Tính khả thi và kinh tế
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi
nhận 100% bệnh nhân được phẫu thuật với
phương pháp vô cảm là gây mê qua nội khí
quản, có khả năng là do yếu tố tâm lý sợ đau.
Nhưng theo y văn và thực tế lâm sàng cho thấy,
phẫu thuật vẫn có thể thực hiện với gây tê tại
chỗ.
Thứ hai, thời gian phẫu thuật được tính từ
lúc chích tê tại chỗ cuốn mũi dưới bên đầu tiên
cho đến khi phẫu thuật kết thúc trên cả 2 bên.
Kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận thời gian
phẫu thuật trung bình là 15,9±1,83 phút, tương
đồng với tác giả Trần Đình Khả mất trung bình
15-20 phút để phẫu thuật đốt điện lưỡng cực
dưới niêm mạc cuốn mũi dưới (7).
So sánh với kết quả nghiên cứu của Ney P.
Castro Jr (2000)(1), tác giả này báo cáo thời gian
phẫu thuật trung bình mất 30 phút để thực hiện
phẫu thuật cắt hút dưới niêm mạc cuốn mũi
dưới(1).
Thứ ba, theo khuyến cáo của nhà sản xuất,
mỗi lưỡi dao cắt hút nên tiến hành phẫu thuật
cho từ 5 đến 7 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật
mũi xoang. Tuy nhiên, tùy theo mô bệnh lý là
mô dai hoặc cứng, hoặc chắc thì có thể sử dụng
từ 10 đến 15 bệnh nhân. Trên thực tế, phẫu thuật
chỉ tiến hành gần như hoàn toàn trên mô mềm
với thời gian thực sự không quá lâu (15,9±1,83
phút), nên trên cùng một lưỡi dao cắt hút, chúng
tôi có thể tiến hành phẫu thuật trên từ 15 đến 20
bệnh nhân, trung bình 17 bệnh nhân.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật giảm thể tích cuốn mũi dưới bằng phương pháp nội soi cắt hút, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 60
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT GIẢM THỂ TÍCH
CUỐN MŨI DƯỚI BẰNG PHƯƠNG PHÁP NỘI SOI CẮT HÚT
Trần Văn Hương*, Lâm Huyền Trân**, Huỳnh Khắc Cường**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phẫu thuật giảm thể tích cuốn mũi dưới quá phát bằng phương pháp nội soi
cắt hút.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng trên 46 bệnh nhân BN ≥ 18 tuổi, nghẹt mũi
do quá phát niêm mạc CMD không đáp ứng với nội khoa; được phẫu thuật làm giảm thể tích cuốn mũi dưới bằng
phương pháp nội soi cắt hút tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ 01/07/2011 đến 30/05/2012. Đánh giá hiệu quả
dựa vào thang điểm đánh giá nghẹt mũi (NOSE), nội soi mũi và khí áp mũi qua thăm dò bằng sóng âm (acoustic
rhinometry) trước và sau mổ 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng.
Kết quả: 46 ca; 22 nam, 24 nữ; tuổi trung bình 32,87±9,1. Thời gian phẫu thuật trung bình 15,9±1,83 phút;
ít đau; ít chảy máu; ít tạo vẩy mũi sau mổ. 54,3% cải thiện nghẹt mũi ngay tuần đầu sau mổ với điểm NOSE
giảm có ý nghĩa thống kê (65,8 so với 37,2 ; P<0,0001) và duy trì đến sau mổ 1 tháng và 3 tháng (P<0, 0001). Các
triệu chứng đi kèm với nghẹt mũi: chảy mũi, hắt hơi, khô họng, mất mùi, nhức đầu đều giảm có ý nghĩa thống kê
về tần suất lẫn mức độ (P<0,05). Trên khí áp mũi, tVOL và tMCA trung bình đều tăng có ý nghĩa thống kê sau
mổ 1 tháng và 3 tháng (P<0,001).
Kết luận: Phẫu thuật cắt dưới niêm mạc cuốn mũi dưới bằng phương pháp nội soi cắt hút là phương pháp
phẫu thuật an toàn và hiệu quả trong điều trị nghẹt mũi mạn do quá phát cuốn mũi dưới.
Từ khóa: Quá phát cuốn mũi dưới, nghẹt mũi, microdebrider, khí áp mũi, tVOL, tMCA.
ABSTRACT
EFFICACY OF SUBMUCOSAL REDUCTION OF INFERIOR TURBINATE HYPERTROPY USING THE
MICRODEBRIDER
Tran Van Huong, Lam Huyen Tran, Huynh Khac Cuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 60 - 65
Objective: To evaluate the efficacy of submucosal reduction of inferior turbinate reduction using the
microdebrider.
Methods: Clinical trials on 46 adult patients, who suffer from nasal obstruction due to inferior turbinate
hypertrophy refractory to medical therapy, were treated with submucosal turbinectomy from 01/07/2011 to
30/05/2012, at Nguyen Tri Phuong hospital, HCM city. NOSE scale, nasal endoscopy and acoustic rhinometry
(AR) were used to assess postoperative outcomes after 1 week, 1 month and 3 months.
Results: 46 patients including 22 males and 24 females; mean age was 32.87±9.1; mean operative time was
15.9±1.83; no much bleeding; minimal pain; few crusts. At the 1-week follow-up, nasal obstruction decreased
(54.3%) with a significant improvement in mean NOSE scale (65.8 vs.37.2; P<0.0001) and sustained results at
the 1-month and 3-month follow-up (P<0.0001). In AR, there was a significant improvement in the total nasal
volume and the anterior portion of inferior turbinate area 1 and 3 months after surgery (P<0.001).
Conclusion: Submucosal reduction of inferior turbinate using the microdebrider is a safe and effective
* Khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Quận Thủ Đức. ** Bộ môn Tai Mũi Họng Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Trần Văn Hương ĐT: 0918831032 Email: bshuongtmh@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 61
procedure in treatment of chronic nasal obstruction due to inferior turbinate hypertrophy.
Key words: Inferior turbinate hypertrophy, nasal obstruction, acoustic rhinometry, tVOL, tMCA.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khoang mũi là nơi đầu tiên tiếp nhận luồng
khí thở từ không khí vào các cơ quan hô hấp
dưới. Luồng không khí qua mũi được điều hòa,
thanh lọc, làm ấm, tăng độ ẩm trước khi vào
phổi. Khả năng này được thực hiện là nhờ cấu
trúc của các thành phần trong khoang mũi. Các
thành phần này có cấu trúc biểu mô đặc biệt chịu
sự chi phối của hệ thần kinh giao cảm và có hệ
miễn dịch tại chỗ tương đối hoàn chỉnh. Cuốn
mũi dưới là một cấu trúc đóng vai trò quan trọng
trong khoang mũi, góp phần vào chức năng
thanh lọc làm ấm, tăng độ ẩm và là một phần
của trở kháng mũi để điều hòa luồng khí thở vào
phổi. Ở người bình thường, việc thở qua đường
mũi là một quá trình sinh lý tự nhiên không bị
nghẹt dù ở tư thế đứng, ngồi, nằm ngủ hay gắng
sức. Lưu lượng không khí vào cơ thể qua đường
mũi trung bình một ngày khoảng từ 9.000 –
10.000 lít.
Để đảm bảo thở đủ lưu lượng không khí này
một cách sinh lý, cấu trúc khoang mũi phải đảm
bảo độ thông thoáng cho luồng khí đi qua. Vì
những lý do bất thường về cấu trúc giải phẫu
hay bệnh lý trong khoang mũi gây tắc nghẽn
mũi sẽ ảnh hưởng đến chức năng hô hấp của cơ
thể. Tắc nghẽn mũi là một triệu chứng khá phổ
biến, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, đời sống,
tâm lý, ngày công lao động và là một trong
những nguyên nhân khiến bệnh nhân đến khám
bệnh. Tắc nghẽn mũi cơ học gồm lệch vẹo vách
ngăn, polype mũi, u hốc mũi, dị vật mũi và tăng
quá mức thể tích cuốn mũi dưới một cách
thường xuyên ở một hay cả hai bên mũi. Nghẹt
mũi do tăng quá mức thể tích cuốn mũi dưới là
vấn đề đã được đặt ra cách đây hơn 130 năm.
Trải qua thời gian, nhiều phương pháp chỉnh
hình cuốn mũi dưới đã được áp dụng từ kinh
điển cho đến hiện đại. Các phương pháp phẫu
thuật lạnh như bẻ ép cuốn mũi, cắt cuốn dưới
bán phần, toàn phần, cắt bỏ xương cuốn dưới
dưới niêm mạc, tiêm hóa chất gây xơ. v.v Các
phương pháp phẫu thuật bằng nhiệt nóng như
đốt điện nhiệt, điện cao tần đơn cực, lưỡng cực,
Laser, Radiofrequency, Coblator đã được triển
khai, thực hiện trong nhiều năm qua trên thế
giới(5,6,7,8).
Nghẹt mũi đã và đang là vấn đề mấu chốt và
vẫn là một thách thức đối với các thầy thuốc tai
mũi họng. Vấn đề được đặt ra là làm sao để điều
trị bệnh nhân giảm nghẹt mũi mà ít gây biến
chứng, hợp với sinh lý mà vẫn giữ được cấu trúc
giải phẫu của cuốn mũi dưới. Do vậy chúng tôi
chọn đề tài nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu
thuật giảm thể tích cuốn mũi dưới bằng phương
pháp nội soi cắt hút.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân 18 tuổi đến khám vì nghẹt mũi
và được chẩn đoán quá phát niêm mạc cuốn mũi
dưới có chỉ định phẫu thuật tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương từ ngày 01/07/2011 đến
ngày 30/05/2012.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân 18, đến khám vì nghẹt mũi do
quá phát niêm mạc cuốn mũi dưới kéo dài
không đáp ứng với điều trị nội khoa, không xác
định có những nguyên nhân khác gây nghẹt
mũi, đồng ý điều trị phẫu thuật theo phương
pháp nội soi cắt hút.
Tiêu chuẩn loại trừ
Có kèm theo bệnh lý tại chỗ: viêm mũi xoang
cấp, polype mũi xoang, u mũi xoang, vẹo vách
ngăn, bệnh lý van mũi...; bệnh lý nội khoa nặng
hoặc bệnh lý đông máu.
Cỡ mẫu
Dự kiến > 30.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu có can thiệp.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 62
Phương tiện nghiên cứu
Banh mũi, kẹp khuỷu, ống hút thẳng, máy
hút, 2 đoạn mèche tẩm lidocaine 2% và
naphazoline 0,05%, 2 miếng Merocel và thuốc tê
Lidocain 2% có pha Adrenalin 1:100.000.
Máy đo khí áp mũi qua thăm dò bằng sóng
âm Acoustic Rhinometry hiệu Eccovision 4.3.
Hệ thống nội soi chẩn đoán và ống nội soi
cứng 00- hãng Karl-Stortz.
Hệ thống Microdebrider với đầu cắt hút
2,9mm của hãng Medtronic.
Các bước tiến hành
Chọn bệnh nhân theo tiêu chuẩn chọn mẫu,
giải thích đưa vào nhóm nghiên cứu.
Các bệnh nhân được đánh giá trước mổ dựa
vào thang điểm NOSE; VAS (visual analogue
scale) về các triệu chứng đi kèm nghẹt mũi; nội
soi mũi và đo Acoustic Rhinometry.
Tiến hành phẫu thuật
Tư thế bệnh nhân: Nằm ngửa.
Vô cảm: Gây mê nội khí quản.
Gây tê niêm mạc cuốn mũi dưới bằng
Lidocaine 2% có pha Adrenaline 1/100.000 dọc
theo mặt trong và suốt chiều dài của cuốn mũi
dưới trước khi tiến hành phẫu thuật.
Cài đặt Microdebrider ở tốc độ 3.000
vòng/phút với đầu que cắt hút 2.9mm.
Qua nội soi: Dùng lưỡi dao số 15, rạch ở vị trí
ngay giữa đầu trước cuốn mũi dưới, xuyên qua
lớp niêm mạc. Dùng Spatule bóc tách niêm mạc
khỏi cuốn dưới, bóc tách nhẹ nhàng và di
chuyển dọc theo chiều dài cuốn mũi dưới từ
đầu, thân, đuôi hướng từ trên, trong, dưới.
Dùng Microdebrider cắt hút dưới niêm mạc
cuốn mũi dưới với chế độ cài đặt sẵn vận tốc
3.000 vòng/phút với que cắt hút 2.9mm, đưa nhẹ
nhàng dọc theo chiều dài cuốn mũi dưới từ đầu,
thân, đuôi hướng từ trên, trong, dưới, sau cùng
cẩn thận rút que cắt hút ra ngoài.
Hút sạch máu, dịch tiết và kiểm tra xác định
hố mổ thông thoáng, không chảy máu trước khi
kết thúc phẫu thuật. Sau đó nhét Merocel hốc
mũi hai bên.
Bệnh nhân xuất viện sau mổ 48 giờ nếu tình
trạng ổn định. Khi xuất viện, tất cả bệnh nhân
đều được kê toa thuốc uống trong 1 tuần, bao
gồm: kháng sinh, kháng viêm dạng men, giảm
đau và nước muối sinh lý nhỏ mũi hàng ngày.
Rút merocel sau 48 giờ.
Bệnh nhân được hẹn tái khám sau mổ 1 tuần,
1 tháng và 3 tháng. Việc đánh giá hiệu quả phẫu
thuật được thực hiện chủ yếu dựa vào: thang
điểm đánh giá nghẹt mũi (NOSE), thang điểm
đánh giá đau và các triệu chứng cơ năng khác
(VAS), nội soi mũi xoang (sau mổ 1 tuần, 1 tháng
và 3 tháng) và đo Acoustic Rhinometry (sau mổ
1 tháng và 3 tháng).
Đánh giá kết quả
Thời gian phẫu thuật; chảy máu trong mổ,
sau mổ, đau trong và sau mổ, tạo vẩy mũi
sau mổ.
Thang điểm NOSE (từ 0-100 điểm, với 0
điểm: không có vấn đề; 100 điểm: vấn đề rất
nặng), gồm 5 yếu tố đánh giá: Nghẹt mũi, tắc
mũi, khó chịu khi thở mũi, nghẹt mũi ảnh hưởng
đến giấc ngủ và không thể lấy đủ khí qua mũi
khi tập thể dục/gắng sức. Thang điểm VAS (từ 0-
100) về các triệu chứng đi kèm nghẹt mũi. Đo
Acoustic Rhinometry sau mổ 1 tháng và 3 tháng.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0. Dùng
phép kiểm t cặp đôi để kiểm định sự khác biệt
giữa trước và sau mổ của thang điểm NOSE,
VAS và các thông số AR.
KẾT QUẢ
Từ 01/07/2011 đến 30/05/2012 tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương có tất cả 46 bệnh nhân thỏa
mãn các tiêu chuẩn chọn mẫu được phẫu thuật
(92 CMD quá phát) theo phương pháp nội soi cắt
hút dưới gây mê qua nội khí quản.
Tuổi
Tuổi trung bình là 32,87± 9,1 tuổi; tuổi nhỏ
nhất là18 tuổi; tuổi lớn nhất là 52.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 63
Nhóm tuổi 31-40 chiếm tỉ lệ cao nhất
(43,48%).
Giới
Nam (22 ca; 47,8%), ít hơn nữ (24 ca; 52,2%).
Tỉ lệ nam:nữ = 0,92.
Nghề nghiệp và yếu tố tiếp xúc
Nghề nghiệp của mẫu nghiên cứu khá đa
dạng, trong đó nhóm là nghề công nhân
(28,26%) và nội trợ (23,91%) chiếm đa số.
Đa số bệnh nhân sinh sống và làm việc trong
môi trường có tiếp xúc với khói bụi và máy lạnh
(86,95%).
Tiền căn sử dụng thuốc co mạch tại chỗ:
69,57% từng sử dụng thuốc co mạch tại chỗ.
Trong đó, đa số là do tự ý mua (58,7%) và 45,65%
dùng thuốc kéo dài trên 1 tháng.
Thời gian phẫu thuật
Tính từ khi bắt đầu rạch đầu niêm mạc cuốn
mũi dưới cho đến khi kết thúc phẫu thuật, kéo
dài 8 đến 31 phút. Thời gian phẫu thuật trung
bình là 15,9± 1,83 phút.
Ước lượng máu mất
Không đáng kể (3-5ml), chủ yếu là máu chảy
ra từ vị trí rạch niêm mạc cuốn mũi dưới.
Biến chứng trong phẫu thuật
Rách niêm mạc cuốn mũi dưới 6,52% (3 ca).
Không ghi nhận chảy máu sau phẫu thuật.
Đau trong và sau mổ
Có 27/46 trường hợp (58,7%) than đau vết
mổ sau phẫu thuật 12 giờ, một số vẫn còn đau
sau mổ 1 tuần (21,74%). Sau 1 tháng trở lên,
không có bệnh nhân đau vết mổ.
Tần suất nghẹt mũi
54,3% cải thiện nghẹt mũi ngay từ tuần đầu
sau mổ; 69,6% cải thiện sau 1 tháng và 84,8% sau
3 tháng.
Thang điểm NOSE: Giảm có ý nghĩa thống
kê tại các thời điểm đánh giá sau mổ (P<0, 0001).
Bảng 1. Thang điểm đánh giá nghẹt mũi (NOSE)
trước và sau mổ.
Thang điểm NOSE t-test Thời điểm đánh
giá Trung bình Độ lệch chuẩn P
Trước mổ 65,8 17,4
Sau mổ 1 tuần 37.2 12,6 < 0,0001
Sau mổ 1 tháng 22,8 8,9 < 0,0001
Sau mổ 3 tháng 18,1 10.3 < 0,0001
NOSE: Nasal Obstruction Symptom Evaluation
(Đánh giá triệu chứng nghẹt mũi).
Thang điểm VAS (visual analogue scale)
Các triệu chứng cơ năng khác: Bao gồm chảy
mũi, hắt hơi, mất mùi, khô họng, nhức đầu đều
cải thiện về cả tần suất lẫn mức độ; với điểm
VAS giảm có ý nghĩa thống kê tại các thời điểm
đánh giá sau mổ (P<0,05).
Tình trạng tạo vẩy mũi sau mổ
Sau mổ 1 tuần, có 17 ca (36,95%) tạo vẩy mũi
mức độ từ ít đến vừa; sau 1 tháng và 3 tháng,
không ghi nhận trường hợp nào còn vẩy mũi.
Tình trạng cải thiện kích thước đầu cuốn
mũi dưới sau mổ
Sau mổ 1 tuần, có 63,05% trường hợp đầu
cuốn mũi dưới thu nhỏ lại hơn so với trước khi
mổ; sau 1 tháng và 3 tháng tỷ lệ này là 100%.
Tình trạng lành thương sau mổ
Sau mổ 1 tuần, đa số trường hợp đều lành
thương tốt (89,13%), không ghi nhận trường hợp
nào lành thương kém. Sau 1 tháng, 3 tháng tỷ
lành thương tốt là 100%.
Acoustic Rhinometry
tVOL trung bình và tMCA trung bình đều
tăng có ý nghĩa thống kê sau mổ 1 tháng và 3
tháng (P<0,001). Sau mổ 1 tháng giá trị trung
bình tVOL tăng 5,19cm³ (63,4%), và tMCA tăng
0,57cm² (74,03%). Sau mổ 3 tháng giá trị trung
bình tVOL tăng 5,98cm³(73,01%), và tMCA tăng
0,6cm²(77,92%) (Bảng 2).
Sự khác biệt giữa mức đáp ứng co mạch
trước và sau mổ là có ý nghĩa thống kê (P<0, 05).
Bảng 2. Các thông số trên khí áp mũi trước và sau
mổ (trước co mạch).
Thời điểm đánh
giá
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
P
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 64
Trước mổ 8,19 1,13
Sau 1 tháng 13,38 1,3 <0, 001
tVOL
Sau 3 tháng 14,17 2,2 <0, 001
Trước mổ 0,77 0,21
Sau 1 tháng 1,34 0,32 <0, 001
tMCA
Sau 3 tháng 1,37 0,21 <0, 001
tVOL: total nasal volume (tổng thể tích 2 hốc mũi).
tMCA: total minimum cross-sectional area (tổng diện
tích vùng đầu cuốn mũi dưới).
BÀN LUẬN
Tính an toàn
Theo giải phẫu học, cuốn mũi dưới là cấu
trúc giàu mạch máu, do đó một trong những
biến chứng cần đáng chú ý nhất là chảy máu khi
thực hiện can thiệp lên cấu trúc này. Trước phẫu
thuật, chúng tôi đã thực hiện làm thu hẹp thể
tích cuốn mũi dưới 1 phần nhằm cho việc quan
sát phẫu trường thêm thuận lợi bằng cách đặt 1
đoạn mèche có tẩm thuốc co mạch.
Cũng như Carlos(9), chúng tôi đã tiến hành
chích tê tại chỗ với Lidocain 2% có pha
Adrenalin 1/100,000; đồng thời, chúng tôi thiết
lập tốc độ vòng quay của lưỡi dao cắt hút là
3.000 vòng/phút và chỉ số hút thấp. Với chỉ số
hút này và tốc độ vòng quay không quá nhanh
này có thể đảm bảo cắt gọn mô dưới niêm mạc
cuốn mũi dưới.
Theo y văn, phẫu thuật cắt cuốn mũi dưới
mang tính chất xâm lấn, nên có khả năng gây
chảy máu nhiều(2). Nhưng trên thực tế lâm sàng,
lượng máu mất trong lúc phẫu thuật thực sự
không đáng kể, ước lượng lượng máu mất
khoảng 3-5ml. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào chảy máu sớm
trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật và cũng không
ghi nhận trường hợp nào chảy máu sau phẫu
thuật 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng.
Tuy nhiên, chúng tôi lại ghi nhận 3 trường
hợp (6,52%) bị rách niêm mạc cuốn mũi dưới
trong lúc phẫu thuật. Chúng tôi đã tiến hành
biện pháp khắc phục bằng cách ép niêm mạc
cuốn mũi dưới về vị trí cũ; nhét Merocel; chích
Transamine cầm máu. Sau một thời gian theo dõi
tại bệnh viện trong 48 giờ và khi tái khám sau
phẫu thuật 1 tuần trở lên, chúng tôi ghi nhận
không trường hợp nào chảy máu. Cả 3 trường
hợp rách niêm mạc trên đều lành vết thương
như những trường hợp khác. Biến chứng rách
niêm mạc này xảy ra ở những bệnh nhân được
chúng tôi phẫu thuật đầu tiên. Điều này có lẽ là
do phẫu thuật viên lúc đầu vẫn chưa thao tác
nhuần nhuyễn với phương tiện phẫu thuật,
nhưng tai biến này đã không tiếp tục xảy ra ở các
bệnh nhân được phẫu thuật kế tiếp.
Phẫu thuật tiến hành cắt hút mô dưới niêm
mạc của cuốn mũi dưới chỉ lấy đi phần mô mềm
mà vẫn bảo tồn lại cấu trúc của niêm mạc. Điều
này đồng nghĩa chức năng sinh lý của niêm mạc
vẫn được bảo tồn gần như hoàn toàn sau phẫu
thuật(4,7,9). Tương ứng với lâm sàng, bệnh nhân
cải thiện một cách có ý nghĩa thống kê về các
triệu chứng cơ năng, thực thể và trên khí áp mũi
sau phẫu thuật cũng cho thấy sự cải thiện một
cách ý nghĩa.
Tính khả thi và kinh tế
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi
nhận 100% bệnh nhân được phẫu thuật với
phương pháp vô cảm là gây mê qua nội khí
quản, có khả năng là do yếu tố tâm lý sợ đau.
Nhưng theo y văn và thực tế lâm sàng cho thấy,
phẫu thuật vẫn có thể thực hiện với gây tê tại
chỗ.
Thứ hai, thời gian phẫu thuật được tính từ
lúc chích tê tại chỗ cuốn mũi dưới bên đầu tiên
cho đến khi phẫu thuật kết thúc trên cả 2 bên.
Kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận thời gian
phẫu thuật trung bình là 15,9±1,83 phút, tương
đồng với tác giả Trần Đình Khả mất trung bình
15-20 phút để phẫu thuật đốt điện lưỡng cực
dưới niêm mạc cuốn mũi dưới (7).
So sánh với kết quả nghiên cứu của Ney P.
Castro Jr (2000)(1), tác giả này báo cáo thời gian
phẫu thuật trung bình mất 30 phút để thực hiện
phẫu thuật cắt hút dưới niêm mạc cuốn mũi
dưới(1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 65
Thứ ba, theo khuyến cáo của nhà sản xuất,
mỗi lưỡi dao cắt hút nên tiến hành phẫu thuật
cho từ 5 đến 7 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật
mũi xoang. Tuy nhiên, tùy theo mô bệnh lý là
mô dai hoặc cứng, hoặc chắc thì có thể sử dụng
từ 10 đến 15 bệnh nhân. Trên thực tế, phẫu thuật
chỉ tiến hành gần như hoàn toàn trên mô mềm
với thời gian thực sự không quá lâu (15,9±1,83
phút), nên trên cùng một lưỡi dao cắt hút, chúng
tôi có thể tiến hành phẫu thuật trên từ 15 đến 20
bệnh nhân, trung bình 17 bệnh nhân.
Tính hiệu quả
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các
bệnh nhân cải thiện nghẹt mũi ngay từ tuần
đầu sau mổ về cả tần suất lẫn mức độ và kết
quả được duy trì sau mổ 3 tháng. Thang điểm
NOSE giảm có ý nghĩa thống kê (P<0,0001) tại
tất cả các thời điểm đánh giá sau mổ (Bảng 1).
Thang điểm đánh giá (VAS) của các triệu
chứng cơ năng đi kèm cũng ghi nhận sự cải
thiện về cả tần suất lẫn mức độ chảy mũi, hắt
hơi, mất mùi, khô họng, nhức đầu; với sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05 ) sau mổ so
với trước mổ. Tương tự, trên khí áp mũi, tVOL
và tMCA sau mổ đều tăng có ý nghĩa thống kê
(P<0,001) so với trước mổ (Bảng 2). Đồng thời,
sự khác biệt giữa mức đáp ứng co mạch trước
và sau mổ là có ý nghĩa thống kê (P<0, 05). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương
đồng với nghiên cứu của các tác giả khác(1,3,7,8).
KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi cắt hút dưới niêm mạc là
một phương pháp đơn giản, an toàn và hiệu quả
trong điều trị nghẹt mũi kéo dài do quá phát
niêm mạc cuốn mũi dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Castro NP, Jr (2000). “Turbinectomy Assisted by
Videoendoscopy and Microdebrider”. Clinic of
Otorhinolaryngology at Santa Casa de So Paulo. RBORL (66) 5,
August 7, 2000. pp 633-636.
2. Chen YL, Liu CM, Huang HM (2007) Comparison of
microdebrider-assisted inferior turbinoplasty and submucosal
resection for children with hypertrophic inferior turbinates.
International Journal of Pediatric Otorhinolaryngology vol 71,
pp: 921—927.
3. Lee CF, Chen TA (2004). “Power Microdebrider-Assisted
Modification of Endoscopic Inferior Turbinoplasty: A
Preliminary Report: Chang Gung Med J 2004; 27: 359-65.
4. Most SP (2006). “Analysis of outcomes after functional
rhinoplasty using a disease-specific quality-of-life instrument”.
Arch Facial Plast Surg, vol. 8 (5), pp. 306-309.
5. Nguyễn Hồng Sơn (2009), Phẫu thuật giảm thể tích cuốn mũi
dưới quá phát bằng laser CO2, Luận văn chuyên khoa cấp II.
Đai Học Y Dược TP.HCM. tr 47-59.
6. Trần Anh Tuấn (2007). Đánh giá kết quả điều trị nghẹt mũi do
quá phát cuốn dưới bằng kỹ thuật coblation. Y học Tp. Hồ Chí
Minh, Tập 11, PB số 1, chuyên đề Mắt – Tai Mũi Họng: 162-164.
7. Trần Đình Khả (2006), Điều trị nghẹt mũi do quá phát cuốn
dưới bằng đốt điện lưỡng cực dưới niêm mạc, Luận văn tốt
nghiệp nội trú. Đại Học Y Dược TP.HCM. tr 33-59.
8. Trần Thị Thu Trang (2009), Hiệu quả của phẫu thuật đông điện
lưỡng cực cao tần (coblator) dưới niêm mạc cuốn mũi dưới,
Luận văn tốt nghiệp nội trú. Đại Học Y Dược TP.HCM. tr 36-
57.
9. Yánez C (1998). “New technique for turbinate reduction in
chronic hypertropic rhinitis: Intraturbinate stroma removal
using the microdebrider. Rhinology 132: pp 108-304.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_phau_thuat_giam_the_tich_cuon_mui_duoi_bang.pdf