
và kẹp cắt.
– Cuối cùng, thận được di động toàn bộ khỏi
tổ chức mô xung quanh. Cũng có thể kẹp cắt
niệu quản, bóc tách thận trước rồi mới xử lý
mạch máu.
– Đưa bệnh phẩm vào bao. Đối với các
trường hợp thận ứ nước lớn có thể chủ động
chọc hút nước khi tiếp cận ban đầu để làm xẹp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
223
thận giúp cho quá trình thao tác được thuận
lợi hơn.
– Đặt dẫn lưu hố thận, lấy bệnh phẩm ra
ngoài, đóng các lỗ trocar.
Một số đặc điểm trong mổ
– Vị trí thận cắt bỏ: Bên trái; Bên phải.
– Số trocars sử dụng.
– Số lượng máu mất trong mổ (tính bằng
ml).
– Thay đổi kỹ thuật trong mổ: chuyển mổ
mở.
– Tai biến trong mổ.
– Thời gian phẫu thuật: được tính từ lúc bắt
đầu đặt trocars cho đến khi đóng xong các lỗ
trocars.
Theo dõi và điều trị sau mổ
– Mạch, nhiệt, huyết áp, màu sắc nước tiểu.
– Thời gian đau sau mổ (tính bằng ngày).
– Thời gian trung tiện (tính bằng ngày).
– Thời gian rút ống dẫn lưu khoang sau
phúc mạc (tính bằng ngày).
– Biến chứng sớm sau mổ.
– Thời gian hậu phẫu (tính bằng ngày).
Xử lí số liệu
Tất cả các trường hợp nằm trong tiêu
chuẩn chọn bệnh sẽ được ghi nhận vào phiếu
theo dõi và số liệu sẽ được xử lý bằng phần
mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Bệnh nhân
- Tuổi: trung bình là 53,5 ± 8,4 tuổi (29-71).
- Giới: Nam/nữ = 18/15.
Triệu chứng lâm sàng
Đau hông lưng 25/33 trường hợp (75,8%); Sốt
kèm đau hông lưng tái diễn chiếm 4/33 TH
(12,1%); Tăng huyết áp đơn thuần chiếm 4 TH
(12,1%), khám thấy thận lớn chiếm 12/33 trường
hợp (36,4%).
Quá trình phẫu thuật
- Phía cắt thận: Bên trái/ bên phải = 19/14.
- Số trocar sử dụng: 28/33 các trường hợp
đều sử dụng 3 trocar, gồm 2 trocar 10mm và 1
trocar 5mm (84,8%); có 5/33 TH đặt thêm 1 trocar
hỗ trợ (15,2%).
- Phẫu thuật thành công: 31/33 TH (93,9%).
- Chuyển phẫu thuật mở và nguyên nhân:
2/33 TH (6,1%): cả 2 TH đều do thận viêm dính ở
bể thận và xung quanh nhiều.
- Tai biến trong phẫu thuật: không có tai
biến nào nghiêm trọng.
- Số lượng máu mất trung bình: 41,5 ± 32,4
ml (15 – 130 ml).
- Thời gian phẫu thuật trung bình: 125,8 ±
42,5 (70 – 215 phút).
Theo dõi sau phẫu thuật
- Thời gian có nhu động ruột trung bình: 1,4
± 1,7 ngày (1 – 3 ngày).
- Thời gian rút ống dẫn lưu trung bình: 2,8 ±
1,3 ngày (2 – 5 ngày).
- Biến chứng hậu phẫu: 6 TH (19,4%): 3 TH
đau sau mổ; 2 TH sốt sau mổ; 1 TH tràn khí dưới
da. Tất cả các TH đều được điều trị nội khoa
thành công.
- Thời gian hậu phẫu trung bình: 4,2 ± 1,1
ngày (3 – 7 ngày).
Kết quả giải phẫu bệnh
Kết quả cho thấy chỉ định cắt thận gồm: ứ
nước mất chức năng do sỏi thận – niệu quản
chiếm 18/31 TH (58,1%); do thận teo là 8 TH
(25,8%), thận đa nang chiếm 3 TH (9,6%); thận
– niệu quản phụ mất chức năng chiếm 2 TH
(6,5%).
BÀN LUẬN
Tổng quan về cắt thận nội soi
PTNS cắt thận được thực hiện đầu tiên bởi
Clayman R. V. vào năm 1990 (2) và nổi lên như
một phương pháp lựa chọn hàng đầu trong
phẫu thuật cắt thận của các nhà tiết niệu. Chỉ
định cắt thận ngày càng được mở rộng từ cắt
thận đơn thuần trong các bệnh lý lành tính cho
đến cắt thận tận gốc và cắt thận niệu quản tận
gốc trong các bệnh lý ác tính(6).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
224
Nhiều nghiên cứu với số lượng lớn đã cho
thấy rằng phẫu thuật nội soi cắt thận có nhiều
ưu điểm nổi trội hơn so với phẫu thuật mở: giảm
đau sau mổ, giảm lượng máu mất,giảm biến
chứng trong mổ, thẩm mỹ và nhanh chóng hồi
phục sức khỏe hơn qua đó nâng cao chất lượng
cuộc sống sau phẫu thuật hơn. Thời gian nằm
viện trong PTNS giảm đến 50% và thời gian
quay hồi phục sức khỏe hoàn toàn là ngắn hơn
hẳn so với phẫu thuật mở. Với trình độ chuyên
môn và kinh nghiệm ngày càng tăng thì thời
gian phẫu thuật ngày càng được rút ngắn một
cách đáng kể. Chính vì vậy, ngày nay cắt thận
qua PTNS trở thành một lựa chọn đầu tiên trong
điều trị bệnh lý thận mất chức năng(5,1,3).
Lựa chọn phương pháp xuyên phúc mạc
hay sau phúc mạc?
Hiện nay vẫn còn sự tranh cãi về sự lựa chọn
đường tiếp cận xuyên phúc mạc hay sau phúc
mạc trong cắt thận. Sự lựa chọn thường phụ
thuộc vào kinh nghiệm cũng như thói quen của
phẫu thuật viên. Theo một số tác giả thì sử dụng
đường xuyên phúc mạc có ưu điểm là phẫu
trường rộng, dễ thao tác trong trong mổ. Tuy
nhiên nhược điểm lớn nhất là dễ gây tổn thương
ruột và nước tiểu có thể dò vào trong ổ bụng(4,2).
Theo nhiều tác giả thì phẫu thuật nội soi
sau phúc mạc có nhiều ưu điểm hơn so với
xuyên phúc mạc. Ưu điểm của đường tiếp cận
sau phúc mạc là giảm biến chứng tổn thương
các tạng trong ổ bụng, liệt ruột, dính ruột về
sau cũng như giảm nguy cơ dò nước tiểu và
nhiễm trùng lan rộng vào khoang phúc mạc.
Thêm nữa đường tiếp cận này giúp dễ dàng
bộc lộ rốn thận và bể thận ngay từ đầu, rất
thuận lợi trong những trường hợp thận viêm
mạn. Hạn chế của đường tiếp cận này là phẫu
trường hẹp, thao tác mổ khó khăn, thiếu các
mốc giải phẫu và đòi hỏi phẫu thuật viên phải
có đường cong tri thức sâu hơn(10,1,7,11,13).
Theo kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy
rằng phẫu thuật nội soi sau phúc mạc có thể
thực hiện đối với những những trường hợp thận
lớn ứ nước cũng như thận teo, viêm nhiều.
Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận
thành công
Bảng 1. So sánh kết quả phẫu thuật với các tác giả
Nghiên cứu
Thành
công (%)
Chuyển mổ mở
và nguyên nhân (%)
Nguyễn P. C.
Hoàng
(10)
91,6%
8,4% (4,2% viêm dính nhiều;
4,2% chảy máu).
Đỗ Trường Thành
(5)
97,7% 2,3% do chảy máu
Dương Văn Trung
(4)
85,7% 14,3% do rách phúc mạc
Gupta N. P.
(6)
93,7% 6,3%
Cheema I. A.
(1)
95,0%
5,0% (2,5% do chảy máu,
2,5% do viêm dính nhiều)
Hemal A. K.
(8)
90,3% 9,7%
Chúng tôi 93,9
6,1% (đều do viêm dính
nhiều)
Từ bảng 1 cho thấy tỷ lệ thành công của
chúng tôi là tương tự với các tác giả khác. Qua
đó cho thấy PTNS sau phúc mạc cắt thận là một
phẫu thuật an toàn, tỷ lệ thành công cao và
nguyên nhân chuyển mổ mở hay gặp nhất là do
tình trạng viêm dính tại rốn thận cũng như
quanh thận(10,7,9).
Thời gian phẫu thuật
Bảng 2. So sánh thời gian phẫu thuật với các tác giả
Nghiên cứu n Năm TG phẫu thuật TB (phút)
Nguyễn P. C. Hoàng
(10)
24 2006 127,1 ± 42,6 phút (30–230)
Đỗ Trường Thành
(5)
86 2010 124,6 ± 36 phút
Dương Văn Trung
(4)
7 2008 93 phút (75 – 150 phút)
Gupta N. P.
(6)
120 2010 125 phút (70 – 310 phút)
Cheema I. A
(1)
351 2005 129,3 (65 – 255 phút)
Hemal A. K.
(8)
185 2001 100 phút (45 – 240 phút)
Chúng tôi 31 2015 125,8 ± 42,5 (70 – 215 phút)
Qua bảng 2 cho thấy thời gian phẫu thuật
của chúng tôi là tương tự với các tác giả khác.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
225
Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: bệnh lý
gây thận mất chức năng, tình trạng bệnh nhân,
trình độ và kinh nghiệm của phẫu thuật viên
Trong 10 trường hợp đầu tiên thì cả 2 trường
hợp chuyển mổ mở đều xảy ra trong thời điểm
này và thời gian phẫu thuật kéo dài trung bình
đến 178,3 phút. Tuy nhiên trong 21 trường hợp
sau thì không có trường hợp nào chuyển mổ mở
và thời gian phẫu thuật trung bình được rút
ngắn còn 104,7 phút. Điều này phù hợp với các
nghiên cứu là đường cong tri thức trong kỹ
thuật này là rất quan trọng(7,11,12).
Thời gian hậu phẫu
Bảng 3. So sánh thời gian hậu phẫu với các tác giả
Nghiên cứu n Năm TG hậu phẫu TB (ngày)
Nguyễn P. C.
Hoàng
(10)
24 2006
1,66 ± 0,63 ngày
(1 – 3 ngày)
Đỗ Trường Thành
(5)
86 2010 5,3 ± 1,7 ngày
Dương Văn Trung
(4)
7 2008 3,5 ngày (3 – 5 ngày)
Gupta N. P.
(6)
120 2010 3,9 ngày (3 – 6 ngày)
Cheema I. A
(1)
351 2005 3,8 ngày (2 – 7 ngày)
Hemal A. K.
(8)
185 2001 3 ngày (2 – 8 ngày)
Chúng tôi 31 2015
4,2 ± 1,1 ngày
(3 – 7 ngày)
Như vậy thời gian hậu phẫu của chúng tôi là
tương tự với các tác giả khác.
KẾT LUẬN
Cắt thận qua PTNS sau phúc mạc là một
phẫu thuật an toàn và hiệu quả với ưu điểm
vượt trội so với phẫu thuật mở trong điều trị
thận bệnh lý lành tính mất chức năng: giảm đau
sau mổ, thời gian nằm viện ngắn ngày, hồi phục
sức khoẻ nhanh hơn và thẩm mỹ. Phẫu thuật
này đã trở thành lựa chọn đầu tay trong điều trị
bệnh lý thận lành tính tại nhiều trung tâm tiết
niệu lớn trên thế giới và cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cheema I. A., Manecksha R. P., Murphy M., Flynn R. (2010),
Laparoscopic Nephrectomy: Initial Experience with 120 cases,
Ir Med J., 103(2), pp. 49-51.
2. Clayman R. V. et al. (1991), Laparoscopic nephrectomy: initial
case report, J Urol,146, pp. 278-82.
3. Dunn M. D. et al. (2000), Laparoscopic versus open radical
nephrectomy: A 9-year experience, J Urol, 164, pp. 1153-9.
4. Dương Văn Trung (2008), Đánh giá kết quả bước đầu cắt thận
nội soi qua đường sau phúc mạc trong thận mất chức năng do
sỏi, In:
khoa-hoc/ngoai-tiet-nieu/144-cat-than-qua-noi-soi.
5. Đỗ Trường Thành, Lê Nguyên Vũ, Vũ Nguyễn Khải Ca,
Hoàng Long, Nguyễn Quang (2010), Kết quả cắt thận mất
chức năng bằng phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Việt Đức –
nhân 86 trường hợp, Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 375,
Phụbản số 2, tr. 250-254.
6. Gupta N. P. et Gautam G. (2005), Laparoscopic nephrectomy
for benign non functioning kidneys, J Minim Access Surg.,
1(4), pp. 149–154.
7. Gupta N. P., Goel R., Hemal A. K., Dogra P. N., Seth A., Aron
M., et al. (2004), Should retroperitoneoscopic nephrectomy be
the standard of care for benign non-functioning kidneys: An
outcome analysis based on experience of 449 cases in 5-year
period, J Urol., 172, pp.1411-3.
8. Hemal A. K., Gupta N. P., Wadhwa S. N., Goel A., Kumar R.
(2001), Retroperitoneoscopic nephrectomy and
nephroureterectomy for benign non functioning kidneys: A
single-center experience, Urology, 57, pp. 644.
9. Hemal A. K., Talwar M., Wadhwa S. N., Gupta N. P. (1999),
Retroperitoneoscopic nephrectomy for benign diseases of the
kidney. Prospective nonrandomized comparison with open
surgical nephrectomy,J Endourol., 13, pp. 425–3.
10. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Văn Ân,
Nguyễn Tế Kha, Ngô Đại Hải, Trần Thượng Phong, Trần
Quang Phúc (2006), Cắt thận qua nội soi sau phúc mạc trong
thận mất chức năng do bệnh lý lành tính: kinh nghiệm ban
đầu qua 24 trường hợp, Tạp chí y học Việt nam, số đặc biệt
tháng 2, tr. 269- 279.
11. Simon S. D., Castle E. P., Ferrigini R. G., Swanson S. K.,
Novicki D. E., Andrews P. E. (2004), Complications of
laparoscopic nephrectomy: the Mayo clinic experience, J Urol,
171, pp. 1447-50.
12. Siqueira T. M. et al. (2002), Major complications in 213
laparoscopic nephrectomy cases: The Indianapolis experience,
J Urol, 168, pp. 1361-5.
13. Rassweiler J., Frede T., Henkel T. O., Stock C., Alken P. (1998),
Nephrectomy: a comparativestudy between the
transperitoneal and retroperitoneal laparoscopic versus the
openapproach, Eur Urol,33, pp. 489-96.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_cat_than_qua_noi_soi_sau_phuc_mac_trong_tha.pdf