Z. Jaffar, Band Jee và cs (Hyères) ở Hội nghị
SOFCOT lần thứ 69 (tháng 11/1994) tại Pháp
- Số bệnh nhân: 38 (với 41 khớp gối)
- Thời gian theo dõi: 10 – 13 năm
- Kết quả điều trị
Dùng bảng đánh giá của HSS (Hospital for
Special Surgery). Có 80% số bệnh nhân đạt kết quả
rất tốt hoặc tốt
- Biến chứng:
+ Nhiễmtrùng: có 4 khớp gối , trong đó có 3
khớp phải lấy khớp nhân tạo ra.
+ Bán trật xương bánh chè ra ngoài: 21% số
bệnh nhân có biến chứng này.
H. Thomazeau và cs (Rennes) ở Hội nghị
SOFCOT lần thứ 69 (tháng 11/1994) tại Pháp
- Số bệnh nhân: 47 khớp gối (20% số bệnh
nhân được mổ 2 bên)
- Thời gian theo dõi: 5 – 9 năm
- Kết quả chức năng:
+ 91% số khớp gối đạt kết quả rất tốt hoặc tốt.
+ Đau khớp gối sau mổ: 70% hoàn toàn hết
đau, 30% thỉnh thoảng bị đau và thường bị đau ở
khớp chè đùi.
+ Biên độ vận động gấp gối: 91% gấp được
trên 90 độ, trong đó 61% gấp được trên 110 độ.
+ Khoảng đường đi bộ được tối đa: 95% số
bệnh nhân có thể đi bộ được trên 500 mét (trong đó
11% số bệnh nhân phải đi với một gậy).
+ Biến chứng ở xương bánh chè: có 1 khớp
phải mổ lại do bộ phận xương bánh chè được đặt
không tốt.
+ Theo dõi bằng X quang: Sau 5 năm không có
trường hợp nào bị bong bộ phận xương đùi dù chỉ
là bán phần, tuy nhiên có 13% số khớp có hiện
tượng bong bán phần bộ phận xương chày, nhung
không phạm vào phần chuôi.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả ban đầu điều trị thoái hoá khớp gối bằng thay khớp gối nhân tạo toàn phần kiểu xoay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
7
KẾT QUẢ BAN ĐẦU ĐIỀU TRỊ THOÁI HOÁ KHỚP GỐI
BẰNG THAY KHỚP GỐI NHÂN TẠO TOÀN PHẦN KIỂU XOAY
Phạm Chí Lăng*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của công trình này là góp phần khảo sát về những yếu tố
thuận lợi của thoái hoá khớp gối, đồng thời đánh giá kết quả ban đầu trong điều trị thoái hoá khớp gối bằng
phương pháp thay khớp gối nhân tạo toàn phần, xử dụng hệ thống khớp gối nhân tạo kiểu xoay.
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu
Kết quả: Từ tháng 01/2004 đến tháng 01/2007, có 61 khớp gối (ở 50 bệnh nhân) bị thoái hoá khớp gối
đã được điều trị phẫu thuật, tại khoa Chấn Thương Chỉnh Hình Bệnh viện Pháp Việt, bằng phương pháp
thay khớp gối nhân tạo toàn phần, xử dụng hệ thống khớp gối nhân tạo kiểu xoay. Với thời gian theo dõi
trung bình 15 tháng, kết quả về chức năng được ghi nhận như sau: - Với cách đánh giá theo sơ đồ Venn của
Bauer, có 82% tốt, 8% trung bình, 10% kém. - Với cách đánh giá của Bệnh viện Cochin, có 88% rất tốt hoặc
tốt, 10% trung bình, 2% kém.- Đánh giá theo chủ quan của bệnh nhân, có 85% hài lòng, 8% trung bình, 7%
kém.
Kết luận: Phương pháp thay khớp gối nhân tạo toàn phần là một phương pháp điều trị hiệu quả cho
những trường hợp thoái hoá khớp ở giai đoạn nặng, giúp bệnh nhân sớm trở lại với sinh hoạt gần như bình
thường trong thời gian sớm nhất, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân, nhất là ở những bệnh
nhân lớn tuổi.
ABSTRACT
PRIMARY RESULTS OF TOTAL KNEE REPLACEMENT USING THE ROTARY SYSTEM FOR
OSTEOARTHRITIS OF THE KNEE
Pham Chi Lang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 1 - 2008: 8 – 14
Purpose: The purpose of this research is to study the favorable factors of the osteoarthritis of the knee,
and to evaluate the primary results of the total knee replacement for osteoarthritis of the knee, using the
rotary system.
Method: prospective study
Results: From January 2004 to January 2007, sixty - one total knee replacements were performed for
fifty patients (with sixty - one arthrosic knees) at the orthopaedic department of FV Hospital, using the
system with the rotary tibial plateau . With the mean follow-up of fifteen months, the functional results were
recognised as following: Using the score of Bauer: 82% good, 8% fair, 10% poor. Using the score of Cochin
Hospital: 88% excellent or good, 10% fair, 2% poor. Assessment using the subjective feelings of patients:
85% good, 8% fair, 7% poor.
Conclusion: Total knee replacement is the efficient treatment for osteoarthritis of the knee at the grave
stade. Suffered from this treatment the patient is able to come back almost to normal activities as soon as
possible, to get the improvement of the quality of their life, especially for the old patients..
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hoá khớp gối là một bệnh lý thường gặp
của khớp gối do hiện tượng mòn lớp sụn khớp và
do những hậu quả đi theo. Việc điều trị bệnh lý này
luôn luôn là một vấn đề khó khăn, dù đó là điều trị
nội khoa hay điều trị ngoại khoa. Tùy theo giai
đoạn tiến triển của bệnh mà ta có những phương
pháp điều trị khác nhau. Riêng ở giai đoạn thoái
hoá khớp nặng, khi mà lớp sụn khớp bị mòn hoàn
toàn , thì thay khớp gối nhân tạo toàn phần là một
phương pháp được chỉ định 9, 10.
* Khoa chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Pháp Việt
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 1 * 2008
8
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của công trình này là góp
phần nghiên cứu về bệnh lý thoái hoá khớp gối như
sau:
- Khảo sát một số yếu tố thuận lợi của thoái hoá
khớp gối như tuổi, giới tính, béo phì, chấn thương,
viêm đa khớp dạng thấp
- Đánh giá kết quả điều trị thoái hoá khớp gối
bằng phương pháp thay khớp gối toàn phần với hệ
thống New Wave, là một hệ thống khớp gối nhân
tạo mà mâm chày có thể xoay.
ĐỐI TƢỢNG – PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 50 trường hợp (với 61
khớp gối) bị thoái hoá khớp gối nặng đã được điều
trị bằng phương pháp thay khớp gối nhân tạo toàn
phần tại Khoa Chấn Thương Chinh Hình Bệnh
Viện Pháp Việt trong thời gian từ tháng 01/2004
đến tháng 01/2007, với thời gian theo dõi trung
bình 15 tháng (từ 3 tháng đến 37 tháng).
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Tiền cứu
Phƣơng pháp điều trị
Bệnh nhân được chẩn đoán bằng X quang khớp
gối thẳng nghiêng ở tư thế đứng chịu lực
Phương pháp gây mê: tê tủy sống
Đặt khớp gối nhân tạo: xử dụng hệ thống khớp
gối nhân tạo New Wave, với phần mâm chày bằng
polyethylène có thể xoay
Kháng sinh: chúng tôi chỉ cho kháng sinh dự
phòng trong 24 giờ trong và sau mổ.
Ống dẫn lưu: chúng tôi xử dụng ống và bình
dẫn lưu có áp lực âm. Ong dẫn lưu được rút bỏ sau
48 giờ.
Điều trị sau mổ: ngay ngày đầu tiên sau mổ,
bệnh nhân được cho tập gấp duỗi gối tăng dần trên
máy tập khớp gối, ngồi ra ghế và tập đi chịu sức
nặng toàn phần với khung 4 chân
Thời gian nằm viện: 10 ngày.
Khi ra viện bệnh nhân đã có thể tự đi với khung
4 chân trong phòng. Sau mổ 1 tháng bệnh nhân đã
có thể đi lại gần như bình thường, không cần trợ
giúp.
Đánh giá kết quả điều trị
Kết quả điều trị được đánh giá dựa vào 2 cách
đánh giá sau:
Sơ đồ Venn của Bauer 2:
Có 3 tiêu chuẩn:
Không đau: không dùng thuốc giảm đau
Biên độ vận động:
Gấp gối: từ 90 độ trở lên
Mất duỗi gối: dưới 5 độ
Khớp gối vững
Khi không có biến dạng góc đùi chày khi đi
Khi đi mà không cần có trợ giúp
Đánh giá chung cuộc:
Tốt: khi hội đủ cả 3 tiêu chuẩn
Trung bình: Khi khớp gối không đau, 2 tiêu
chuẩn còn lại không hội đủ
Kém: khi khớp gối còn đau
Tiêu chuẩn đánh giá của Bệnh viện Cochin 2:
A B C
Đau không thỉnh thoảng thường xuyên
Vận động gấp
gối
từ 100 độ trở
lên
80 độ – 99 độ dưới 80 độ
Lên xuống cầu
thang (sức cơ)
bình thường đi từng bước không thể
Đánh giá chung cuộc:
Rất tốt: cả 3 tiêu chuẩn thuộc loại A
Tốt: có 2 tiêu chuẩn loại A và 1 tiêu chuẩn loại
B
Trung bình: chỉ có 1 tiêu chuẩn loại C
Kém: có 2 hoặc 3 tiêu chuẩn loại C
KẾT QUẢ
Giới tính
Tất cả 50 bệnh nhân là nữ giới (100%)
Tuổi
Tuổi trung bình là 71 (từ 44 đến 89), trong đó
94% số bệnh nhân trên 60 tuổi
Căn nguyên:
Béo phì:
Dùng chỉ số BMI để xác định bệnh nhân có bị
béo phì hay không (8)
Chỉ số BMI được tính theo công thức 8:
cân nặng (tính bằng kg)
BMI = ____________________________
bình phương chiều cao (tính bằng mét)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
9
Theo Tổ Chúc Y Tế Thế Giới
Bình thường
Nam giới: 23 kg/m2 – 25 kg/m2 (trung bình =
25kg/m2)
Nữ giới: 18,7 kg/m2 - 23,8 kg/m2 (trung bình =
21 kg/m2)
Bất thường:
Thừa cân: 25 kg/m2 – 30 kg/m2
Béo phì: trên 30 kg/m2
Lô bệnh của chúng tôi có sự phân bố như sau:
Lâm sàng BMI Số ca
Thiếu cân < 18,5 kg/m2 2 ca
Bình thường 18,5 kg/m2 – 24,9 kg/m2 22 ca
Thừa cân 25 kg/m2 - 29,9 kg/m2 19 ca
Béo phì - Độ I 30 kg/m2 – 34,9 kg/m2 7 ca
- Độ II 35 kg/m2– 39,9 kg/m2 0
- Độ III > 40 kg/m2 0
Như vậy trong 50 bệnh nhân, có 26 bệnh nhân
(chiếm tỉ lệ 52%) thừa cân hoăc béo phì độ I.
Lớn tuổi:
94% bệnh nhân trên 60 tuổi.
Nữ giới:
100% bệnh nhân là nữ. Phải chăng hiện tượng
rối loạn nội tiết tố nữ ở nữ giới khi đã mãn kinh có
một vai trò trong sinh bệnh học của thoái hoá khớp
gối ?
Viêm đa khớp dạng thấp:
Có 2 trường hợp (vói 3 khớp gối đã được mổ):
chiếm tỉ lệ 5%.
Chấn thương:
không có trường hợp nào.
Phân loại 3, 4, 5, 6:
Chúng tôi dùng cách phân loại của Kellgren và
Lawrence, dựa trên hình ảnh X quang của thoái hoá
khớp gối
Độ Mô tả
Độ 1: nghi ngờ Có chồi xương nhỏ, nghi ngờ có thoái hoá
khớp
Độ 2: ít Có chồi xương rõ rệt, khe khớp bị hẹp ít
Độ 3: vừa phải Khe khớp bị hẹp vừa phải
Độ 4: nặng Khe khớp bị hẹp hoàn toàn + mòn lớp xương
dưới sụn
Dựa vào cách phân loại này, tất cả 61 khớp gối
trong lô bệnh của chúng tôi đều thuộc độ 4.
Kết quả điều trị
Đau khớp gối sau mổ
- 55 khớp gối (90%) hoàn toàn hết đau
- 6 khớp gối (10%) còn đau thường xuyên hoặc
đôi khi
Biên độ gấp gối sau mổ:
58 khớp gối (95%) gấp gối được trên 90 độ,
trong đó 24 khớp gối (40%) gấp được trên 110 độ.
Theo dõi bằng X quang sau mổ:
Với thời gian theo dõi trung bình 15 tháng, tuy
còn quá sớm để nhận xét về biến chúng bong các
thành phần của khớp gối nhân tạo, song cho đến
thời điểm theo dõi cuối cùng, không trường hợp
nào có hình ảnh bong các thành phần của khớp gối
nhân tạo, dù là bong bán phần.
Đánh giá kết quả chức năng:
a) Theo sơ đồ Venn của Bauer:
Kết quả chung cuộc:
Tốt: 50 khớp gối (82%)
Trung bình: 5 khớp gối (8%)
Kém: 6 khớp gối (10%)
b) Theo tiêu chuẩn đánh giá của Bệnh viện Cochin:
Rất tốt: 9 khớp gối (14%)
Tốt: 45 khớp gối (74%)
Trung bình: 6 khớp gối (10%)
Kém: 1 khớp gối (2%)
c) Theo chủ quan của bệnh nhân:
Hài lòng: 52 khớp gối (85%)
Trung bình: 5 khớp gối (8%)
Kém: 4 khớp gối (7%)
Biến chứng sau mổ:
Nhiễm trùng
Có 1 khớp gối có dấu hiệu bị nhiễm trùng, đã được
cắt lọc và lấy máu tụ, cấy dịch nhưng không có vi trùng.
Sau đó trường hợp này ổn định.
Đau
Có 6 bệnh nhân (6 khớp gối) (chiếm tỉ lệ 10%)
vẫn đau khớp gối sau mổ. Trong 6 bệnh nhân này,
có 5 bệnh nhân bị thừa cân hoặc béo phì, với BMI
> 25 kg/m2 (từ 25 – 29 kg/m2).
Hạn chế vận động gấp gối
Có 2 khớp gối sau mổ chỉ gấp được 60 độ. Cả 2
khớp gối này đã được vận động thụ động khớp gối
dưới gây mê 2 tuần sau mổ và đã gấp được 120 độ.
Xương bánh chè bán trật ra ngoài khi gấp gối
Có 6 khớp gối (chiếm tỉ lệ 10%) được phát hiện có
biến chứng này khi chụp X quang ở tư thế tiếp tuyến.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 1 * 2008
10
Tuy nhiên cả 6 khớp gối này đều vững và không ảnh
hưởng đến biên độ gấp gối sau mổ (biên độ gấp gối đều
> 90 độ). Tuy nhiên có 1 khớp gối bị đau kéo dài sau
mổ.
So sánh với kết quả điều trị của một số tác giả
khác
Z. Jaffar, Band Jee và cs (Hyères) ở Hội nghị
SOFCOT lần thứ 69 (tháng 11/1994) tại Pháp
7:
- Số bệnh nhân: 38 (với 41 khớp gối)
- Thời gian theo dõi: 10 – 13 năm
- Kết quả điều trị: dùng bảng đánh giá của HSS
(Hospital for Special Surgery). Có 80% số bệnh
nhân đạt kết quả rất tốt hoặc tốt
- Biến chứng:
+ Nhiễmtrùng: có 4 khớp gối , trong đó có 3
khớp phải lấy khớp nhân tạo ra.
+ Bán trật xương bánh chè ra ngoài: 21% số
bệnh nhân có biến chứng này.
H. Thomazeau và cs (Rennes) ở Hội nghị
SOFCOT lần thứ 69 (tháng 11/1994) tại Pháp
11:
- Số bệnh nhân: 47 khớp gối (20% số bệnh
nhân được mổ 2 bên)
- Thời gian theo dõi: 5 – 9 năm
- Kết quả chức năng
91% số khớp gối đạt kết quả rất tốt hoặc tốt.
+ Đau khớp gối sau mổ:
70% hoàn toàn hết đau, 30% thỉnh thoảng bị
đau và thường bị đau ở khớp chè đùi.
+ Biên độ vận động gấp gối
91% gấp được trên 90 độ, trong đó 61% gấp
được trên 110 độ.
+ Khoảng đường đi bộ được tối đa
95% số bệnh nhân có thể đi bộ được trên 500
mét (trong đó 11% số bệnh nhân phải đi với một
gậy).
+ Biến chứng ở xương bánh chè:
Có 1 khớp phải mổ lại do bộ phận xương bánh
chè được đặt không tốt.
+ Theo dõi bằng X quang:
Sau 5 năm không có trường hợp nào bị bong bộ
phận xương đùi dù chỉ là bán phần, tuy nhiên có
13% số khớp có hiện tượng bong bán phần bộ phận
xương chày, nhung không phạm vào phần chuôi.
Mẫu khớp gối nhân tạo kiểu xoay New Wave
X quang trước mổ
X quang sau mổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
11
X quang sau mổ
Chức năng khớp gối sau mổ
BÀN LUẬN
Về căn nguyên của thoái hoá khớp gối
Lớn tuổi và giới tính nữ là một nguyên nhân
quan trọng khi 94% số bệnh nhân trong lô bệnh của
chúng tôi trên 60 tuổi và 100% số bệnh nhân là nữ.
Phải chăng hiện tượng rối loạn nội tiết tố nữ ở
những phụ nữ đã mãn kinh có một vai trò trong
sinh bệnh học của thoái hoá khớp gối. Ngoài ra
thừa cân nặng hoặc béo phì cũng là nguyên nhân
thường gặp. Trong lô bệnh của chúng tôi, 52% số
bệnh nhân có chỉ số BMI > 25 kg/m2 Viêm đa khớp
dạng thấp cũng là một nguyên nhân tuy không
thường gặp (tỉ lệ trong lô bệnh của chúng tôi là
5%).
Đau khớp gối kéo dài sau mổ
Là một biến chứng đáng lo ngại vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến chức năng khớp gối sau mổ,
làm giảm kết quả điều trị. Tỉ lệ trong lô bệnh của
chúng tôi là 10%. Tỉ lệ này thấp hơn so với kết quả
điều trị của một số tác giả khác như H. Thomazeau
và cs (tỉ lệ đau khớp gối sau mổ là 30%). Về
nguyên nhân của đau khớp gối sau mổ có thể là do
hội chứng bánh chè hoặc do thừa cân hoăc béo phì.
Về biên độ gấp gối sau mổ
95% số bệnh nhân trong lô bệnh của chúng tôi
có biên độ gấp gối trên 90 độ, trong đó 40% số
bệnh nhân gấp được trên 110 độ. Kết quả này cho
thấy ưu điểm của hệ thống khớp gối nhân tạo kiểu
xoay New Wave mà chúng tôi đang xử dụng.
So sánh với kết quả điều trị của một số tác giả
khác
Z. Jaffar, Band Jee và cs (Hyères) ở Hội nghị
SOFCOT lần thứ 69 (tháng 11/1994) tại Pháp
7:
- Số bệnh nhân: 38 (với 41 khớp gối)
- Thời gian theo dõi: 10 – 13 năm
- Kết quả điều trị
Dùng bảng đánh giá của HSS (Hospital for
Special Surgery). Có 80% số bệnh nhân đạt kết quả
rất tốt hoặc tốt
- Biến chứng:
+ Nhiễmtrùng: có 4 khớp gối , trong đó có 3
khớp phải lấy khớp nhân tạo ra.
+ Bán trật xương bánh chè ra ngoài: 21% số
bệnh nhân có biến chứng này.
H. Thomazeau và cs (Rennes) ở Hội nghị
SOFCOT lần thứ 69 (tháng 11/1994) tại Pháp
11:
- Số bệnh nhân: 47 khớp gối (20% số bệnh
nhân được mổ 2 bên)
- Thời gian theo dõi: 5 – 9 năm
- Kết quả chức năng:
+ 91% số khớp gối đạt kết quả rất tốt hoặc tốt.
+ Đau khớp gối sau mổ: 70% hoàn toàn hết
đau, 30% thỉnh thoảng bị đau và thường bị đau ở
khớp chè đùi.
+ Biên độ vận động gấp gối: 91% gấp được
trên 90 độ, trong đó 61% gấp được trên 110 độ.
+ Khoảng đường đi bộ được tối đa: 95% số
bệnh nhân có thể đi bộ được trên 500 mét (trong đó
11% số bệnh nhân phải đi với một gậy).
+ Biến chứng ở xương bánh chè: có 1 khớp
phải mổ lại do bộ phận xương bánh chè được đặt
không tốt.
+ Theo dõi bằng X quang: Sau 5 năm không có
trường hợp nào bị bong bộ phận xương đùi dù chỉ
là bán phần, tuy nhiên có 13% số khớp có hiện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 1 * 2008
12
tượng bong bán phần bộ phận xương chày, nhung
không phạm vào phần chuôi.
KẾT LUẬN
Với thời gian theo dõi trung bình 15 tháng và
kết quả chức năng khớp gối sau mổ đạt 82% tốt
(theo cách đánh giá của Bauer) và 88% rất tốt hoặc
tốt (theo cách đánh giá của Bệnh viện Cochin),
chúng tôi nhận thấy rằng phương pháp thay khớp
gối nhân tạo là một phương pháp điều trị hiệu quả
cho bệnh lý thoái hoá khớp gối ở giai đoạn nặng,
giúp bệnh nhân trở lại với sinh hoạt gần như bình
thường trong thời gian sớm nhất (trung bình 1
tháng), giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho
bệnh nhân, nhất là những bệnh nhân lớn tuổi. Tuy
nhiên hạn chế của phương pháp này là chi phí điều
trị cao, cơ sở y tế phải đảm bảo vô trùng tốt, phẫu
thuật viên phải được đào tạo đầy đủ, vì vậy phương
pháp này trong tương lai gần chưa thể là phương
pháp áp dụng rộng rãi ở nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahlback S. (1968), “Osteoarthrosis of the knee: a radiographic
investigation”, Acta Radiol Stockholm, (suppl 277): 7 – 72.
2. Aubriot J.H. (1987), “Evaluation fonctionnelle des résultats de la
chirurgie du genou “, Cahier d’enseignement de la SOFCOT,
Conférences d’enseignement, 219-232.
3. Kellgreen J.H., Lawrence J.S. (1957), “Radiological assessment
of osteoarthrosis”, Annals of theRheumatic Diseases, 16: 494.
4. Kellgreen J.H., Jeffrey M., Ball J. (1963), Atlas of standard
radiographs, vol.2, Oxford: Blackwell Scientific.
5. Henry D. Clarke, W. Norman Scott (2006), Insall and Scott
Surgery of the knee, Churchill Livingstone Elsevier, chapter 19,
pp 350.
6. Ingemar F Petersson, Torsten Boegard, Tore Saxne, Alan J
Silman, Bjorn Svensson (1997), “Radiographic osteoarthritis of
the knee classified by the Ahlback and Kellgreen & Lawrence
systems for the tibiofemoral joint in people aged 35 – 54 years
with chronic knee pain”, Annals of theRheumatic Diseases, 56:
493-496.
7. Jaffar – Band Jee Z., Lecuire F., Basso M., Rebouillat J. (1994),
“Résultats à long terme de la prothèse totale du genou”, Livre
des résulmés des communications particulieres, 69eme Réunion
annuelle de la SOFCOT.
8. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2003), Nội tiết học đại
cương, Nhà xuất bản y học, tr. 583-585.
9. Phạm Chí Lăng (2004), “Phẫu thuật nội soi trong điều trị bệnh lý
thoái hóa khớp gối”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh
chuyên đề Cơ Xương Khớp, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh, tập 9 (2), tr. 142-147.
10. Phạm Chí Lăng (2005), “Điều trị thoái hoá khớp gối bằng cắt
xương sửa trục xương chày”, Kỷ yếu Hội nghị thường niên lần
thứ XII Hội chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh.tr.
104-109.
11. Thomazeau H., Sevestre F.X., Langlais F., Le Normand H.,
Fourastier J., et Le Groupe Guepar (1994), “Résultats à 5 ans et
au delà des prothèses totales dans le genou rhumatoide”, Livre
des résulmés des communications particulieres, 69eme Réunion
annuelle de la SOFCOT.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_ban_dau_dieu_tri_thoai_hoa_khop_goi_bang_thay_khop_g.pdf