Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh
nhân hậu phẫu nhẹ nhàng và phục hồi sinh hoạt cá
nhân sớm, đánh giá theo thang điểm VAS ở ngày
thứ 1 có 6 trường hợp đau độ III chiếm 19,4% và 25
trường hợp đau độ II chiếm 80,6%.
Thời gian nằm viện trung bình là 3,9 ± 1,4
ngày, ngắn nhất là 2 ngày và dài nhất là 7 ngày. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi có thời gian nằm viện hậu
phẫu tương đương so với nghiên cứu của tác giả Shuo
Yang là 3,9 ± 1,1 ngày [17], Phan Đình Tuấn Dũng về
phẫu thuật TEP có thời gian nằm viện hậu phẫu là 4,4
± 1,3 ngày[1]. Nhiều tác giả nhận thấy phẫu thuật nội
soi phẫu tích nhẹ nhàng hơn, ít đau sau phẫu thuật,
có thời gian phục hồi sinh hoạt cá nhân ngắn hơn nên
bệnh nhân có thể ra viện sớm, bước đầu nhận thấy
phẫu thuật TAPP là 1 phương pháp an toàn, giảm đau
sau phẫu thuật và bệnh nhân được rút ngắn thời gian
hậu phẫu. Tại thời điểm tái khám 1 tháng đánh giá
thời gian trở lại hoạt động bình thường sau ra viện
0 - 7 ngày có 7 bệnh nhân (22,6%), từ 8 - 14 ngày có
23 bệnh nhân (74,2%) và 1 trường hợp tới tuần thứ
3 bình phục. Như vậy, đa số các bệnh nhân trở lại các
hoạt động bình thương ở thời điểm tuần thứ 2 sau ra
viện (8 - 15 ngày) điều này giống với kết quả của tác
giả Sharma là 11,8 ± 2,35 ngày[14].
Tại thời điểm 3 tháng tất cả các bệnh nhân không
có trường hợp nào có biểu hiện thoát vị tái phát, có
1 trường hợp có cảm giác tê nhẹ ở vùng bẹn bìu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn ở người lớn bằng phẫu thuật nội soi xuyên thành bụng đặt tấm nhân tạo ngoài phúc mạc tại Bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thanh Xuân, email: thanhxuanbvh@gmail.com
Ngày nhận bài: 9/12/2019; Ngày đồng ý đăng: 16/4/2020
Đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn ở người lớn bằng phẫu thuật nội
soi xuyên thành bụng đặt tấm nhân tạo ngoài phúc mạc tại Bệnh viện
Trung ương Huế cơ sở 2
Nguyễn Thanh Xuân, Lê Đức Anh
Khoa Ngoại Tổng hợp, Bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Phẫu thuật thoát vị bẹn là phẫu thuật phổ biến trong ngoại khoa, đặc biệt lĩnh vực ngoại tiêu
hoá. Từ khi phẫu thuật nội soi ra đời và ứng dụng tấm nhân tạo trong điều trị thoát vị bẹn, đã có những thay
đổi trong thập kỷ qua về điều trị thoát vị bẹn. Phẫu thuật nội soi đặt tấm nhân tạo đường xuyên phúc mạc
TAPP (Trans-Abdominal Pre-Peritoneal) là một kỹ thuật điều trị hiệu quả, an toàn cho bệnh nhân trong điều
trị thoát vị bẹn và phương pháp này cũng có đường cong huấn luyện ngắn nên được nhiều phẫu thuật viên
trẻ lựa chọn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, lâm sàng mô tả, theo dõi dọc 31
bệnh nhân với 34 trường hợp thoát vị bẹn được phẫu thuật TAPP tại Bệnh viện TW Huế cơ sở 2 từ 12/2018
đến 05/2019. Kết quả:Tuổi trung bình 60,4 ± 11,85 tuổi. Nam chiếm 96,8%. 25,8% có yếu tố nguy cơ nội khoa.
Thoát vị bẹn nghẹt 2,9%. Thoát vị bẹn cầm tù 8,8%. Thời gian phẫu thuật trung bình một bên 57,1 ± 17,3
phút. Thời gian phẫu thuật trung bình hai bên 80,3 ± 10,6 phút. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 3,9 ±
1,4 ngày. Phát hiện 2 trường hợp thoát vị bẹn đối bên. Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật 90,4% trường
hợp tốt. Sau 3 tháng 96,8% trường hợp tốt; có 1 trường hợp rối loạn cảm giác vùng bẹn (3,2%); không có
trường hợp nào tái phát. Kết luận:TAPP là một phẫu thuật an toàn, hiệu quả có thể ứng dụng rộng rãi ở các
tuyến.
Từ khoá: thoát vị bẹn, TAPP, nội soi , tấm nhân tạo.
Abstract
Outcome evaluation of laparoscopic transabdominal pre-peritoneal
technique in adult patients with inguinal hernia repair at the Hue
Central Hospital - Branch 2
Nguyen Thanh Xuan, Le Duc Anh
General Surgery Departerment, Hue Central Hospital-Branch 2
Background: Inguinal hernia repair is one of the most commonly performed operation in general
surgery, espescially degestive field. Since the introduction of laparoscopic repair and application of synthetic
mesh to inguinal hernia treatment, the trends have changed in the last decade in treatment for inguinal
hernia. The laparascopic trans-abdominal pre-peritoneal (TAPP) is a technique safe, effective for patients
in repair inguinal hernias and the procedure also has a short learning cure, has been the first choice for
young surgeons. Materials: Study participants included 31 patients with 34 inguinal hernia cases treated by
laparoscopic trans-abdominal pre-peritoneal (TAPP) technique at the Hue Central Hospital – Branch 2 from
12/2018 though 5/2019. Methods: Descriptive and prospective follow-up study. Result: The mean age was
60.4 ± 11.85. 96.8% were male. 25.8% of patients had preoperative risk factors. Strangulated hernia and
incarcerated hernia respectively accounted for 2.9% and 8.8% among cases. The mean durations of unilateral
inguinal hernia repair and bilateral inguinal repair were 57.1 ± 17.3 mins and 80.3 ± 10.6 mins, respectively.
Mean duration of postoperative stay was 3.9 ± 1.4 days. 1 case (3.2%) with contralateral inguinal hernia
were detected. An early and 3-months postoperative evaluation showed 90.4% and 96.8% cases catergorized
“very good”, respectively. At 3-months evaluation, 2 cases were reported with sensation disorder of inguinal
area and there was no recurrence. Conclusion: TAPP is a safe and effective surgical technique; should be
encouraged and widely applied.
Key words: Inguinal hernia repair, pre-peritoneal (TAPP), synthetic mesh
DOI: 10.34071/jmp.2020.2.3
21
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn là bệnh lý ngoại khoa thường gặp ở
các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bệnh
có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tỷ lệ mắc bệnh khoảng
25% ở nam và 2% ở nữ[13].
Các phẫu thuật tái tạo thành bụng để điều trị
thoát vị bẹn sử dụng mô tự thân là phương pháp
xuất hiện và phổ biến rộng rãi đầu tiên trong lịch sử.
Tuy nhiên, các loại phẫu thuật sử dụng mô tự thân
này có các nhược điểm liên quan đến căng đường
khâu đối với khối thoát vị to, bệnh nhân có thành
bụng yếu, bệnh nhân bị thoát vị 2 bên. Vì thế, người
ta sử dụng tấm lưới nhân tạo để tăng cường sự vững
chắc thành sau ống bẹn vào điều trị thoát vị bẹn[3].
Ngày nay, phẫu thuật nội soi điều trị thoát vị bẹn
được áp dụng rộng rãi vì tính chất ít xâm nhập và có
kết quả tốt[18]. Phương pháp được ứng dụng nhiều
nhất trên thế giới hiện nay là xuyên ổ bụng đặt tấm
nhân tạo trước phúc mạc (TAPP: TransAbdominal
PrePeritoneal) và đặt tấm nhân tạo hoàn toàn ngoài
phúc mạc (TEP: Totally Extra Peritoneal)[6][9][12]
[17]. Phẫu thuật TAPP có sự quan sát giải phẫu vùng
bẹn dễ dàng để phẫu tích và đường cong huấn luyện
ngắn. TAPP có ưu thế để tầm soát thoát vị bẹn đối
bên chưa có triệu chứng và điều trị thoát vị bẹn
cầm tù, thoát vị bẹn nghẹt [6],[7]. Tuy nhiên các
biến chứng, tai biến liên quan đến đường vào phúc
mạc, thoát vị, dínhlà mối quan tâm của nhiều phẫu
thuật viên.
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi điều trị thoát
vị bẹn đã được thực hiện ở một số trung tâm phẫu
thuật. Tại Huế, phẫu thuật nội soi điều trị thoát vị bẹn
đã được nghiên cứu, áp dụng những năm gần đây với
phương pháp TEP là chủ yếu, nghiên cứu về phương
pháp TAPP còn ít.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn ở người lớn
bằng phẫu thuật nội soi xuyên thành bụng đặt tấm
nhân tạo trước phúc mạc tại Bệnh viện Trung ương
Huế cơ sở 2”
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 31 bệnh nhân với 34 trường hợp thoát vị
bẹn (3 bệnh nhân thoát vị bẹn 2 bên) được phẫu
thuật nội soi đặt tấm nhân tạo đường xuyên phúc
mạc theo phương pháp TAPP tại Bệnh viện Trung
ương Huế cơ sở 2 từ tháng 12 năm 2018 đến tháng
05 năm 2019.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Trên 18 tuổi.
- Thoát vị bẹn được chẩn đoán dựa vào khám
lâm sàng và siêu âm (thể trực tiếp, gián tiếp, phối
hợp, tái phát, cầm tù, nghẹt).
- Được chỉ định phẫu thuật TAPP.
- ASA: loại I, II, III.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Thoát vị bẹn nghẹt đến muộn sau 6 giờ hoặc có
biểu hiện viêm phúc mạc.
- Thoát vị bẹn tái phát sau phẫu thuật bằng phương
pháp TEP, TAPP.
- Vết mổ cũ dưới rốn, xuyên phúc mạc, xạ trị, viêm
nhiễm trùng vùng chậu bẹn.
- Bệnh nhân có bệnh nội khoa nặng kèm theo
như: Basedow chưa ổn định, tiểu đường nặng có
biến chứng, đau thắt ngực không ổn định, suy thận,
lao phổi tiến triển, rối loạn đông chảy máu nặng.
- Bệnh nhân tăng áp lực ổ bụng do xơ gan cổ
trướng, đang thẩm phân phúc mạc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu mô tả lâm sàng, theo dõi
dọc.
Nội dung nghiên cứu
Đặc điểm chung, lâm sàng, cận lâm sàng của
bệnh nhân thoát vị bẹn.
Phân loại thoát vị bẹn theo EHS (European
Hernia Society), theo biến chứng.
Phân loại sức khỏe theo ASA, đánh giá đau sau
mổ theo VAS.
Đánh giá kết quá sau mổ, tái khám 1 tháng và 3
tháng.
Kỹ thuật mổ:
Phương pháp vô cảm: Gây mê nội khí quản.
Tư thế: Nằm ngửa, đầu thấp, tay bệnh nhân đối
bên với bên thoát vị khép vào thân mình.
Đặt trocar 10 mm vào ổ phúc mạc vị trí trên hoặc
dưới rốn, đưa kính soi phẫu thuật vào khoang phúc
mạc tiến hành quan sát đánh giá vị trí thoát vị, tạng
thoát vị, phân loại thoát vị và đánh giá tình trạng
thoát vị đối bên nếu có.
Đặt 2 trocar 5 mm vào 2 bên bờ ngoài cơ thẳng
bụng ngang với vị trí trocar 10 mm, tiến hành đưa
dụng cụ dissector và kéo phẫu tích qua 2 trocar 5
mm.
Giải phóng tạng thoát vị trước khi phẫu tích đối
với thoát vị bẹn nghẹt hoặc cầm tù. Kiểm tra đánh
giá tạng thoát vị sau khi được giải phóng.
Đánh dấu đường mở phúc mạc từ bờ trong gai
chậu trước trên, khoảng 3-4 cm trên mái vòm lỗ bẹn
sâu, từ ngoài vào trong cho đến nếp rốn bên. Phẫu
tích mở phúc mạc thành bụng theo vị trí đã đánh
dấu.
Tách phúc mạc cho tới lỗ bẹn sâu, ra khỏi bó
mạch thượng vị dưới, phía trong bộc lộ dây chằng
Cooper, tách túi thoát vị ra khỏi thành bụng (thoát vị
bẹn trực tiếp), tách ra khỏi thừng tinh, hoặc thắt túi
thoát vị (thoát vị bẹn gián tiếp).
22
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Đặt tấm nhân tạo kích thước 10 x 15 cm vào
khoang trước phúc mạc vừa tạo ra, che phủ lỗ thoát
vị, lỗ bẹn sâu và thành sau ống bẹn.
Cố định tấm nhân tạo bằng protack. Đóng phúc
mạc.
Xả khí, đóng các lỗ troca.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm bệnh nhân
n = 31 %
Tuổi trung bình 60,4 ± 11,85 (47-88)
Nam 30 96,8
Nữ 1 3,2
Yếu tố nguy cơ n = 31
Táo bón mạn tính 1 3,2
Tắc nghẽn đường tiểu dưới 6 19,4
COPD 1 3,2
Thoát vị bẹn đã phẫu thuật 5 16,1
Phân loại ASA n = 31
Độ I 23 74,2
Độ II 8 25,8
3.2. Đặc điểm thoát vị bẹn
%
Phân loại n = 34
Nguyên phát 30 88,2
Tái phát 4 11,8
Hình thái n = 34
Chưa biến chứng 30 88,2
Cầm tù 3 8,8
Nghẹt 1 2,9
Vị trí n = 31
Bên phải 17 54,8
Bên trái 11 35,5
Hai bên 3 9,7
Thể thoát vị n = 34
Trực tiếp 19 55,9
Gián tiếp 11 32,3
Phối hợp 4 11,8
3.3. Kết quả phẫu thuật
n = 31 %
Thời gian phẫu thuật 1 bên 57,1 ± 17,3 phút (20 - 110)
Thời gian phẫu thuật 2 bên 80,3 ± 10,6 phút (75 - 125 )
Thoát vị bẹn đối bên 2
Giải quyết bệnh kèm 0
23
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Đau sau mổ VSA (ngày đầu tiên)
Độ 3 13 41,9
Độ 2 18 58,1
Thời gian nằm viện sau mổ 3,9 ± 1,4 ngày (2-7)
Biến chứng sau mổ n = 31
Tràn khí dưới da 2 6,4
Bí tiểu 1 3,2
Viêm thừng tinh 1 3,2
Tụ dịch vùng bẹn 2 6,4
Tổn thương ruột non 0
Tổn thương ĐM thượng vị dưới 0
3.4. Đánh giá, theo dõi sau mổ
n = 31 %
Đánh giá sau mổ 1 tháng n = 31
Đau, rối loạn cảm giác vùng bẹn – bìu 2 6,4
Tụ dịch vùng bẹn 1 3,2
Tắc ruột, bán tắc ruột 0
Thoát vị lỗ troca 0
Tái phát 0
Không biến chứng 28
Thời gian trở lại hoạt động bình thường n = 31
0-7 ngày 7 22,6
8-14 ngày 23 74,2
15-21 ngày 1 3,2
Đánh giá sau mổ 3 tháng n = 31
Đau, rối loạn cảm giác vùng bẹn – bìu 1 3,2
Tắc ruột, bán tắc ruột 0
Thoát vị lỗ troca 0
Tái phát 0
Không biến chứng 30
4. BÀN LUẬN
Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 60,4±
11,85 (nhỏ nhất là 47 tuổi, lớn nhất là 88 tuổi). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với một số kết
quả nghiên cứu của tác giả Phan Đình Tuấn Dũng có
tuổi trung bình là là 62,2 ± 13,3 tuổi, Lê Quốc Phong:
tuổi trung bình là 69,43 ± 11,58 của tác giả Peisch là
59,1 tuổi, của Mette Astrup Tolver là 55 tuổi (20-85
tuổi)[1][3][10][16]... Đa số các tác giả nghiên cứu về
thoát vị bẹn đều đồng ý rằng tỷ lệ thoát vị bẹn tăng
dần theo tuổi. Bên cạnh đó người lớn tuổi dễ mắc các
bệnh kèm gây tăng áp lực ổ bụng như ho mạn tính,
tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt, táo bón kinh niên...
tạo điều kiện thuận lợi cho thoát vị bẹn xảy ra[1].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 6 bệnh nhân có
triệu chứng tắc nghẽn đường tiểu dưới (phì đại lành
tính tuyến tiền liệt, hẹp niệu đạo ) 19,4%, 1 bệnh nhân
mắc bệnh táo bón đã lâu (3,2%) và 1 bệnh nhân có
COPD mức độ nhẹ. Ngoài ra có 5 bệnh nhân đã từng
phẫu thuật thoát vị bẹn trước đây (chiếm 16,1%) bao
gồm 1 bệnh nhân đã từng điều trị bằng phương pháp
TEP 1 bên trước đó 2 năm, 3 bệnh nhân đã phẫu thuật
Lichtensten, 1 bệnh nhân phẫu thuật Shouldice.
Các tác giả đều thống nhất rằng các bệnh lý gây
tăng áp lực ổ bụng thời gian kéo dài chính là yếu tố
thuận lợi cho thoát vị bẹn xảy ra như phì đại lành
24
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
tính tuyến tiền liệt, hẹp niệu đạo, táo bón kéo dài[1]
Về vị trí, chúng tôi ghi nhận có 17 trường hợp
thoát vị bẹn bên phải chiếm đa số (54,8%), 11 trường
hợp thoát vị bẹn bên trái (35,5%) và có 3 trường hợp
thoát vị bẹn 2 bên chiếm 9,7%. Điều này tương đồng
với nhiều kết quả nghiên cứu khác với tỉ lệ thoát vị bẹn
phải cao hơn so với bên trái như kết quả của Nguyễn
Đoàn Văn Phú tỉ lệ thoát vị bẹn bên phải là 64,83% bên
trái chiếm 22,27% và hai bên chiếm 7,8%[4]. Trong 31
bệnh nhân thoát vị bẹn ở tuổi trưởng thành chiếm
đa số là thể trực tiếp với 19 trường hợp (55,9%), 11
trường hợp thể gián tiếp 32,3% và phối hợp chiếm
11,8%. Giải thích cho điều này theo Peacock và
Madden ở người trưởng thành có sự biến đổi cân,
cơ, mạc do giảm quá trình tổng hợp và tang quá trình
thoái hoá collagen làm suy yếu cấu trúc thành ống
bẹn nên dễ gây ra thoát vị bẹn mắc phải[11]. Nhóm
nghiên cứu nhận thấy các trường hợp thoát vị thể
trực tiếp túi thoát vị nông, không liên quan tới thừng
tinh nên việc phẫu tích bóc tách túi thoát vị và tạo
khoang tiền phúc mạc dễ dàng, thời gian phẫu thuật
ngắn hơn so với thoát vị thể gián tiếp.
Trên 31 bệnh nhân và 34 trường hợp thoát vị,
chúng tôi ghi nhận có 30 trường hợp thoát vị bẹn
nguyên phát (88,2%) và 4 trường hợp tái phát
(11,8%). Trong đó có 3 trường hợp là tái phát sau
mổ theo phương pháp Lichtenstein và 1 trường hợp
tái phát sau phẫu thuật Shouldice, và 1 trường hợp
phát hiện thoát vị bẹn đối bên sau khi phẫu thuật
điều trị thoát vị bẹn bằng TEP. Trong quá trình phẫu
thuật cả 4 trường hợp tái phát này đều có kết quả
phẫu thuật tốt, không có biến chứng xảy ra. Với 4
trường hợp tái phát này thì quá trình phẫu tích tạo
khoang và đặt tấm lưới giống như những trường
hợp nguyên phát khác, cấu trúc giải phẫu vẫn được
giữ nguyên. Theo quan điểm của tác giả Tantia, việc
sử dụng phẫu thuật nội soi để thực hiện điều trị
phẫu thuật ở những bệnh nhân thoát vị bẹn tái phát
(sau một phẫu thuật mở) sẽ có được 3 lợi ích chính
như sau: thứ nhất là làm giảm đau sau mổ cho bệnh
nhân, thứ hai là tấm nhân tạo được đặt vào đúng
khoang trước phúc mạc, nơi mà túi thoát vị xuất
hiện đầu tiên và thứ ba là với việc phẫu thuật đi vào
từ phía sau sẽ tránh được việc phải mở lại những
chỗ xơ sẹo dính ở vết mổ mặt trước[15].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 4 bệnh nhân
thoát vị bẹn đã có biến chứng (chiếm 11,8%). Trong
đó có 1 bệnh nhân thoát vị bẹn nghẹt đến sớm
trước 6 giờ (3,2%) được chỉ định phẫu thuật cấp
cứu, 3 bệnh nhân thoát vị bẹn cầm tù (8,6%) được
chỉ định phẫu thuật theo kế hoạch. Các trường hợp
thoát vị bẹn đã có biến chứng đều được đánh giá kĩ
tạng thoát vị và 100% tạng thoát vị được trả lại ổ phúc
mạc sau khi kéo nắn kết hợp, không có trường hợp
nào có hoại tử tạng thoát vị. Theo Leibl, phẫu thuật
TAPP điều trị hiệu quả cho hai nhóm thoát vị có biến
chứng và không biến chứng[8].
Thời gian phẫu thuật trung bình đối với thoát
vị bẹn một bên là 57,1± 17,3 phút, ngắn nhất là 20
phút và dài nhất là 110 phút. Thời gian phẫu thuật
trung bình đối với thoát vị bẹn hai bên là 80,3 ± 10,6
phút, ngắn nhất là 75 phút và dài nhất là 125 phút.
Kết quả về thời gian phẫu thuật một bên của chúng tôi
gần tương đương so với các nghiên cứu về TAPP của
các tác giả Yang 54,0 ± 18,8 phút [17], Ciftci và Leibl là
55 phút[5][8], nhưng lại thấp hơn các nghiên cứu về
TEP của tác giả Phan Đình Tuấn Dũng 69,8 phút[1]. Lý
do là trong phẫu thuật TAPP các phẫu thuật viên có
phẫu trường rộng, dễ quan sát nên thao tác dễ dàng,
rút ngắn thời gian phẫu thuật.
Trong quá trình phẫu thuật, chúng tôi phát hiện
có 2 trường hợp có thoát vị bẹn gián tiếp lỗ nhỏ đối
bên nhưng trên lâm sàng bệnh nhân chưa phát hiện,
cận lâm sàng không đánh giá được.
Trong thời gian thực hiện đề tài nhóm nghiên
cứu chúng tôi chưa có trường hợp nào xảy ra biến
chứng (mạch máu, ruột non, ống dẫn tinh) trong lúc
phẫu thuật. Với những trường hợp thoát vị nghẹt có
hoại tử ruột chúng tôi không lựa chọn phương pháp
TAPP mà tiến hành mổ hở để giải quyết tạng thoát vị
và sửa chữa thành bụng.
Biến chứng ngay sau mổ có 1 trường hợp bí tiểu
sau phẫu thuật chiếm 3,2%. Bệnh nhân của chúng
tôi được cho vận động sớm và chườm nóng, về sau
đã có thể tự tiểu được mà không cần đặt sonde tiểu.
Viêm thừng tinh 1 trường hợp (3,2%). Biến chứng
này chúng tôi điều trị nội khoa với kháng viêm
steroid và theo dõi sát trên lâm sàng, siêu âm bệnh
nhân ổn định và xuất viện không có biến chứng nào.
Ngoài ra chúng tôi còn ghi nhận 2 trường hợp tràn
khí dưới da (6,4%). Các trường hợp này đều được
điều trị nội khoa và theo dõi tái khám sau phẫu
thuật, không có gì bất thường. Hai trường hợp
tụ dịch vùng bẹn sau mổ (6,4%) gặp ở bệnh nhân
thoát vị bẹn thể phối hợp túi thoát vị lớn, nằm sâu
xuống bìu và được bóc tách túi thoát vị hoàn toàn.
Đây là biến chứng sớm và cần loại trừ với trường
hợp tái phát ngay sau mổ. Khối tụ dịch sẽ có kích
thước cố định, ít di động theo đường đi của thừng
tinh và đặc biệt không biến mất khi bệnh nhân nằm
nghỉ. Siêu âm kiểm tra thì đây là tụ thanh dịch,
không có máu. Chúng tôi sử dụng kháng viêm điều
trị nội khoa tái khám sau 1 tháng kết quả 1 trường
hợp khối tụ thanh dịch đã được hấp thu hoàn toàn,
1 trường hợp được chọc hút dưới hướng dẫn siêu
âm và ổn định ở lần tái khám 3 tháng.
25
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh
nhân hậu phẫu nhẹ nhàng và phục hồi sinh hoạt cá
nhân sớm, đánh giá theo thang điểm VAS ở ngày
thứ 1 có 6 trường hợp đau độ III chiếm 19,4% và 25
trường hợp đau độ II chiếm 80,6%.
Thời gian nằm viện trung bình là 3,9 ± 1,4
ngày, ngắn nhất là 2 ngày và dài nhất là 7 ngày. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi có thời gian nằm viện hậu
phẫu tương đương so với nghiên cứu của tác giả Shuo
Yang là 3,9 ± 1,1 ngày [17], Phan Đình Tuấn Dũng về
phẫu thuật TEP có thời gian nằm viện hậu phẫu là 4,4
± 1,3 ngày[1]. Nhiều tác giả nhận thấy phẫu thuật nội
soi phẫu tích nhẹ nhàng hơn, ít đau sau phẫu thuật,
có thời gian phục hồi sinh hoạt cá nhân ngắn hơn nên
bệnh nhân có thể ra viện sớm, bước đầu nhận thấy
phẫu thuật TAPP là 1 phương pháp an toàn, giảm đau
sau phẫu thuật và bệnh nhân được rút ngắn thời gian
hậu phẫu. Tại thời điểm tái khám 1 tháng đánh giá
thời gian trở lại hoạt động bình thường sau ra viện
0 - 7 ngày có 7 bệnh nhân (22,6%), từ 8 - 14 ngày có
23 bệnh nhân (74,2%) và 1 trường hợp tới tuần thứ
3 bình phục. Như vậy, đa số các bệnh nhân trở lại các
hoạt động bình thương ở thời điểm tuần thứ 2 sau ra
viện (8 - 15 ngày) điều này giống với kết quả của tác
giả Sharma là 11,8 ± 2,35 ngày[14].
Tại thời điểm 3 tháng tất cả các bệnh nhân không
có trường hợp nào có biểu hiện thoát vị tái phát, có
1 trường hợp có cảm giác tê nhẹ ở vùng bẹn bìu.
5. KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo trước
phúc mạc qua nội soi xuyên phúc mạc (TAPP) trong
điều trị thoát vị bẹn là một phương pháp an toàn,
hiệu quả trong thoát vị bẹn thường và có biến chứng
nên khuyến khích ứng dụng và triển khai rộng rãi.
1. Phan Đình Tuấn Dũng (2017), “Nghiên cứu ứng
dụng phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc với tấm lưới nhân
tạo 2D và 3D trong điều trị thoát vị bẹn trực tiếp”, Luận án
tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Nguyễn Văn Liễu (2004), “Nghiên cứuứng dụng
phẫu thuật Shouldice trong điều trị thoát vị bẹn”, Luận án
tiến sĩ y học, Học viện Quân y 103, tr. 63 -75.
3. Lê Quốc Phong (2015) “Đánh giá kết quả ứng dụng
đặt tấm lưới nhân tạo theo phương pháp Lichtenstein
điều trị thoát vị bẹn ở bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên”, Luận
án tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
4. Nguyễn Đoàn Văn Phú (2015), “Nghiên cứu ứng
dụng phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn bằng tấm lưới nhân
tạo có nút (Mesh-Plug)” Luận án tiến sĩ Y học, Trường Đại
học Y Dược Huế.
5. Ciftci F., Abdulrahman I., Ibrahimoglu F., et al.
(2015), “Early-Stage Quantitative Analysis of the Effect of
Laparoscopic versus Conventional Inguinal Hernia Repair
on Physical Activity”, Chirurgia (bucur), 110(5), pp.451-
456.
6. Heuvel B., Dwars B. J. (2013), “Repeated
laparoscopic treatment of recurrent inguinal hernias after
previous posterior repair”, Surg Endosc; 27; pp.795-800.
7. Kriplani A.K, Pachisia S.S, Ghosh D., (2014),
“Laparoscopic trans abdominal pre- peritoneal (TAPP)
repair of inguinal hernia”.
8. Leibl B.J., Schmedt C.G., Kraft K., et al. (2001),
“Laparoscopic transperitoneal hernia repair of
incarcerated hernias: Is it feasible? Results of a prospective
study”, Surg Endosc, 15(10), pp.1179-1183.
9. Loureiro.P.M., et al. (2013), “Totally Extraperitoneal
Endoscopic Inguinal Hernia Repair Using Mini Instruments:
Pushing the Boundaries of Minimally Invasive Hernia
Surgery”, Minim Invasive Surg Sci. 2(3):pp8-12
10. Peitsch W.K. (2014), “A modified laparoscopic
hernioplasty (TAPP) is the standard procedure for inguinal
and femoral hernias: a retrospective 17-year analysis with
1,123 hernia repairs”, Surg Endosc, 28(2), pp.671-682.
11. Peacock EE Jr, Madden JW (1974) Studies on the
biology and treatment of recurrent inguinal hernia. Ann Surg
179:567-571.
12. Pohnan. R.,Rozwadowski. F., et al. 2013,”
Advantages and disadvantages of transabdominal
preperitoneal approach and total extraperitoneal”, Mil.
Med. Sci. Lett. (2013), vol. 82(1), p. 25-31.
13. Reddy. R. R. S., et al. 2017,” A prospective
comparative study of total extraperitoneal inguinal hernia
repair: fixation versus without fixation of the mesh”
International Surgery Journal Jan;4(1):166-169
14. Sharma. D., Yadav. K., et al. 2015, "Prospective
randomized trial comparing laparoscopic transabdominal
preperitoneal (TAPP) and laparoscopic totally extra
peritoneal (TEP) approach for bilateral inguinal”
15. Tantia. O., Jain. M., et al. 2009,” Laparoscopic
repair of recurrent groin hernia: results of a prospective
study”, Surg Endosc, 23,pp.734–738
16. Tolver M. A. (2013), “Early clinical outcomes
following laparoscopic inguinal hernia repair”, Dan Med
J., 60(7), B4672, pp1-14
17. Yang X.F., Liu J.L. (2016), “Laparoscopic repair of
inguinal hernia in adults”, Ann Transl Med, 4(20), 402.
18. Yang. X. F,Liu. J. L., 2016, "Anatomy essentials
for laparoscopic inguinal hernia repair”, Ann Transl Med
4(19):372.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_thoat_vi_ben_o_nguoi_lon_bang_phau.pdf