Gây xơ được coi là phương pháp ưu tiên hàng
đầu cho loại dị dạng tĩnh mạch có triệu chứng[1, 2], với
các loại chất gây xơ khác nhau được sử dụng tuỳ thuộc
điều kiện của từng cơ sở, phổ biến nhất là cồn tuyệt đối,
Ethibloc (hỗn hợp gồm cồn và đạm ngô), là loại chất gây
xơ ít tốn kém, và rất hiệu quả. Polidocanol (tên thương
mại Aetoxisclerol) là chất hoạt động bề mặt với cơ chế
tác dụng tương tự với cồn tuyệt đối nhưng với độc tính ít
hơn, đem lại hiệu quả điều trị tốt, và ít đau hơn [7]. Các
nghiên cứu gần đây về hiệu quả của polidocanol khi trộn
cùng với thuốc cản quang để nâng cao khả năng kiểm
soát khi tiêm xơ dưới máy chụp mạch.
Hiệu quả của phương pháp gây xơ được đánh
giá dựa trên kích thước của tổn thương và triệu chứng
quyết định điều trị. Tỉ lệ thành công của các phương
pháp điều trị cũng khác nhau tuỳ từng nghiên cứu,
nghiên cứu tổng hợp trên Cochran cũng cho thấy các
nghiên cứu có nhiều thiếu sót và không có đủ độ tin
cậy để dưa ra được phương pháp điều trị nào tốt hơn
phương pháp nào [7], trong đó phương pháp gây xơ
bằng polidocanol vẫn được coi là phương pháp chọn
lựa hàng đầu vì tính hiệu quả và kinh tế của nó [8].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị dị dạng tĩnh mạch nông bằng tiêm xơ dưới máy chụp mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201842
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỊ DẠNG
TĨNH MẠCH NÔNG BẰNG TIÊM XƠ DƯỚI
MÁY CHỤP MẠCH
Evaluation the result of flouroscopy-guided sclerotherapy
in treating superficial venous malformation
Lê Nguyệt Minh*, Cao Thị Hồng Yến*, GS.TS. Phạm Minh Thông*
Purpose: Describe imaging characteristics of superficial venous
malformation (VM) on flouroscopy and evaluate effectiveness of foam
sclerotherapy.
Method: Prospective cohort from november 2015 till may 2017 on 26
patients with VM treated by flouroscopy-guided sclerotherapy.
Results: 26 patients with VM were involved in our study: 15,4%
type I; 61,5% type II; 7,7% type III and 15,4% type IV. Malformation
dimensionwere reduced by mean of 41,3%, VM type I had 62,5% size
reduction; pain score were decreased by mean of 2,9 points (48,5%).
VM type IV had 26,7% dimension reduction and 30,8% painful ease. No
complication were noted.
Conclusion: Flouroscopy-guided sclerotherapy is a safe procedure to
reduce size and pain for patient with VM, particularly the most dimension
reduction in type I, the most pain ease in type II .
Keywords: venous malformation, sclerotherapy, flouroscopy-guided
* Khoa CĐHA
Bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/2018 43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị dạng tĩnh mạch là một loại dị dạng mạch máu
hay gặp. Một dị dạng tĩnh mạch được định nghĩa là dị
dạng đơn thuần có dòng chảy thấp và mạng lưới tĩnh
mạch bất thường, không có van[1]. Biểu hiện lâm sàng
rất đa dạng, chủ yếu là các khối mềm, ấn xẹp, không có
mạch đập, phần da phủ bên ngoài bình thường cho đến
những vết bớt màu xanh, tím hoặc đỏ không có triệu
chứng[2]. Tiến triển tự nhiên thường tăng kích thước
chậm và khá ổn định theo thời gian, hình thái và kích
thước thay đổi theo tư thế, chèn ép vào các cơ quan lân
cận gây đau và hạn chế vận động. Dị dạng tĩnh mạch
có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, nhưng
chủ yếu ở trong các mô mềm. Trong thập kỷ vừa qua,
các chuyên gia về tĩnh mạch trên thế giới đã có những
thống nhất về phân loại và chẩn đoán bằng siêu âm và
cộng hưởng từ, tuy nhiên chỉ định và hiệu quả điều trị
còn nhiều tranh cãi, trong đó quan trọng nhất là phương
pháp tiêm xơ. Chỉ định điều trị có thể đặt ra khi có ảnh
hưởng đến chức năng hoặc ảnh hưởng thẩm mỹ[3].
Tiêm xơ là phương pháp tiêm một chất gây kích
ứng, là phương pháp đầu tay cho điều trị dị dạng tĩnh
mạch, trong đó, cồn tuyệt đối là chất được sử dụng
phổ biến trong tiêm xơ qua da. Các biến chứng tại
chỗ như hoại tử da loét hay tổn thương thần kinh
cũng được nhắc đến. Từ sau khi sử dụng polidocanol
(Lauromacron 400), các dị dạng tĩnh mạch được điều trị
nhiều hơn, giảm thiểu các biến chứng[4]. Cùng với sự
phát triển của chụp mạch số hoá xoá nền và phân loại
dị dạng tĩnh mạch của Puig năm 2003[5], càng ngày
càng có nhiều báo cáo trên thế giới đánh giá hiệu quả
của phương pháp tiêm xơ dưới hướng dẫn máy chụp
mạch[6]. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện chưa có báo cáo
nào về phương pháp điều trị này. Do vậy, báo cáo này
được thực hiện nhằm mục đích mô tả các đặc điểm về
hình ảnh chụp mạch của các dị dạng tĩnh mạch và kết
quả điều trị bằng phương pháp tiêm xơ tại khoa Chẩn
đoán hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Từ năm 2015 cho đến nay, chúng tôi thực hiện
điều trị cho 40 trường hợp dị dạng tĩnh mạch, trong
đó có 26 trường hợp được thực hiện dưới máy chụp
mạch. Tất cả bệnh nhân đến khám vì các triệu chứng
lâm sàng như sưng, đau, hạn chế vận động, được thực
hiện siêu âm bằng đầu dò phẳng tần số cao (7-15Mhz)
để chẩn đoán và cộng hưởng từ có tiêm thuốc đối
quang từ để đánh giá kích thước và mức độ xâm lấn.
Để đánh giá hình thái của ổ dị dạng, tất cả bệnh nhân
này được chọc trực tiếp qua da kim 18G với thuốc cản
quang tan trong nước. Hình thái của ổ dị dạng và các
tĩnh mạch dẫn lưu được quan sát kỹ để đánh giá tĩnh
mạch dẫn lưu về tuần hoàn bình thường của cơ thể, và
được bác sỹ can thiệp nội mạch phân loại theo phân
loại của Puig và cộng sự dựa trên phân loại tĩnh mạch
dẫn lưu trong dị dạng động tĩnh mạch não [5]:
Hình 1. Phân loại dị dạng tĩnh mạch dựa vào hệ thống tĩnh mạch dẫn lưu [5].
- Tuýp I: dị dạng đơn độc không có
tĩnh mạch dẫn lưu.
- Tuýp II: dị dạng dẫn lưu về
tĩnh mạch bình thường
- Tuýp III: dị dạng dẫn lưu về
tĩnh mạch loạn sản
- Tuýp IV: dị dạng là
tĩnh mạch loạn sản
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201844
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Chỉ định tiêm xơ phụ thuộc vào động học của ổ
dị dạng, kèm theo garo đoạn chi có dị dạng tại vị trí
tĩnh mạch dẫn lưu trong tối thiểu 3 phút kể từ khi bơm
thuốc gây xơ vào ổ dị dạng. Quá trình tiêm bọt gây xơ
Aetoxisclerol có trộn với thuốc cản quang để kiểm soát
dưới máy chụp mạch, lượng thuốc tiêm xơ mỗi lần phụ
thuộc vào kích thước tổn thương, tuy nhiên không vượt
quá 4ml Aetoxisclerol 2% mỗi lần tiêm. Bệnh nhân sau
khi tiêm xơ được theo dõi ít nhất 2 tiếng và ra viện trong
ngày, theo dõi các biến chứng muộn qua các lần khám
lại định kỳ 1 tháng/lần. Thực hiện tiêm xơ bổ sung nếu
bệnh nhân còn triệu chứng (sưng, đau) và có đáp ứng
sau lần tiêm trước.
Kết quả điều trị được dựa trên các thông số:
- Kích thước lớn nhất của ổ dị dạng đo trên siêu
âm trước và sau khi điều trị, đơn vị centimet (cm).
- Tỷ lệ % kích thước ổ dị dạng giảm so với kích
thước ban đầu
- Điểm đau VAS – Visual Analog Scale trước và
sau khi điều trị.
- Tỉ lệ % điểm đau giảm so với điểm đau ban
đầu dựa vào thang điểm VAS – Visual Analog Scale.
Phương pháp nghiên cứu mô tả can thiệp tiến
cứu, không có nhóm chứng.
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để thống kê và
mô tả các đặc điểm về tuổi của bệnh nhân, vị trí tổn
thương, triệu chứng lâm sàng, số lần tiêm xơ, thời gian
theo dõi, đánh giá kết quả điều trị dựa vào mức độ giảm
kích thước (tính theo tỷ lệ % so với kích thước ban đầu)
và mức độ đauđược thống kê bằng thuật toán mô tả, so
sánh các giá trị trước và sau điều trị.
III. KẾT QUẢ
1. Các đặc điểm cơ bản của đối tượng nghiên
cứu:
Nhóm nghiên cứu bao gồm 26 bệnh nhân trong
đó có 20 nữ và 6 nam, được thông kê mô tả đặc điểm
về tuổi, kích thước ổ dị dạng và mức độ đau theo thang
điểm VAS trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu.
Tuổi
Kích thước
ổ dị dạng đo
được (cm)
Điểm đau
trước
điều trị
Số bệnh nhân 26 23 20
Giá trị nhỏ
nhất
12 0,8 3
Giá trị lớn
nhất
61 35,9 8
Giá trị trung vị 29 6,5 5,0
Trung bình
± SD
30,0 ± 12,5 7,6 ± 7,0 5,5 ± 1,2
Nhận xét: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu
là 30, bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 12, lớn nhất là 61,
không có sự khác biệt nhiều giữa giá trị trung vị (29)
và giá trị trung bình (30). Ổ dị dạng có kích thước trung
bình 7,6cm, lớn nhất là 35,9cm, nhỏ nhất 0,8cm. Kích
thước hay gặp là 6,5cm. Có 3 trường hợp không đo
được kích thước tổn thương là các trường hợp tĩnh
mạch dị dạng lan tỏa ở ngón tay. Có 20 bệnh nhân
có dấu hiệu đau trước khi điều trị, điểm đau từ 3 đến
8, trung bình là 5,5, ảnh hưởng đến sinh hoạt và chất
lượng cuộc sống ở mức độ nhẹ đến trung bình.
Biểu đồ 1. Phân bố vị trí dị dạng tĩnh mạch trong
26 bệnh nhân nghiên cứu
Nhận xét: Dị dạng tĩnh mạch điều trị chủ yếu ở
đầu mặt cổ (chiếm 39%) và ở chi thể (chi dưới chiếm
27%, chi trên chiếm 19%), dị dạng tĩnh mạch ở thân
gồm ở lưng và mông (có 4 bệnh nhân chiếm 15%).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/2018 45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. Đặc điểm hình ảnh của các loại dị dạng tĩnh mạch theo phân loại của Puig:
Bảng 2. Phân bố loại dị dạng theo vị trí của tổn thương
Tuýp 1 Tuýp 2 Tuýp 3 Tuýp 4 Tổng số Tỷ lệ %
Đầu mặt cổ 3 7 0 0 10 38,5
Chi thể 1 6 1 4 12 46,1
Thân 0 3 1 0 4 15,4
Tổng 4 16 2 4 26 100%
Nhận xét: Chiếm chủ yếu là loại 2 với ổ dị dạng dẫn lưu về tĩnh mạch bình thường của cơ thể (chiếm 61,5%),
tuýp I và tuýp IV có 4 trường hợp (chiếm 15,4%). Dị dạng tĩnh mạch ở vùng chi thể có thể gặp các loại tất cả các loại
dị dạng, hay gặp là tuýp II (chiếm 50%) và tuýp 4 (33%). Trong khi đó vùng đầu mặt cổ chỉ gặp tuýp I và II.
3. Đánh giá hiệu quả của phương pháp tiêm xơ có kiểm soát dưới máy chụp mạch
Không có biến chứng nào ghi nhận sau khi tiêm xơ. Kết quả sau điều trị được thể hiện ở các bảng 3, 4, 5.
Bảng 3. Kết quả sau khi tiêm xơ và theo dõi
Số ổ dị dạng Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
Trung bình
± SD
Số lần tiêm xơ 26 1 9 2,8± 2,0
Thời gian theo dõi (tháng) 26 1 18 6,0± 7,7
Kích thước trước điều trị (cm) 23 0,8 35,9 7,6 ± 7,0
Kích thước sau điều trị (cm) 23 0,6 22,4 4,2 ± 4,4
Kích thước giảm sau điều trị (%) 23 0 84,0 41,3 ± 22,9
Điểm đau sau điều trị 20 0 5 2,7± 1,5
Nhận xét: Có 2 trường hợp tuýp II và 1 trường hợp tuýp IV không đo được kích thước tổn thương (là các
trường hợp ổ dị dạng ở ngón tay). Thời gian theo dõi trung bình là 6 tháng, nhiều nhất là 18 tháng. Số lần tiêm xơ
nhiều nhất là 9 lần, trung bình là 2,8 lần. Có 02 trường hợp không giảm được kích thước sau điều trị (chiếm 8%).
Kích thước trung bình của tổn thương giảm từ 7,6 xuống còn 4,2cm; 41,3% so với kích thước ổ dị dạng ban đầu,
tối đa đạt 84%. Trong số 20 bệnh nhân có dấu hiệu đau, mức điểm đau sau khi điều trị trung bình là 2,7 điểm, có 3
bệnh nhân giảm đau hoàn toàn (chiếm 15%).
Bảng 4. Tỉ lệ % giảm kích thước ổ dị dạng sau điều trị giữa các tuýp
Phân loại Số ổ dị dạng Giá trị nhỏ nhất (%) Giá trị lớn nhất (%) Trung bình ± SD
Tuýp I 4 60,0 67,0 62,5 ± 3,1
Tuýp II 14 0 62,2 37,6 ± 21,1
Tuýp III 2 9,1 84,2 46,5 ± 53,0
Tuýp IV 3 17,3 38,2 26,7 ± 10,6
Tổng 23 0 84,0 41,3 ± 22,9
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201846
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét: Kích thước ổ dị dạng giảm được nhiều
nhất ở tuýp I (trung bình 62,5%) có ý nghĩa thống kê p
< 0,05, ngược lại tuýp IV kích thước ổ dị dạng giảm ít
nhất (26,7%). Không có trường hợp nào loại bỏ hoàn
toàn ổ dị dạng.
Bảng 5. Kết quả giảm đau sau điều trị giữa các tuýp
Phân loại Số ổ dị dạng Trung bình (VAS) ± SD Trung bình %± SD
Tuýp I 2 2,0 ±0,0 45,0 ± 7,1
Tuýp II 12 3,3±2,7 54,5 ± 34,6
Tuýp III 2 3,0± 1,4 48,6 ± 12,1
Tuýp IV 4 1,8±1,3 30,8 ± 21,7
Tổng
20
2,9 ± 2,3
(p < 0,001) 48,3 ± 29,5
Nhận xét: Trong số 20 bệnh nhân có dấu hiệu đau
được điều trị, mức độ đau giảm trung bình là 48,3%,
tương đương với mức điểm trung bình là 2,9 có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05. Mức độ đau giảm nhiều nhất là
tuýp II (khác biệt có ý nghĩa giữa tuýp II và tuýp I, tuýp IV),
mức độ đau giảm ít nhất ở nhóm bệnh nhân có dị dạng
tuýp IV tuy nhiên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05) với các tuýp I và III.Các bệnh nhân giảm đau
hoàn toàn đều có phân loại tuýp II trên chụp mạch.
IV. BÀN LUẬN
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Hầu hết bệnh nhân đều được chẩn đoán và điều
trị trong độ tuổi từ 20-30, nữ nhiều hơn nam. Ngoài
nguyên nhân ảnh hưởng thẩm mỹ khiến bệnh nhân
phải điều trị sớm, các triệu chứng đau, hạn chế vận
động chỉ ở mức độ trung bình góp phần trì hoãn quyết
định can thiệp. Đây cũng là chống chỉ định tương đối
cho điều trị ở trẻ em, trong nghiên cứu của chúng tôi,
bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 12 tuổi, chỉ định can thiệp là
ảnh hưởng thẩm mỹ.
2. Đặc điểm của loại dị dạng theo phân loại
trên chụp mạch
Theo phân loại ISSVA về bất thường mạch máu,
dị dạng tĩnh mạch thuộc nhóm bất thường của mạch
máu có lưu lượng dòng chảy thấp, ít gây những biến
chứng nặng nề về tuần hoàn, không có các tế bào
tăng sinh, và không dễ dàng phát hiện ngay từ lúc mới
sinh, phát triển theo sự phát triển của cơ thể, không
thấy ghi nhận thoái hoá ác tính, biến chứng hay gặp
nhất là huyết khối, gây thiểu dưỡng mô xung quanh,
ảnh hưởng thẩm mỹ. Có một số phân loại dị dạng tĩnh
mạch trên lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ hoặc dựa
trên hình ảnh chụp ổ dị dạng qua tiêm trực tiếp (direct
percutanoeous puncture)[7].
Hình 1. Bệnh nhân nữ 26 tuổi, khối nổi phồng và đau vùng giữa lưng nhiều năm. (a) Hình ảnh ổ dị dạng phát
hiện dưới cộng hưởng từ. (b) Hình ảnh ổ dị dạng dưới máy chụp mạch thấy có tĩnh mạch dẫn lưu nhỏ dưới da, không
thấy đổ về tĩnh mạch tuỷ, phân loại tuýp II.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/2018 47
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Theo tác giả Puig và cộng sự, 4 tuýp của dị dạng
tĩnh mạch phân loại dựa trên sự khác biệt về tĩnh mạch
dẫn lưu của ổ dị dạng. Phân loại dị dạng này phụ thuộc
hoàn toàn vào việc chụp dưới máy chụp mạch và kinh
nghiệm của người bác sỹ làm can thiệp mạch máu vì
giải phẫu của hệ thống tĩnh mạch tại vị trí tổn thương
thay đổi rất nhiều. Mặt khác, tiền sử can thiệp phẫu
thuật góp phần làm thay đổi tính chất động học của tổn
thương, có thể chia cắt một ổ dị dạng thành nhiều ổ
khác nhau (hình 2), hoặc làm biến mất tĩnh mạch dẫn
lưu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuýp II chiếm đa
số (61,5%) (hình 1); tuýp I, dị dạng tĩnh mạch đơn độc
không có tĩnh mạch ngoại vi dẫn lưu; tuýp II, dị dạng
dẫn lưu về tĩnh mạch bình thường; tuýp III, dị dạng dẫn
lưu về tĩnh mạch giãn; và tuýp IV - dị dạng biểu hiện là
giãn tĩnh mạch loạn sản [5], trong nghiên cứu của Puig
và một số nghiên cứu gần đây về dị dạng tĩnh mạch
trên máy chụp mạch không có sự khác biệt giữa các
nhóm [5, 6]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có một
bác sỹ điện quang đánh giá tĩnh mạch dẫn lưu và phân
loại, đây cũng là một hạn chế so với các nghiên cứu
khác cần có ít nhất hai bác sỹ can thiệp đánh giá độc
lập để thống nhất phân loại.
3. Đánh giá hiệu quả của phương pháp tiêm
xơ có kiểm soát dưới máy chụp mạch
Việc điều trị bằng tiêm xơ dưới hướng dẫn của
các phương pháp chẩn đoán hình ảnh đóng vai trò
rất quan trọng, kiểm soát vị trí tiêm, hạn chế các biến
chứng do thoát thuốc gây xơ ra khỏi mạch máu cũng
như các biến chứng liên quan đến thuốc gây xơ vào hệ
tuần hoàn gây huyết khối trung tâm. Phân loại của Puig
cũng được công nhận và sử dụng khá rộng rãi do giá
trị thực tiễn của nó [2]. Phân loại này đem lại khả năng
tiên lượng về khả năng đáp ứng điều trị cũng như các
biến chứng có thể xảy ra [5]. Tuy nhiên, hiệu quả của
phương pháp gây xơ vẫn còn rất nhiều tranh cãi và chỉ
có một vài báo cáo và phụ thuộc vào yếu tố khác, như
vị trí tổn thương trong khoang của cơ thể [1, 8]. Nghiên
cứu của chúng tôi có 92% trường hợp đều thu nhỏ kích
thước tổn thương sau điều trị, 02 trường hợp không ghi
nhận được thay đổi kích thước là trường hợp dị dạng
ở bàn ngón tay, và một trường hợp tổn thương lan toả
xen lẫn xơ mỡ không thoái triển sau khi tiêm xơ các
mạch dị dạng thuộc tuyp IV. Trong số 20 bệnh nhân chỉ
định điều trị vì đau, tất cả đều giảm được điểm đau ở
các mức độ khác nhau (100%).
Hình 2. Bệnh nhân nam 45 tuổi, khối nổi phồng, đau vùng lưng và mạn sườn bên trái (a), có kèm theo bớt mao
mạch dưới da màu tím, tiền sử mổ hai lần. Chụp mạch (b) thấy ổ dị dạng có tĩnh mạch dẫn lưu giãn đổ về tĩnh
mạch nách, phân loại tuýp III. Ổ dị dạng khác vùng mạn sườn (c) gồm các tĩnh mạch loạn sản, phân loại tuyp IV.
Gây xơ được coi là phương pháp ưu tiên hàng
đầu cho loại dị dạng tĩnh mạch có triệu chứng[1, 2], với
các loại chất gây xơ khác nhau được sử dụng tuỳ thuộc
điều kiện của từng cơ sở, phổ biến nhất là cồn tuyệt đối,
Ethibloc (hỗn hợp gồm cồn và đạm ngô), là loại chất gây
xơ ít tốn kém, và rất hiệu quả. Polidocanol (tên thương
mại Aetoxisclerol) là chất hoạt động bề mặt với cơ chế
tác dụng tương tự với cồn tuyệt đối nhưng với độc tính ít
hơn, đem lại hiệu quả điều trị tốt, và ít đau hơn [7]. Các
nghiên cứu gần đây về hiệu quả của polidocanol khi trộn
cùng với thuốc cản quang để nâng cao khả năng kiểm
soát khi tiêm xơ dưới máy chụp mạch.
Hiệu quả của phương pháp gây xơ được đánh
giá dựa trên kích thước của tổn thương và triệu chứng
quyết định điều trị. Tỉ lệ thành công của các phương
pháp điều trị cũng khác nhau tuỳ từng nghiên cứu,
nghiên cứu tổng hợp trên Cochran cũng cho thấy các
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 30 - 4/201848
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nghiên cứu có nhiều thiếu sót và không có đủ độ tin
cậy để dưa ra được phương pháp điều trị nào tốt hơn
phương pháp nào [7], trong đó phương pháp gây xơ
bằng polidocanol vẫn được coi là phương pháp chọn
lựa hàng đầu vì tính hiệu quả và kinh tế của nó [8].
V. KẾT LUẬN
Tiêm xơ dưới hướng dẫn máy chụp mạch là
phương pháp an toàn làm giảm bớt kích thước và giảm
đau cho bệnh nhân có dị dạng tĩnh mạch, trong đó kích
thước ổ dị dạng giảm nhiều nhất ở tuýp I, giảm đau
nhiều nhất ở tuýp II.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dubois, J., et al., Soft-tissue venous malformations in adult patients: imaging and therapeutic issues.
Radiographics, 2001. 21(6): p. 1519-31.
2. Jarrett, D.Y., M. Ali, and G. Chaudry, Imaging of vascular anomalies. Dermatol Clin, 2013. 31(2): p. 251-66.
3. Enjolras, O. and J.B. Mulliken, The current management of vascular birthmarks. Pediatr Dermatol, 1993. 10(4):
p. 311-3.
4. Nguyễn Hồng Hà, T.X.T., Trần Thị Thanh Huyền, Vũ Trung Trực, Bùi Mai Anh, Đào Văn Giang, Đỗ Thị Ngọc
Linh, Kết quả bước đầu điều tị tiêm xơ dị dạng tĩnh mạch bằng Polidocanol. Y học Thực hành - Journal of
Practical Medicine, 2013. 5(869): p. 85-88.
5. Puig, S., et al., Classification of venous malformations in children and implications for sclerotherapy. Pediatr
Radiol, 2003. 33(2): p. 99-103.
6. Li, J., et al., Digital subtraction angiography-guided percutaneous sclerotherapy of venous malformations with
pingyangmycin and/or absolute ethanol in the maxillofacial region. J Oral Maxillofac Surg, 2010. 68(9): p. 2258-66.
7. Behravesh, S., et al., Venous malformations: clinical diagnosis and treatment. Cardiovasc Diagn Ther, 2016.
6(6): p. 557-569.
8. van der Vleuten, C.J., et al., Effectiveness of sclerotherapy, surgery, and laser therapy in patients with venous
malformations: a systematic review. Cardiovasc Intervent Radiol, 2014. 37(4): p. 977-89.
TÓM TẮT
Mục đích: Mô tả đặc điểm hình ảnh của dị dạng tĩnh mạch (DDTM) nông trên chụp mạch và đánh giá hiệu quả điều trị
bằng bọt gây xơ.
Phương pháp: nghiên cứu tiến cứu mô tả từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 5 năm 2017, có 26 bệnh nhân DDTM được
điều trị bằng phương pháp gây xơ dưới máy chụp mạch.
Kết quả: Có 26 bệnh nhân DDTM được điều trị bằng phương pháp tiêm xơ dưới máy chụp mạch, có 15,4% tuýp I; 61,5% tuýp
II; 7,7% tuýp III và 15,4% tuýp IV. Kích thước dị dạng giảm trung bình 41,3%, tuýp I giảm 62,5%; mức độ đau giảm trung bình 2,9
điểm(48,5%). Dị dạng tuýp IV có tỉ lệ giảm kích thước là 26,7% và giảm đau 30,8%. Không có biến chứng nào được ghi nhận.
Kết luận: Tiêm xơ dưới hướng dẫn chụp mạch là phương pháp an toàn làm giảm bớt kích thước và giảm đau cho bệnh
nhân có DDTM, trong đó kích thước ổ dị dạng giảm nhiều nhất ở dị dạng tuýp I, giảm đau nhiều nhất ở tuýp II.
Từ khoá: Dị dạng tĩnh mạch nông, tiêm xơ, chụp mạch
Ngày nhận bài: 10.1.2018. Ngày chấp nhận đăng: 30.3.2018
Người liên hê: Lê Nguyệt Minh. Khoa CĐHA bệnh viện Bạch Mai. Email: lnminh85@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_di_dang_tinh_mach_nong_bang_tiem_x.pdf