Gây xơ được coi là phương pháp ưu tiên hàng
đầu cho loại dị dạng tĩnh mạch có triệu chứng [1], [10],
với các loại chất gây xơ khác nhau được sử dụng tuỳ
thuộc điều kiện của từng cơ sở, phổ biến nhất là cồn
tuyệt đối, Ethibloc (hỗn hợp gồm cồn và đạm ngô), là
loại chất gây xơ ít tốn kém, và rất hiệu quả. Polidocanol
(tên thương mại Aetoxisclerol) là chất hoạt động bề mặt
với cơ chế tác dụng tương tự với cồn tuyệt đối nhưng
với độc tính ít hơn, đem lại hiệu quả điều trị tốt, và ít
đau hơn [8].
Hiệu quả của phương pháp gây xơ được đánh
giá dựa trên kích thước của tổn thương và triệu chứng
quyết định điều trị. Tỷ lệ thành công của các phương
pháp điều trị cũng khác nhau tuỳ từng nghiên cứu,
nghiên cứu tổng hợp trên Cochran cũng cho thấy các
nghiên cứu có nhiều thiếu sót và không có đủ độ tin
cậy để dưa ra được phương pháp điều trị nào tốt hơn
phương pháp nào [8], trong đó phương pháp gây xơ
bằng polidocanol vẫn được coi là phương pháp chọn
lựa hàng đầu vì tính hiệu quả và kinh tế của nó [11]
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị tiêm xơ dị dạng tĩnh mạch dưới hướng dẫn DSA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201968
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIÊM
XƠ DỊ DẠNG TĨNH MẠCH DƯỚI
HƯỚNG DẪN DSA
Evaluation the result of flouroscopy-guided sclerotherapy
in treating superficial venous malformation
Mai Thị Quỳnh*, Lê Nguyệt Minh**, Phạm Minh Thông*,
Vũ Đăng Lưu*
* Trường đại học Y Hà Nội
** Trung tâm Điện quang –
Bệnh viện Bạch Mai
Objective: Describe characteristics imaging of superficial venous
malformation (VM) on flouroscopy and evaluate effectiveness of foam
sclerotherapy.
Methods: Prospective and retroprestive cohort from November
2015 till July 2019 on 17 patients with VM treated by flouroscopy-guided
sclerotherapy with 21 lesions and 46 seasons sclerotherapy. Evualating
results of treatment based on improvement in symtomps ( pain- Visual
Analogue Score) and imaging ( MRI- repeat MRI after last season for
6 months . There are 4 grade in improvement in imaging: excellent (
reduction in size of lesion over 90 %), good ( reduce 50 -90 %), average
( 10-50 %) and no reponse ( less 10 %). Evualating recurrence based on
increasing pain score (VAS) or size in MRI. Using SPSS 20.0 to analize
and process data.
Results: 17 patients (7 males and 11 females) with VM were
involved in our study. Patients were a mean of 26.5± 12.9 years old (
range: from 6 to 59). Evualated by digital subtraction angiography, the
lesion were categorized into 4 types according to the venous drainage
features. Of the 21 lesion: 3/21 had type I (14.3 %), 12/21 had type II (57.1
%); 2/21 had type III (9.5 %) and 4/21 had type IV (19 %). Total seasons
are 46. 8/21lesions (38.1 %) achieved excellent response, 9/21 (42.9 %)
achieved good response, 3/21 (14.3 %) achieved average response and 1
patient (4.8%) no response in magnetic resonance imaging in magnetic
resonance imaging assessments. Mean VAS scores after treatment for 1
month: 1.4; 3 months: 0.9; 6 months: 1.1, min: 0, max: 5. The long- term
recurrence rates with follow-up time from 1 to 2 years is: 3/4 patients had
recurrence (75 %) include of 1 patients had increasing imaging and pain
score, 2 patients just had only increase imaging in MRI.
Conclusion: Flouroscopy-guided sclerotherapy is a safe and
effective procedure to reduce size and pain for patient with venous
malformations that have symptoms. But the long – term recurrence rates
is quite high.
Keywords: venous malformation, sclerotherapy, flouroscopy-guided
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 69
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị dạng tĩnh mạch là một loại dị dạng mạch máu
hay gặp.Một dị dạng tĩnh mạch được định nghĩa là dị
dạng đơn thuần có dòng chảy thấp và mạng lưới tĩnh
mạch bất thường, không có van [1]. Dị dạng tĩnh mạch
xuất hiện từ thời kỳ sơ sinh do sự phát triển bất thường
từ thời kỳ bào thai và các triệu chứng phụ thuộc vào
kích thước và vị trí liên quan. Màu sắc da phụ thuộc
vào độ sâu của tổn thương, từ không có màu tới màu
tím [2]. Tiến triển tự nhiên thường tăng kích thước
chậm và khá ổn định theo thời gian, hình thái và kích
thước thay đổi theo tư thế, chèn ép vào các cơ quan lân
cận gây đau và hạn chế vận động. Dị dạng tĩnh mạch
có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, nhưng
chủ yếu ở trong các mô mềm.Trong thập kỷ vừa qua,
các chuyên gia về tĩnh mạch trên thế giới đã có những
thống nhất về phân loại và chẩn đoán bằng siêu âm và
cộng hưởng từ, tuy nhiên chỉ định và hiệu quả điều trị
còn nhiều tranh cãi, trong đó quan trọng nhất là phương
pháp tiêm xơ. Chỉ định điều trị có thể đặt ra khi có ảnh
hưởng đến chức năng hoặc ảnh hưởng thẩm mỹ [3].
Tiêm xơ là phương pháp tiêm một chất gây kích
ứng, là phương pháp đầu tay cho điều trị dị dạng tĩnh
mạch, trong đó, cồn tuyệt đối là chất được sử dụng
phổ biến trong tiêm xơ qua da. Các biến chứng tại
chỗ như hoại tử da loét hay tổn thương thần kinh
cũng được nhắc đến.Từ sau khi sử dụng polidocanol
(Lauromacron 400), các dị dạng tĩnh mạch được điều trị
nhiều hơn, giảm thiểu các biến chứng [3]. Cùng với sự
phát triển của chụp mạch số hoá xoá nền và phân loại
dị dạng tĩnh mạch của Puig năm 2003 [4], càng ngày
càng có nhiều báo cáo trên thế giới đánh giá hiệu quả
của phương pháp tiêm xơ dưới hướng dẫn máy chụp
mạch. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện chưa có báo cáo nào
về phương pháp điều trị này. Do vậy, báo cáo này được
thực hiện nhằm mục đích mô tả các đặc điểm về hình
ảnh chụp mạch của các dị dạng tĩnh mạch và kết quả
điều trị bằng phương pháp tiêm xơ tại trung tâm điện
quang, bệnh viện Bạch Mai.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Từ năm 2015 cho đến nay, chúng tôi thực hiện
điều trị cho 17 trường hợp dị dạng tĩnh mạch dưới
DSA. Tất cả bệnh nhân đến khám vì các triệu chứng
lâm sàng như sưng, đau, hạn chế vận động, thẩm mỹ,
nuốt khó, khó thở được thực hiện siêu âm bằng đầu
dò phẳng tần số cao (7-15Mhz) để chẩn đoán và cộng
hưởng từ có tiêm thuốc đối quang từ để đánh giá kích
thước và mức độ lan toả của tổn thương. Để đánh giá
hình thái của ổ dị dạng và phân tuýp tổn thương, tất cả
bệnh nhân này được chọc kim 18- 22G trực tiếp qua da
vào tổn thương, bơm thuốc cản quang tan trong nước
và tiến hành chụp mạch. Hình thái của ổ dị dạng và các
tĩnh mạch dẫn lưu được quan sát kỹ để đánh giá tĩnh
mạch dẫn lưu về tuần hoàn bình thường của cơ thể, và
được bác sỹ can thiệp nội mạch phân loại theo phân
loại của Puig và cộng sự [5].
- Tuýp I: dị dạng đơn độc không có
tĩnh mạch dẫn lưu.
- Tuýp II: dị dạng dẫn lưu về tĩnh mạch
bình thường
- Tuýp III: dị dạng dẫn lưu về tĩnh mạch
loạn sản
- Tuýp IV: dị dạng là tĩnh mạch loạn sản
Hình 1. Phân loại dị dạng tĩnh mạch dựa vào hệ thống tĩnh mạch dẫn lưu [5]
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201970
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hỗn hợp bọt- khí bơm vào ổ dị dạng được trộn
theo kỹ thuật Tessari bằng cách sử dụng chạc ba nối
với 2 bơm tiêm, với tỷ lệ thuốc- khí được xác định từng
trường hợp cụ thể[6]. Bệnh nhân sau khi tiêm xơ được
theo dõi ít nhất 2 tiếng và ra viện trong ngày, theo dõi
các biến chứng muộn và đánh giá kết quả tiêm xơ sau
tiêm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng sau đợt tiêm xơ cuối
cùng.
Bảng 1. Các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân và tuýp tổn thương của các khối dị dạng tĩnh mạch
Đặc điểm bệnh nhân
Vị trí tổn thương Triệu chứng ban đầu Tuýp Puig
STT Tuổi Giới
1 25 Nam Dưới hàm Sưng, đau 2
2 6 Nữ Dưới hàm Sưng, đau, thẩm mỹ 1
3 29 Nữ Má Sưng, đau 2
4 29 Nữ Dưới hàm Sưng, đau, khó thở, khó nuốt (khi
nằm nghiêng)
3
5 29 Nữ Chẩm Sưng, đau 2
6 44 Nữ Dưới hàm Sưng, đau, thẩm mỹ 2
7 14 Nam Đùi Đau, hạn chế vận động 4
8 21 Nam Đùi Đau, hạn chế vận động 2
9 18 Nữ Cẳng chân Đau, hạn chế vận động 4
10 16 Nam Đùi Đau, hạn chế vận động 2
11 32 Nữ Thân Đau 1
12 12 Nữ Cẳng chân Đau, hạn chế vận động 4
13 23 Nữ Đùi Đau, hạn chế vận động 2
14 27 Nữ Chân Đau 3
15 34 Nữ Thân Đau 2
16 22 Nam Mông Đau, hạn chế vận động 2
17 25 Nam Mặt Sưng, đau 2
18 55 Nữ Chân Đau 2
20 45 Nam Lưng và ngực bên Đau, tăng kích thước sau mổ 4
21 30 Nữ Ngón tay Sưng, đau 1
22 20 Nữ Chân Đau 2
Kết quả điều trị được dựa trên các thông số:
- Kích thước ổ dị dạng được do trên MRI ( trước
và sau điều trị).
- Tỷ lệ % kích thước ổ dị dạng giảm so với kích
thước ban đầu
- Điểm đau VAS – Visual Analog Scale trước và
sau khi điều trị.
- Tái phát: tăng kích thước tổn thương trên MRI
hoặc tăng điểm đau VAS trên lâm sàng.
Phương pháp nghiên cứu mô tả can thiệp tiến
cứu và hồi cứu, không có nhóm chứng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 71
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Sử dụng phần mềm SPSS20.0 để thống kê và mô
tảcác đặc điểm về tuổi của bệnh nhân, vị trí tổn thương,
triệu chứng lâm sàng, số lần tiêm xơ, thời gian theo dõi,
đánh giá kết quả điều trị dựa vào mức độ giảm kích
thước (rất tốt: giảm >90% kích thước trước điều trị, tốt:
giảm 50-90% , trung bình: giảm 10- 50%, không đáp
ứng: giảm < 10% thương hoặc không giảm) và độ đau
được thống kê bằng thuật toán mô tả, so sánh các giá
trị trước và sau điều trị.
III. KẾT QUẢ
Biểu đồ 1. Biểu đồ thể hiện phần trăm các tuýp
theo hệ thống phân loại Puig.
Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau
khi tiến hành chụp mạch số hoá xoá nền, chúng tôi
nhận thấy chiếm phần lớn là các tổn thương thuộc tuýp
II với 12/21 tổn thương ( chiếm 57.1 %), đứng thứ 2 là
tuýp IV với 4/21 tổn thương ( 19%), tiếp theo là tuýp I
có 3/21 tổn thương ( 14.3%) và đứng cuối cùng là tuýp
III có 2/21 tổn thương ( 9.5%).
Biểu đồ 2. Biểu đồ thể hiện sự phân bố tổn thương
theo vị trí giải phẫu
Nhận xét: Tổng số tổn thương là 21, trong đó các
tổn thương ở chi dưới chiếm nhiều nhất với 9/21 tổn
thương (42.9 %), hay gặp thứ hai là các tổn thương
thuộc đầu- cổ với 8/21 tổn thương (38.5 %). Các tổn
thương thuộc chi trên và chi dưới được bắt gặp với tỷ
lệ bằng nhau: 2/21 tổn thương (chiếm 9.5 %).
Biểu đồ 3. Mức độ cải thiện kích thước trước và
sau điều trị
Nhận xét: Nhìn chung có sự giảm đáng kể kích
thước tổn thương sau điều trị với 8/21 tổn thương
(chiếm 38.1 %) có đáp ứng ở mức độ xuất sắc (tức
kích thước giảm ≥ 90% so với trước điều trị), 9/21 (42.9
%) đáp ứng ở mức độ tốt (giảm 50 – 90%), 3/21 (14.3
%) đáp ứng ở mức độ trung bình (giảm 10- 50 %) và
chỉ có duy nhất 1 trường hợp (4.8 %) không có đáp ứng
(giảm 0 -10 %).
Bảng 2. Mức độ cải thiện điểm đau VAS [7]
Thời gian
theo dõi
Giá trị
trung
bình
(Mean)
Giá trị
nhỏ
nhất
(Min)
Giá
trị lớn
nhất
(Max)
Độ lệch
chuẩn
(SD)
1 tháng 1.4 0 5 1.5
3 tháng 0.9 0 4 1.3
6 tháng 1.1 0 4 1.6
Trên 6
tháng
1 0 2 1.4
Bảng 3. Số đợt tiêm xơ khối dị dạng
Giá trị
trung
bình
Giá
trị
nhỏ
nhất
Giá
trị
lớn
nhất
Trung
vị
Giá
trị
hay
gặp
nhất
Độ
lệch
chuẩn
Tổng
(n)
2.19 1 7 1 1 1.7 46
Nhận xét: Tổng số đợt tiêm xơ mà chúng tôi đã
thực hiện trong nghiên cứu là 46, trung bình 2.19 ± 1.7
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201972
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
lần/ tổn thương. Số đợt tiêm xơ ít nhất là 1 gặp ở 11/21
tổn thương ( chiếm 52.4 %), số lần tiêm xơ nhiều nhất
là 7 gặp ở 1/21 tổn thương ( chiếm 4.8 %). Nhìn chung
chiếm phần lớn vẫn là các tổn thương chỉ cần tiêm 1 lần.
Bảng 4. Liên quan giữa số lần tiêm xơ với nhóm dị dạng theo phân loại Puig trên chụp mạch
Số đợt tiêm xơ (n) Tổng
(n)
P Fisher –exact test
1 2 3 4 5 7
Tuýp I và II 10 3 0 0 1 1 15 0.03
Tuýp III và IV 1 1 2 1 1 0 6
Tổng (n) 11 4 2 1 2 1 21
Nhận xét: Tổn thương thuộc tuýp I và II ( theo phân loại Puig) có 10/15 (chiếm 66.6 %) là chỉ cần tiêm 1 đợt,
trong khi tổn thương thuộc tuýp III và IV chỉ có 1/6 ( chiếm 16.7 % ). Từ đó cho thấy các tổn thương thuộc tuýp I và
II có xu hướng đáp ứng điều trị tốt hơn ( biểu hiện bằng số lần tiêm xơ ít hơn) so với các tổn thương thuộc tuýp III
và IV với p = 0.03 ( < 0.05 ) có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95 %.
Biến chứng: Trong và ngay sau can thiệp, trong
nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận biến chứng
nghiêm trọng nào. 100% bệnh nhân sau tiêm xơ có
biểu hiện sưng, viêm tại chỗ với thời gian từ 1-7 ngày,
71.4 % tự khỏi mà không cần thuốc và 28.6 % cần dùng
tới NSAIDS.
Trong quá trình can thiệp: 4/21 ( 19 %) bệnh nhân
xuất hiện các triệu chứng ho khan, tức ngực nhẹ ngay
sau khi ngừng bơm hỗn hợp bọt- khí gây xơ. Các bệnh
nhân đều trở về bình thường sau 1-2 giờ mà không cần
điều trị gì.
• Tái phát sau thời gian dài
Trong số 4 bệnh nhân nghiên cứu hồi cứu với thời
gian theo dõi từ 1-2 năm, hiện có 3/4 bệnh nhân (chiếm
75%) tái phát: trong đó có 2 bệnh nhân không có tăng
điểm đau nhưng có sự tăng kích thước tổn thương trên
hình ảnh cộng hưởng từ, 01 bệnh nhân vừa có tăng
kích thước tổn thương vừa có tăng điểm đau VAS.
Như vậy cho thấy tỷ lệ tái phát dài hạn sau tiêm
xơ là khá cao.
IV. BÀN LUẬN
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi với 17 bệnh nhân dị
dạng tĩnh mạch có chỉ định điều trị tiêm xơ dưới hướng
dẫn DSA, chủ yếu gặp bệnh nhân trong độ tuổi dậy thì
và trưởng thành (độ tuổi trong thời kỳ sinh đẻ) từ 13- 45
tuổi (chiếm 88.2 %). Có 1 bệnh nhân nhi 6 tuổi, và duy
nhất 1 bệnh nhân trên 59 tuổi. Tuổi trung bình: 26.5
Tuổi thấp nhất: 6, cao nhất: 59.
Giới tính: nữ giới chiếm đa số: 61.1 % và 38.9 %
là nam.
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của một
số tác giả trên thế giới: Nghiên cứu của B.B. Lee trên
318 bệnh nhân với 40.8 % là nam, 59.2 % là nữ, độ tuổi
trung bình 24.9 [49]. Nghiên cứu của Sarah Ventéjou
và cộng sự trên 51 bênh nhân có dị dạng mạch phần
mềm cho thấy có 75 % các tổn thương dị dạng mạch
có chứa receptor với androgen. Theo nghiên cứu khác
của Duyka và cộng sự: receptor progesterone đã được
xác định trong dị dạng tĩnh mạch, điều này giải thích
vị sao các khối dị dạng mạch phát triển mạnh khi có
sự thay đổi hormone [18] gây ra các triệu chứng đòi
hỏi bệnh nhân phải nhập viện. Sự tìm thấy receptor
progesterone trong khối dị dạng mạch cũng giải thích
được vì sao dị dạng mạch có xu hướng gặp nhiều hơn
ở nữ giới.
2. Đặc điểm của loại dị dạng theo phân loại
trên DSA
Theo phân loại ISSVA về bất thường mạch máu,
dị dạng tĩnh mạch thuộc nhóm bất thường của mạch
máu có lưu lượng dòng chảy thấp, ít gây những biến
chứng nặng nề về tuần hoàn, không có các tế bào tăng
sinh, và không dễ dàng phát hiện ngay từ lúc mới sinh,
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
phát triển theo sự phát triển của cơ thể, không thấy
ghi nhận thoái hoá ác tính, biến chứng hay gặp nhất
là huyết khối, gây thiểu dưỡng mô xung quanh, ảnh
hưởng thẩm mỹ. Có một số phân loại dị dạng tĩnh mạch
trên lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ hoặc dựa trên
hình ảnh chụp ổ dị dạng qua tiêm trực tiếp [8].
Theo tác giả Puig và cộng sự, 4 tuýp của dị dạng
tĩnh mạch phân loại dựa trên sự khác biệt về tĩnh mạch
dẫn lưu của ổ dị dạng. Phân loại dị dạng này phụ thuộc
hoàn toàn vào việc chụp dưới máy chụp mạch và kinh
nghiệm của người bác sỹ làm can thiệp mạch máu vì
giải phẫu của hệ thống tĩnh mạch tại vị trí tổn thương
thay đổi rất nhiều. Mặt khác, tiền sử can thiệp phẫu
thuật góp phần làm thay đổi tính chất động học của tổn
thương, có thể chia cắt một ổ dị dạng thành nhiều ổ
khác nhau (hình 2), hoặc làm biến mất tĩnh mạch dẫn
lưu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuýp II chiếm đa
số (57.1 %) (hình 1); tuýp I, dị dạng tĩnh mạch đơn độc
không có tĩnh mạch ngoại vi dẫn lưu; tuýp II, dị dạng
dẫn lưu về tĩnh mạch bình thường; tuýp III, dị dạng dẫn
lưu về tĩnh mạch giãn; và tuýp IV - dị dạng biểu hiện là
giãn tĩnh mạch loạn sản [5]. Trong nghiên cứu của Puig
và một số nghiên cứu gần đây về dị dạng tĩnh mạch
trên máy chụp mạch không có sự khác biệt giữa các
nhóm [5] [9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có hai
bác sỹ can thiệp đánh giá độc lập để thống nhất phân
loại, tuy nhiên số lượng bệnh nhân tham gia vào nghiên
cứu còn ít, đó cũng là một hạn chế của nghiên cứu.
3. Đánh giá hiệu quả của phương pháp tiêm
xơ có kiểm soát dưới máy chụp mạch
Việc điều trị bằng tiêm xơ dưới hướng dẫn của các
phương pháp chẩn đoán hình ảnh đóng vai trò rất quan
trọng, kiểm soát vị trí tiêm, hạn chế các biến chứng do
thoát thuốc gây xơ ra khỏi mạch máu cũng như các biến
chứng liên quan đến thuốc gây xơ vào hệ tuần hoàn gây
huyết khối trung tâm. Phân loại của Puig cũng được công
nhận và sử dụng khá rộng rãi do giá trị thực tiễn của nó
[10]. Phân loại này đem lại khả năng tiên lượng về khả
năng đáp ứng điều trị cũng như các biến chứng có thể
xảy ra [5].Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp gây xơ
vẫn còn rất nhiều tranh cãi và chỉ có một vài báo cáo và
phụ thuộc vào yếu tố khác, như vị trí tổn thương trong
khoang của cơ thể [1], [11]. Nghiên cứu của chúng tôi có
95.2 % trường hợp đều thu nhỏ kích thước tổn thương
sau điều trị, 01 trường hợp không ghi nhận được thay đổi
kích thước là trường hợp dị dạng ở vùng lưng, thuộc type
IV, tổn thương tái phát sau phẫu thuật và không cải thiện
giảm kích thước sau tiêm xơ. Trong số 17 bệnh nhân chỉ
định điều trị vì đau, tất cả đều giảm được điểm đau ở các
mức độ khác nhau (100%).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201974
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Gây xơ được coi là phương pháp ưu tiên hàng
đầu cho loại dị dạng tĩnh mạch có triệu chứng [1], [10],
với các loại chất gây xơ khác nhau được sử dụng tuỳ
thuộc điều kiện của từng cơ sở, phổ biến nhất là cồn
tuyệt đối, Ethibloc (hỗn hợp gồm cồn và đạm ngô), là
loại chất gây xơ ít tốn kém, và rất hiệu quả. Polidocanol
(tên thương mại Aetoxisclerol) là chất hoạt động bề mặt
với cơ chế tác dụng tương tự với cồn tuyệt đối nhưng
với độc tính ít hơn, đem lại hiệu quả điều trị tốt, và ít
đau hơn [8].
Hiệu quả của phương pháp gây xơ được đánh
giá dựa trên kích thước của tổn thương và triệu chứng
quyết định điều trị. Tỷ lệ thành công của các phương
pháp điều trị cũng khác nhau tuỳ từng nghiên cứu,
nghiên cứu tổng hợp trên Cochran cũng cho thấy các
nghiên cứu có nhiều thiếu sót và không có đủ độ tin
cậy để dưa ra được phương pháp điều trị nào tốt hơn
phương pháp nào [8], trong đó phương pháp gây xơ
bằng polidocanol vẫn được coi là phương pháp chọn
lựa hàng đầu vì tính hiệu quả và kinh tế của nó [11].
V. KẾT LUẬN
Tiêm xơ dưới hướng dẫn máy chụp mạch là
phương pháp an toàn làm giảm bớt kích thước và giảm
đau cho bệnh nhân có dị dạng tĩnh mạch. Tuy nhiên tỷ
lệ tái phát dài hạn còn khá cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dubois J., Soulez G., Oliva V.L., et al. (2001). Soft-Tissue Venous Malformations in Adult Patients: Imaging and
Therapeutic Issues. RadioGraphics, 21(6), 1519–1531.
2. Buckmiller L.M., Richter G.T., and Suen J.Y. (2010). Diagnosis and management of hemangiomas and vascular
malformations of the head and neck. Oral Diseases, 16(5), 405–418.
3. Nguyễn Hồng Hà, T.X.T, Trần Thị Thanh Huyền, Vũ Trung Trực, Bùi Mai Anh, Đào Văn Giang, Đỗ Thị Ngọc
Linh (2013). Kết quả bước đầu điều tị tiêm xơ dị dạng tĩnh mạch bằng Polidocanol. Y học Thực hành - Journal
of Practical Medicine, 869(5), 85-88.
4. Stefan Puig, Hussein Aref, Valerie Chigot, et al. (2003). Classification of venous malformations in children and
implications for sclerotherapy. Pediatric Radiology, 33(2), 99–103.
5. Puig S., Aref H., Chigot V., et al. (2003). Classification of venous malformations in children and implications for
sclerotherapy. Ped Radiol, 33(2), 99–103.
6. Li L., Zeng X.-Q., and Li Y.-H. (2010). Digital Subtraction Angiography–Guided Foam Sclerotherapy of
Peripheral Venous Malformations. American Journal of Roentgenology, 194(5), W439–W444.
7. Pain rating scales. 4.
8. Behravesh, S., et al., (2016). Venous malformations: clinical diagnosis and treatment. Cardiovasc Diagn Ther,
6(6), 557–569.
9. Li J., Chen J., Zheng G., et al. (2010). Digital Subtraction Angiography-Guided Percutaneous Sclerotherapy
of Venous Malformations With Pingyangmycin and/or Absolute Ethanol in the Maxillofacial Region. Journal of
Oral and Maxillofacial Surgery, 68(9), 2258–2266.
10. Jarrett, D.Y., M. Ali, and G. Chaudry (2013). Imaging of vascular anomalies. Dermatol Clin, 31(2), 251–66.
11. C.J., et al., van der V. (2014). Effectiveness of sclerotherapy, surgery, and laser therapy in patients with venous
malformations: a systematic review. Cardiovasc Intervent Radiol, 37(4), 977–89.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục đích: Mô tả đặc điểm hình ảnh của dị dạng tĩnh mạch (DDTM) trên chụp mạch và đánh giá kết quả điều trị bằng bọt
gây xơ.
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến cứu và hồi cứu mô tả từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 7 năm 2019, có 17
bệnh nhân DDTM được điều trị bằng phương pháp gây xơ dưới máy chụp mạch số hoá xoá nền với 21 tổn thương và 46 đợt tiêm
xơ. Đánh giá kết quả điều trị dựa vào sự cải thiện về lâm sàng ( đau- thang điểm VAS) và sự cải thiện về hình ảnh ( cộng hưởng
từ – chụp đánh giá lại sau đợt tiêm xơ cuối cùng 6 tháng). Đáp ứng điều trị về mặt hình ảnh được phân thành 4 mức độ: đáp ứng
xuất sắc: kích thước sau điều trị giảm trên 90% so với trước điều trị, đáp ứng tốt: giảm 50-90 %, đáp ứng trung bình giảm 10-50
%, không đáp ứng hoặc đáp ứng không đáng kể: dưới 10%. Đánh giá tái phát dựa vào tăng điểm đau VAS hoặc tăng kích thước
trên hình ảnh cộng hưởng từ. Sử dụng SPSS 20.0 để phân tích và xử lý số liệu.
Kết quả: Có 17 bệnh nhân với độ tuổi từ 6 đến 59 ( trung bình: 26.5 ± 12.9), trong đó có 7/17 nam (38.9%) và 11/17 nữ (
61.1%). Các tổn thương dị dạng tĩnh mạch được phân loại theo đặc điểm của tĩnh mạch dẫn lưu. Tổng 21 tổn thương: 3/21 tổn
thương thuộc tuýp I (19 %); 12/21 tổn thương thuộc tuýp II (57.1%); 2/21 tổn thương thuộc tuýp III ( 9.5 %) và 4/21 tổn thương
thuộc tuýp IV (19 %). Tổng số đợt tiêm xơ là 46, số đợt tiêm xơ trung bình 2.19 ± 1.7 lần/ tổn thương. Mức độ giảm kích thước
trên MRI: xuất sắc có 8/21 trường hợp ( 38.1 %), tốt có 9/21 trường hợp ( 42.9 %), trung bình có 3/21 trường hợp (14.3 %), không
đáp ứng có 1 trường hợp (4.8 %). Điểm đau VAS trung bình sau điều trị 1 tháng: 1.4, 3 tháng: 0.9, 6 tháng: 1.1, nhỏ nhất là 0 và
lớn nhất là 5. Tỷ lệ tái phát dài hạn với thời gian theo dõi từ 1- 2 năm có 3/4 bệnh nhân tái phát ( 75 %), trong đó 1/3 bệnh nhân
vừa có tăng điểm đau VAS, vừa có tăng kích thước trên hình ảnh cộng hưởng từ, 2 bệnh nhân còn lại chỉ có tăng kích thước tổn
thương trên hình ảnh. Không ghi nhận biến chứng nghiêm trọng nào xảy ra trong và sau quá trình tiêm xơ.
Kết luận: Tiêm xơ dưới hướng dẫn DSA là phương pháp an toàn và hiệu quả, làm giảm bớt kích thước và giảm đau cho
bệnh nhân dị dạng tĩnh mạch có triệu chứng. Tuy nhiên, tỷ lệ tái phát dài hạn còn khá cao.
Từ khoá: dị dạng tĩnh mạch, tiêm xơ, DSA
Người liên hệ: Mai Thị Quỳnh, Email: maiquynh.hmu@gmail.com
Ngày nhận bài 30.7.2019. Ngày chấp nhận đăng: 31.8.2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_tiem_xo_di_dang_tinh_mach_duoi_huo.pdf