Tuyến ức phần lớn ở tại ngực, một phần nhỏ
nằm trên cổ, vì lẽ đó muốn lấy một cách triệt để
thì ngoài mở ức bắt buộc phải mở thêm đường
ngang cổ, trong khi đó nội soi sẽ thao tác dễ
dàng thuận lợi hơn, trong phạm vi chật hẹp ấy.
Hơn nữa tỷ lệ BNC xuất hiện nhiều ở nữ,
cần phải cắt triệt để tuyến ức cùng với yêu cầu
bức thiết đạt được yếu tố thẫm mỹ, thì PTNS sẽ
đáp ứng được. Về mặt thẫm mỹ, cắt tuyến ức
qua nội soi cho kết quả tuyệt vời. Các BN của
chúng tôi được hỏi, được cho biết là rất hài lòng.
-Thực tế với những BN sau mổ PTNS, sẽ hạn
chế sử dụng các thuốc giảm đau hơn sau phẫu
thuật mở ức, do đó quá trình nằm viện cũng
ngắn hơn. PTNS lồng ngực với đường mổ nhỏ,
không gây tổn thương cấu trúc trong trung thất
và lồng ngực nhiều như trong các cuộc mổ mở,
khiến cho BN hồi phục nhanh sau mổ. Đặc biệt,
với bệnh nhược cơ, sau mổ BN phải tiếp tục sử
dụng Mestinon, gây tăng tiết, sẽ là gánh nặng
thêm nếu phải mổ mở cắt qua nhiều cân cơ
thành ngực, khiến cho BN dễ suy hô hấp hơn so
với phẫu thuật nội soi(32).
Ngay với các trường hợp phẫu thuật ung
thư tuyến ức, trong một công trình của Yu J
Cheng(4), trong số u tuyến ức giai đoạn II (phân
loại của Masaoka) thì có đến 55% BN có nhược
cơ kết hợp, và PTNS đáp ứng tốt. Kết quả sau
mổ rất thuận lợi.
Thuận lợi của PTNS ngày càng được chấp
nhận rộng khắp vì ít xâm lấn, ít đau, rút nội khí
quản sớm, hồi phục sớm sau mổ, giúp BN có thể
ngồi dậy sớm hơn, khiến hậu phẫu nhẹ nhàng
hơn và thẩm mỹ hơn, kinh tế hơn. Điều này
được bệnh nhân và các BS nội thần kinh tán
thành(17,18,19,24,32).Hiện nay, phẫu thuật nội soi lồng
ngực cắt tuyến ức trong điều trị nhược cơ đang
được áp dụng rộng rãi tại các trung tâm lớn của
các nước Âu - Mỹ. Với phẫu thuật nội soi, bệnh
nhân ít đau sau mổ, tính thẫm mỹ cao, tỷ lệ tai
biến và biến chứng nặng giảm đáng kể.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả trung hạn của PTNS cắt tuyến ức trong điều trị bệnh nhược cơ - Nghiên cứu đa trung tâm (bệnh viện chợ rẫy, bệnh viện Đại học Y dược và bệnh viện cấp cứu Trưng Vương), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 89
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRUNG HẠN CỦA PTNS CẮT TUYẾN ỨC
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ - NGHIÊN CỨU ĐA TRUNG TÂM
(BỆNH VIỆN CHỢ RẪY, BV. ĐẠI HỌC Y DƯỢC
VÀ BỆNH VIỆN CẤP CỨU TRƯNG VƯƠNG)
Nguyễn Công Minh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phẫu thuật cắt tuyến ức là phương thức chính và hiệu quả trong điều trị bệnh nhược cơ. Phẫu
thuật nội soi (PTNS) lồng ngực đã mang lại thành công trong cắt lấy rộng u tuyến ức. Mục tiêu của công trình
là trình bày các dạng lâm sàng, những thuận lợi và hiệu quả, cùng kết quả trung hạn đạt được qua phẫu thuật
nội soi cắt rộng tuyến ức tại ba trung tâm (BV Chợ Rẫy, ĐH Y Dược và BV Cấp cứu Trưng Vương).
Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Nghiên cứu trong 3 năm (1/2007-1/2010), chúng tôi thu nhận
được 83 trường hợp điều trị PTNS bệnh nhược cơ có u tuyến ức. Tuổi trung bình là 28,5, nữ nhiều gấp đôi
Nam (64% so với 36%). 30% BNC mức độ nhẹ (giai đoạn I và IIa) và 70% độ nặng (giai đoạn IIb trở lên theo
phân loại lâm sàng của Hiệp hội Nhược cơ Hoa Kỳ (MGFA)). Tăng sản tuyến ức chiếm 74,7% và u chiếm
25,3%). Thực hiện PTNS cắt tuyến ức vào ngực phải chiếm 83% các trường hợp. Không có tử vong sau mổ và
biến chứng nhẹ chiếm 13,2%. PTNS cắt tuyến ức có nhiều thuận lợi có ý nghĩa, bảo đảm tính thẩm mỹ, kinh tế
và hài lòng của bệnh nhân. Sau 2 năm theo dõi, hiệu quả sau mổ của chúng tôi lên đến 85,5%.
Kết luận: Với nguyên tắc lấy triệt để khối u, nhất là lấy cả phần mỡ bao quanh, có thể thực hiện an toàn qua
phẫu thuật nội soi lồng ngực mà không làm tổn thương các cơ quan kế cận. PT nội soi cắt bỏ u tuyến ức trong
điều trị BNC hôm nay có thể hoàn thiện điều đó, một phương pháp ít xâm lấn nhưng bảo đảm lấy tận gốc mô
tuyến ức trong đa số các trường hợp, đã đạt được hiệu quả thuận lợi, lý tưởng trong điều trị bệnh lý này. Kết
quả trung hạn cải thiện tốt (85,5%), là một thành tựu to lớn của công trình.
Từ khóa: Bệnh nhược cơ - u tuyến ức-tăng sản tuyến ức; Cắt tuyến ức qua nội soi lồng ngực có máy quay
hình hỗ trợ; Cắt tuyến ức qua nội soi lồng ngực.
ABSTRACT
APPRECIATION THE MID-TERM FOLLOW-UP OUTCOMES OF THE VIDEO-ASSISTED
THORACOSCOPIC SURGICAL EXTENDED THYMECTOMY IN TREATMENT MYASTHENIA
GRAVIS IN THREE CENTERS (CHO RAY HOSPITAL, TRUNG VUONG EMERGENCY HOSPITAL
AND MEDICAL UNIVESITY HOSPITAL)
Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 89 - 97
Objective: Thymectomy is recognized as effective surgical therapy in treatment of myasthenia gravis.
Video-assisted thoracoscopic extended thymectomy has been successfully. The purpose of the study would
designed the clinic aspect, the efficacy of the favourable thoracoscopic extended thymectomy and medium time
follow-up for treatment myasthenia gravis in three centers (Cho Ray, Trung Vuong and Medical univesity
hospital).
Methods and results: During 3 years (1/2007-1/2010), we are 83 patients video-assisted thoracoscopic
extended thymectomy for the treatment of MG. Mean age was 28.5, female two times more than male (64% via
* Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Công Minh ĐT: 0903732399 Email: bscongminh@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 90
36%). 30% I, IIa and 70% from IIb in MGFA classification. Thymic hyperplasia was 74.7% and thymoma in
25.3%. Video-assisted thoracoscopic (VATS) thymectomy that can be performed through left approaches in 83%.
No operated mortality and 13.2% minimal postop-complications.
The VATS thymectomy is significant advantages, cosmetic, economic, and are pleased and accepted for all
patients. With more than two years follow-up, the improved outcome is 85.5% patients.
Conclusion: With the principle radical thymectomy and resection of the perithymic fat can be achieved with
absolute safety by video-assisted thoracoscopic thymectomy without damaging adjacent organs. This technique
offers all the advantages minimally invasive surgery provides better results in terms of effectivement in treatment
of the most of cases of myasthenia gravis. The good results mid-term follow-up in the research is the great
progress.
Key words: Myasthenia gravis – thymoma - thymic hyperplasia, Video-assissted thymectomy,
Thoracoscopic thymectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ báo cáo đầu tiên của Blalock và cộng sự
năm 1936, cắt bỏ tuyến ức trong điều trị bệnh
nhược cơ (BNC) nhanh chóng được đồng thuận
một cách rộng khắp. Ngay nay, dù có nhiều
bước tiến lớn trong điều trị nội, cắt tuyến ức vẫn
còn giá trị, nhất là đối với những BNC ở giai
đoạn chuyển nặng(11). Từ khi áp dụng phẫu thuật
nội soi (PTNS) cắt tuyến ức điều trị BNC đầu
tiên, năm 1992, phương pháp này nhanh chóng
phát triển và ngày càng hoàn thiện. Với phương
pháp mê nội khí quản thông khí một phổi, PTNS
lồng ngực đã có những bước tiến vượt bực.
Tại Việt Nam, chúng tôi đã thực hiện phẫu
thuật cắt tuyến ức trong điều trị bệnh nhược cơ
đầu tiên từ năm 2004 tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.
HCM và đã công bố bước đầu trong Hội nghị
Khoa học Kỹ thuật Đại học Y Dược TPHCM
năm 2006 và 2007(22). Tuy nhiên theo dõi lâu dài
sau mổ thì chưa có công trình nghiên cứu thực
sự. Do đó chúng tôi chọn mục tiêu của công
trình là: đánh giá khả năng - lợi thế của PTNS
cắt rộng tuyến ức và kết quả trung hạn sau mổ
trong điều trị bệnh nhược cơ tại ba trung tâm
của TP. HCM.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng, không đối chứng.
Đối tượng nghiên cứu
• Tất cả bệnh nhân bị bệnh nhược cơ được
phẫu thuật nội soi cắt tuyến ức tại khoa Ngoại
Lồng Ngực - BV. Chợ Rẫy, BV Cấp cứu Trưng
Vương và BV. Đại học Y Dược.
• BN nhược cơ nặng phân loại theo MGFA
sẽ được điều trị nội khoa ổn định về tình trạng
nhược cơ trước khi tiến hành phẫu thuật.
• Cỡ mẫu: số mẫu dự trù: 81 bệnh nhân.
Công thức tính cở mẫu: N = {Z2 – x/2P(1-P)}/ d2.
Độ tin cậy 95% (Z2 – x/2)/ d2 = 1,96. d: độ chính
xác tuyệt đối=95%. P: tỷ lệ ngưng thuốc 2 năm
sau mổ ước tính trong quần thể =30%. Áp dụng
công thức trên: N = 80,6736 # 81
Thời gian nghiên cứu
Trong 3 năm (01/2007-01/2010): có 83 BN.
Vì tính phức tạp của bệnh, tiên lượng tiến
triển cũng không thể đoán trước được, cho nên
đánh giá so sánh các phương thức điều trị quả là
khó khăn. Lực lượng đặc biệt của hiệp hội bệnh
nhược cơ Hoa Kỳ (MGFA=Myasthenia gravis
Foundation of America) đã đưa ra một phân loại
mới đáp ứng cả 3 mặt (lâm sàng, điều trị và
đánh giá- theo dõi sau mổ), làm nền tảng cũng
như các mốc chuẩn dùng để so sánh cho các
công trình sau này.
• Hiệu quả lâm sàng sau mổ của MGFA có 2
tiêu chuẩn chính(33): 1.Khỏi hoàn toàn mà không cần
phải dùng thuốc (CSR: Complete Stable
Remission): BN không còn triệu chứng lâm sàng
của BNC, ít nhất 1 năm mà không phải điều trị
thuốc gì cả trong thời gian này. 2. Bệnh thuyên
giảm, phải dùng thuốc nhưng có giảm liều theo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 91
thời gian (PR: Pharmacologic Remission): tiêu
chuẩn giống như CSR nhưng BN còn phải sử
dụng vài loại thuốc điều trị nhược cơ, đặc biệt,
những BN có dùng thuốc ức chế cholinesterase
phải dùng ở liều thấp hơn trước mổ, bởi vì điều
này chứng tỏ bệnh chưa khỏi (còn yếu cơ)(33).
KẾT QUẢ
Từ tháng 1/2007 đến tháng 1/20010, tại 3
trung tâm, chúng tôi có 83 bệnh nhân nhược cơ
có chỉ định mổ.
Tuổi
Tuổi trung bình 28,5 ± 9,65 tuổi (16-66 tuổi).
Đỉnh cao từ 20-60, chiếm tỷ lệ 71%.
Dưới 40 tuổi thì nữ gần gấp 4 lần nam. Trên
40 tuổi thì nam hơn 1,3 lần nữ.
Giới tính
Nữ gần gấp đôi nam. Nam 36%, nữ 64%. P<
0,05
Lâm sàng ban đầu khi BN nhập viện
- Triệu chứng sụp mi chiếm đa số, 73,49%.
Mệt mỏi đứng thứ hai, 49,39%.
- Hầu hết BN nhập viện thường có biểu hiện
lâm sàng với hai triệu chứng.
- Chỉ có 6 BN chỉ có biểu hiện lâm sàng là
nhược cơ mắt đơn thuần.
Thời gian khởi phát đến khi được mổ
Thời gian BNC kéo dài trước mổ trung bình
là 23,50 ± 6,75 tháng. Sớm nhất là gần 4 tháng và
BN được mổ muộn nhất là 150 tháng. Đỉnh cao
từ 6 đến 12 tháng, chiếm 48%.
Các bệnh lý kết hợp
Trong số bệnh kết hợp, bệnh tuyến giáp là
chính (chủ yếu là HC cường giáp đã ổn định).
Không có trường hợp nào kết hợp với các bệnh
tự miễn khác.
Vấn đề sử dụng thuốc trước mổ
Hầu hết BN của chúng tôi đều dùng thuốc
kháng men cholinestherase (Mestinon) hoặc kết
hợp thuốc kháng men với Steroids.
Mức độ LS của nhược cơ trước mổ theo
MGFA
Nhược cơ nhẹ (độ I và IIa) chiếm 30%.
Nhược cơ nặng (từ độ IIb trở đi) chiếm 70%, gấp
2,3 lần nhược cơ nhẹ. 6 BN nhược cơ độ I có chỉ
định mổ vì có hình ảnh u trên CT scan.
Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
Kết quả giải phẫu bệnh được xác định kết
hợp qua xét nghiệm hóa mô miễn dịch nếu trên
đại thể có dấu hiệu nghi ngờ ác tính.
Tăng sản tuyến ức 62 TH, chiếm tỷ lệ 74,7%.
U tuyến ức: 21 TH, chiếm tỷ lệ 25,3%, trong đó
có 2 TH là carcinôm tuyến ức. (6 TH carcinôm
tuyến ức xâm lấn, sau khi nội soi, phải mở ngực
hoặc mở ức, không thuộc tiêu chuẩn trong lô
nghiên cứu).
19 BN u tuyến ức đều trên 45 tuổi. 2 ung thư
tuyến ức đều trên 55 tuổi. U tuyến ức tăng trên
những BN cao tuổi. P < 0,001
2 BN kết luận GPBL là carcinôm tuyến ức
đều là nhược cơ thể mắt đơn thuần.
Thời gian PTNS lồng ngực
30 - 180 phút. Trung bình là 10,12 phút.
Phương pháp vô cảm
72 BN với mê nội khí quản một nòng
(Carlens), chiếm tỷ lệ 86,7%. 11 BN với mê nội
khí quản thường, chiếm tỷ lệ 13,3%. Đại đa số
các trường hợp, chúng tôi tiến hành đặt nội khí
quản Carlens. Chỉ một số ít chúng tôi thực hiện
với mê nội khí quản thường, nhất là ở những
BN có SaO2 thấp, không đáp ứng được lượng
oxy hoàn toàn trong tình trạng xẹp một bên
phổi.
Đường vào của nội soi lồng ngực
Bên phải: 69 BN, chiếm tỷ lệ 83%. Bên trái: 14
BN, chiếm tỷ lệ 17%. Chúng tôi chọn đường vào
ngực (P) hoặc (T) tùy vào vị trí của tuyến ức xác
định trên CT scan trước mổ.
Thời gian thở máy sau mổ
Ngay sau mổ, các TH đặt NKQ carlens được
chuyển sang NKQ thường: 72 BN (87%) rút nội
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 92
khí quản trong vòng 24 giờ. 9 BN (11%) rút nội
khí quản trong vòng từ 24 -72 giờ. 2 BN (2%) rút
nội nội khí quản trễ, sau 1 tuần do phải thở máy
ở khoa hồi sức nội thần kinh.
Thời gian giữ ống dẫn lưu
Tất cả 75 BN đều được rút dẫn lưu sớm 24
giờ sau mổ. 5 BN TKMP rút dẫn lưu 72 giờ sau
mổ. 3 BN TMMP, phải theo dõi và rút muộn
hơn: 36 giờ sau mổ.
Thời gian nằm viện sau mổ
Thời gian trung bình sau mổ 6,5 ngày (5-22
ngày).
Kết quả chung sau phẫu thuật
Tử vong do phẫu thuật: 0. Biến chứng sau
phẫu thuật: 11 BN, chiếm tỷ lệ 13,2%.
Tổng số BN được theo dõi sau 18 tháng: 69.
- Khỏi hoàn toàn mà không cần phải dùng
thuốc: 6 BN, chiếm tỷ lệ 8,69%.
- Bệnh thuyên giảm nhưng phải dùng thuốc:
53 BN, chiếm tỷ lệ 76,81%.
- Không thuyên giảm: 10 BN, chiếm tỷ lệ
14,49% (nghĩa là BN phải dùng thuốc như trước
mổ). Như vậy, hiệu quả sau mổ của chúng tôi
lên đến 85,5% sau thời gian theo dõi.
Biến chứng sau phẫu thuật
5 BN tràn khí màng phổi tự hấp thu, không
cần dẫn lưu màng phổi. 3 BN có tràn máu màng
phổi lượng ít, không cần dẫn lưu màng phổi. 3
BN suy hô hấp, phải đặt nội khí quản, giúp thở
máy lại do cơn nhược cơ cấp.
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng
Tính phổ biến
Trong hơn 3 năm, tại 3 trung tâm, chúng
tôi có 83 BN nhược cơ có chỉ định mổ. Theo
Antony P C Yim(23), hằng năm, tại Hồng Kông
mỗi năm có thêm 4 BN nhược cơ trên 1 triệu
dân. Tomulescu(33) trong 7 năm có 160 BNC
được mổ.
Tuổi
Trung bình: 28,5 ± 9,65 tuổi. Dưới 40 tuổi,
nữ gần gấp 4 lần nam. Trên 40, nam hơn gấp
1,3 lần nữ.
Liên quan giữa tuổi và giới tính, Gold(7) tuổi
từ 20-30 nữ chiếm đa số. Tuổi từ 60-70 nam vượt
trội. Một cách kinh điển, BNC được coi như là
bệnh của phụ nữ trẻ và là bệnh của đàn ông cao
tuổi (30). Với BN nhược cơ toàn thân, nên cắt triệt
để tuyến ức. Đa số các tác giả(5,15) đều đồng
thuận rằng nhóm BN đáp ứng tốt nhất với phẫu
thuật cắt triệt để tuyến ức là từ tuổi dậy thì đến
tuổi 60. Có một điều thật may mắn là số BN
nhược cơ cao tuổi này rất ít, bởi vì ngoài các biến
chứng suy hô hấp do tăng tiết đàm rãi của các
BN phải tiếp tục dùng thuốc kháng men sau mổ,
nguy cơ cao do phẫu thuật cũng góp phần làm
tăng tỷ lệ tử vong(6). Với bệnh nhi, cũng phải xét
lại chỉ định mổ, hiếm khi phải mổ BN dưới 10
tuổi(7). Trên thực tế, nếu có chỉ định mổ cắt bỏ
tuyến ức trên BNC ở thiếu niên thì nên trì hoãn
cho đến tuổi dậy thì. Bởi vì BNC ở lứa tuổi này
thường đáp ứng tốt với điều trị nội, ngoài ra,
đây cũng là thời điểm phát triển mạnh mẽ hệ
thống miễn dịch, bảo vệ cơ thể.
Giới tính
NC của chúng tôi: nữ 64%, nam 36%. Nữ
gấp 1,8 lần nam.
Các nghiên cứu về phẫu thuật bệnh nhược
cơ đều cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ rất cao,
chiếm từ 63% đến 86%(26,33). Nghiên cứu dịch tể
học cho thấy bệnh nhược cơ có sự phân bố
theo tuổi(1,9,14,15): Nhóm tuổi từ 20-40, nữ chiếm
đa số, tỷ lệ nữ/nam = 2/1. Nhóm tuổi trên 40,
bệnh nhân nam nhiều hơn, với tỷ lệ nam/ nữ =
2/1. Trong nghiên cứu này: dưới 40 tuổi,
Nữ/nam là 2/1 (38/19 BN). Trên 40 tuổi,
Nam/nữ là 1,4 /1 (15/11).
Thời gian khởi bệnh đến khi được mổ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian
khởi bệnh đến khi được mổ là 23,50±6,75 tháng,
trong đó bệnh nhân mắc bệnh dưới 12 tháng
chiếm đa số, 73%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 93
BN được mổ sớm nhất là trên 4 tháng và BN
được mổ muộn nhất là 150 tháng.
So với các tác giả, thời gian khởi bệnh đến
khi được mổ của chúng tôi có dài hơn(8,20,24,33).
Vấn đề sử dụng thuốc trước mổ
- Hầu hết BN của chúng tôi đều dùng thuốc
kháng men cholinestherase (Mestinon) hoặc kết
hợp kháng men với Steroids. Trong quá trình
hồi sức và điều trị nội, những BN nặng cần giúp
thở máy đã được tiến hành lọc huyết tương (1
BN), Immunoglobulin tiêm mạch (1 BN) cho đến
khi ổn định trước mổ.
- Tất cả 107 BN của Tomulescu(33) đều có
dùng Steoroids trước mổ, kết hợp với thuốc
kháng men cholinestherase (Mestinon), chỉ có
26,17% dùng thuốc ức chế miễn dịch.
Trên thực tế việc phối hợp thuốc trước
mổ nói lên độ nặng nhẹ của bệnh lý nhược cơ
mà công việc điều trị nội khoa trước mổ phải
đáp ứng. Nhiều công trình đã cho thấy với BN
chỉ điều trị bằng thuốc kháng men
pyridostigmine đơn thuần hoặc dùng liều thấp
thì khả năng lui bệnh cao hơn và sớm hơn. (35) Và
nếu BN đã phải dùng đến thuốc ức chế miễn
dịch thì hiệu quả lui bệnh sẽ chậm hơn các
trường hợp khác. Kattach(11) cho rằng với BN
dùng thuốc ức chế miễn dịch
(Immunosuppressive) trước mổ sẽ có nguy cơ
cao gây biến chứng suy hô hấp sau mổ BN
nhược cơ. Chúng tôi có 1 BN giúp thở máy lâu, 1
tuần sau mổ (đã được truyền TM
Immunoglobulin trước mổ) nhưng số liệu quá ít,
không thể kết luận.
Kết quả giải phẫu bệnh
Trong 83 BN nhược cơ của chúng tôi: 75%
tăng sản tuyến và 25% u tuyến ức (trong đó
carcinôm tuyến ức chỉ chiếm 1/10 tổng số u
tuyến ức.
Trong công trình khảo sát trên 841 BN
nhược cơ trãi dài suốt 43 năm, Singhal(30) và cộng
sự nhận thấy: trên BN có u tuyến ức: 69% nam
và 31% nữ. Trên BN tăng sản tuyến: 40% nam và
60% nữ. Như vậy u tuyến ức thường gặp trên
BN nam và tăng sản tuyến ức gặp nhiều trên BN
nữ(12,13,16,30). Thông dụng nhất, người bệnh nhược
cơ chia thành 2 loại: BNC có u và BNC không u
tuyến ức(16,31).
Lâm sàng - chỉ định - kết quả sau mổ của
nhược cơ theo MGFA
• Nhìn chung, bệnh nhân được mổ của các
tác giả nghiêng về hướng bệnh nặng (từ độ IIb
trở đi). Gọi là nhược cơ nhẹ, nghĩa là chỉ ảnh
hưởng cơ mắt hoặc cơ toàn thân nhẹ (độ I và
IIa), không có cơ hầu họng. Nhược cơ nặng (từ
độ IIb trở lên) tức là đã ảnh hưởng đến cơ
hành não (cơ hầu họng), sẽ có nguy cơ cao gây
suy hô hấp sau mổ.(6,33)
• BNC có u tuyến ức thì chỉ định mổ gần
như được đồng thuận của hầu hết các tác giả.
• Một vài tác giả cho rằng một số BN có kết
quả giảm nhược cơ ngay sau mổ. đó là một cảm
giác chủ quan, bởi vì đây là một bệnh liên quan
đến hệ miễn dịch, do đó mới vừa cắt bỏ tuyến ức
dù cho triệt để cũng không thể có đáp ứng ngay
sau phẫu thuật. Thực ra, nhờ chuẩn bị và điều trị
nội khoa tốt, ổn định trước mổ, cho nên nhìn
thoáng qua kết quả sau mổ, ta có cảm giác rằng
BN có đáp ứng với điều trị ngoại khoa ngay sau
mổ. Đặc biệt với nhược cơ độ I.(15) Trên thực tế, kết
quả điều trị ngoại khoa thường đến chậm và kết
quả đến sớm nhất là khoảng 6 tháng. Kết quả sau
mổ cắt triệt để tuyến ức trong điều trị BNC thay
đổi rõ trong 2 năm đầu sau mổ và kết quả có thể
đến muộn hơn, thậm chí phải đến 10 năm sau(24).
Thuận lợi của phẫu thuật nội soi
•Thời gian phẫu thuật nội soi trung bình của
chúng tôi là 110,12 phút.
•So sánh với PTNS có hỗ trợ Robot của
Cakar(3) cho thấy thời gian phẫu thuật trung bình
là 154 phút (94-312 phút).
Phương pháp vô cảm
Đại đa số các trường hợp (87%), chúng tôi
tiến hành nội khí quản (NKQ) một nòng để có
phẫu trường rõ ràng trong khi bóc tách cắt trọn
tuyến ức. Chỉ một số nhỏ các TH, chúng tôi thực
hiện với NKQ thường, do BN không chịu đựng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 94
cuộc PT với hô hấp một phổi. Hơn nữa, tuyến ức
thuộc trung thất trước, trong một số TH, phổi
không dính, u gọn đơn giản. Trường hợp BN có
SaO2 thấp, không đáp ứng được lượng oxy hoàn
toàn 100% trong tình trạng xẹp một bên phổi, thì
chúng tôi tiến hành nội soi dưới mê NKQ
thường và chỉ cho phổi xẹp tạm thời trong
những thì cần thiết(22). Mê NKQ thường có phải
là một cải tiến không? Chúng tôi quan niệm
rằng chuẩn bị tất cả để có được sự an toàn cho
BN trong lúc mổ là yêu cầu chính. Dù sử dụng
nội NKQ thường sẽ giảm được chi phí tốn kém
của một ống Carlens, nhưng không nên quá tiết
kiệm mà quên mất sự an toàn cho bệnh nhân
trong phẫu thuật này vậy.
Chọn đường vào ngực
83% BN của chúng tôi vào ngực (P). Trên 107
BN của Tomulescu(33): 72% vào ngực (P) và 28%
vào ngực (T). Ưu thế của đường vào ngực (P): 1-
Sẽ nhận định được rõ ràng TMC trên (nơi hai
TM không tên tập hợp lại). Phẫu trường sẽ rõ,
thấy được móc giải phẫu, tránh tổn thương TM
không tên. 2-Về giải phẫu, ở bên (P), là nơi bóc
tách khó khăn nhất, vào từ ngực (P) sẽ chủ động
hơn. 3-Trên phương diện ưu thế thuận sử dụng
tay (P) của đa số phẫu thuật viên sẽ dễ dàng
thao tác. PTNS bắt đầu từ hai cực dưới của
tuyến ức tiến lên hai cực trên một cách thuận lợi.
Trên thực tế, vào bên nào. tùy kinh nghiệm phẫu
thuật viên(35).
Thời gian giúp thở - thở máy sau mổ
87% BN chúng tôi được rút NKQ trong vòng
24 giờ.
Theo đa số tác giả(2,3,11,21) muốn rút được nội
khí quản sớm, ngoài thuốc hỗ trợ nhược cơ, phải
giữ sự thông thoáng đường hô hấp trong và sau
mổ: Hút đàm rãi thường xuyên qua ống NKQ.
Dùng thuốc dãn phế quản hoặc dùng “kích hoạt
hô hấp với phế dung kế”. Bất cứ vì lý do gì mà
dung tích sống giảm đều là các dấu hiệu có thể
báo trước suy hô hấp(20). Rút nội khí quản sớm là
vấn đề rất cần thiết và hữu ích cho bệnh nhân
sau mổ, cả mổ nội soi lẫn mổ mở. Vì lẽ đó, nếu
được điều trị nội tốt, ổn định bệnh nhược cơ
trước mổ, sẽ rút nội khí quản được sớm và sẽ
giảm đi biến chứng hậu phẫu.
BN thở tự nhiên và đi lại sớm. Đây là ưu thể
của PT nội soi đối với các cuộc phẫu thuật trên
bệnh nhược cơ. So với các cuộc mổ lớn, trong
một công trình “mổ mở” trước đây của chúng
tôi thì đai đa số đều phải giúp thở máy và rút
nội khí quản chậm sau 1-2 tuần, bởi vì BN
không tự thở được(22,23).
Thời gian nằm viện sau mổ
Ngày nay, đối với các bệnh nhân phẫu thuật,
thời gian sau mổ là thời gian chính, có ý nghĩa
đánh giá kết quả phẫu thuật mà bệnh nhân phải
nằm lại bệnh viện.
-Thời gian nằm viện sau mổ trung bình của
chúng tôi là 6,5 ngày.
-So sánh với phẫu thuật mở ức của các tác
giả như: Kattach,Waitande(11.36)thì thời gian nằm
viện trung bình lần lượt là 9,4 và 15 ngày. Điều
đó, một lần nữa cho thấy tính chất xâm lấn tối
thiểu của phẫu thuật nội soi đã làm nhẹ đi tình
trạng hậu phẫu trên các BN nhược cơ, nhất là
BN ở các giai đoạn nặng trước mổ.
Thời gian nằm viện sau mổ lệ thuộc vào giai
đọan bệnh lý nhược cơ. Ưu thế của PT nội soi,
nói chung, PT cắt bỏ u tuyến ức, nói riêng đã
làm rút ngắn thời gian nằm viện cũng như giảm
chi phí điều trị là điều không thể chối cãi(2829).
Biến chứng và tử vong sau mổ
Chúng tôi không có BN tử vong. Biến chứng:
11 BN, chiếm tỷ lệ 13,2%. Trong Y văn, kết quả
sau mổ (từ nội soi cho đến mổ mở) thường khả
quan với tỷ lệ tử vong là 0%-2% và biến chứng
từ 2%-15%(10,25,27).
Khả năng cắt triệt để tuyến ức và ưu thế của
PTNS
Trước đây, để cắt triệt để tuyến ức, các tác
giả đề nghị: phẫu thuật mở ức chưa đủ rộng để
lấy hết phần mỡ vùng nền cổ, mà phải kết hợp
với mở đường ngang cổ. Ngày nay, với PTNS
chúng ta có thể lấy triệt để phần mỡ ấy một các
thuận lợi mà BN không phải chịu hai đường mổ
lớn, nặng nề. Từ khi áp dụng phẫu thuật nội soi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 95
cắt tuyến ức điều trị BNC đầu tiên, năm 1992,
phương pháp này nhanh chóng phát triển và
ngày càng hoàn thiện. Với phương pháp mê nội
khí quản thông khí một phổi, qua nội soi lồng
ngực, phơi bày rõ cấu trúc của tuyến ức. Bởi vì
tuyến ức nằm trước màng bao tim và được bao
quanh bằng một lớp mô liên kết lỏng lẽo, nên dễ
bóc tách. Vì lẽ đó sau khi mở màng phổi trung
thất, công việc lấy trọn không khó khăn lắm. Có
một điều phải chú ý là trên BN béo phì hoặc
BNC đã sử dụng steroids kéo dài sẽ hình thành
khối mỡ trung thất nhiều thêm (mediastinal
lipomatosis), do đó cắt thời gian phẫu thuật sẽ
kéo dài hơn.(32)
Vài quan điểm của trường phái “kinh điển”
cho rằng phẫu thuật nội soi khó vào các vùng
ngóc ngách. Đó là một quan điểm không thuyết
phục. Trên thực tế, chính các ngóc ngách khó
vào với đường mổ mở thì nội soi lại chứng tỏ vai
trò hiệu quả với khả năng nạo vét triệt để các
phần mỡ cần lấy đi. Cụ thể như vùng nền cổ, mà
mở xương ức đơn thuần không thể lấy đến hết
mà phải kết hợp thêm đường mở cổ. Nội soi có
sử dụng nội soi cho thấy tách vùng tâm hoành
rất hiệu quả.(3,4) Gần đây, có tác giả chủ trương
nên tiến hành cắt tuyến ức qua nội soi trong các
trường hợp phẫu thuật mở xương ức trước đây,
nay bị tái phát, do bởi PTNS ít gây tổn thương
hô hấp tuần hoàn trên BN nhược cơ thời kỳ hậu
phẫu hơn là mở ức. So sánh giữa hai phương
thức mổ, phần lớn các tác giả đều cho rằng
PTNS thực sự mở ra được một phẫu trường
rộng, rõ ràng cho phép lấy triệt để tuyến ức và
các mô mỡ hiện hữu trong lồng ngực dễ dàng
hơn mở xương ức đơn thuần (23). Hơn nữa, PTNS
còn những ưu thế khác:
Tuyến ức phần lớn ở tại ngực, một phần nhỏ
nằm trên cổ, vì lẽ đó muốn lấy một cách triệt để
thì ngoài mở ức bắt buộc phải mở thêm đường
ngang cổ, trong khi đó nội soi sẽ thao tác dễ
dàng thuận lợi hơn, trong phạm vi chật hẹp ấy.
Hơn nữa tỷ lệ BNC xuất hiện nhiều ở nữ,
cần phải cắt triệt để tuyến ức cùng với yêu cầu
bức thiết đạt được yếu tố thẫm mỹ, thì PTNS sẽ
đáp ứng được. Về mặt thẫm mỹ, cắt tuyến ức
qua nội soi cho kết quả tuyệt vời. Các BN của
chúng tôi được hỏi, được cho biết là rất hài lòng.
-Thực tế với những BN sau mổ PTNS, sẽ hạn
chế sử dụng các thuốc giảm đau hơn sau phẫu
thuật mở ức, do đó quá trình nằm viện cũng
ngắn hơn. PTNS lồng ngực với đường mổ nhỏ,
không gây tổn thương cấu trúc trong trung thất
và lồng ngực nhiều như trong các cuộc mổ mở,
khiến cho BN hồi phục nhanh sau mổ. Đặc biệt,
với bệnh nhược cơ, sau mổ BN phải tiếp tục sử
dụng Mestinon, gây tăng tiết, sẽ là gánh nặng
thêm nếu phải mổ mở cắt qua nhiều cân cơ
thành ngực, khiến cho BN dễ suy hô hấp hơn so
với phẫu thuật nội soi(32).
Ngay với các trường hợp phẫu thuật ung
thư tuyến ức, trong một công trình của Yu J
Cheng(4), trong số u tuyến ức giai đoạn II (phân
loại của Masaoka) thì có đến 55% BN có nhược
cơ kết hợp, và PTNS đáp ứng tốt. Kết quả sau
mổ rất thuận lợi.
Thuận lợi của PTNS ngày càng được chấp
nhận rộng khắp vì ít xâm lấn, ít đau, rút nội khí
quản sớm, hồi phục sớm sau mổ, giúp BN có thể
ngồi dậy sớm hơn, khiến hậu phẫu nhẹ nhàng
hơn và thẩm mỹ hơn, kinh tế hơn. Điều này
được bệnh nhân và các BS nội thần kinh tán
thành(17,18,19,24,32). Hiện nay, phẫu thuật nội soi lồng
ngực cắt tuyến ức trong điều trị nhược cơ đang
được áp dụng rộng rãi tại các trung tâm lớn của
các nước Âu - Mỹ. Với phẫu thuật nội soi, bệnh
nhân ít đau sau mổ, tính thẫm mỹ cao, tỷ lệ tai
biến và biến chứng nặng giảm đáng kể.
Kết quả sau mổ
Hiệu quả sau mổ của chúng tôi lên đến
85,5% sau thời gian theo dõi. Tác giả CS
Huang(10) đã chứng minh những bệnh nhân
nhược cơ này nếu được cắt tuyến ức thì tỷ lệ
ngưng thuốc sau 3 năm theo dõi là 88,3%.
Tương tự, Marcin Zielinski(23) trong công trình
nghiên cứu cắt tuyến ức triệt để trong điều trị
BNC phẫu thuật nội soi lồng ngực kết hợp với
đường mở ngang cổ, cho thấy tần suất khỏi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 96
bệnh rất khả quan và tỷ lệ ngưng thuốc sau 1
năm là 83,3%.
KẾT LUẬN
Mặc dù BNC đã được biết hơn 100 năm qua
và hơn 50 năm kinh nghiệm của điều trị nội-
ngoại khoa, nhưng phương thức điều trị lý
tưởng vẫn còn bàn cãi. Với những kiến thức gần
đây, miễn dịch liệu pháp kết hợp với phẫu thuật
rộng tuyến ức luôn luôn được đặt ra và ngày
càng phát triển. Phẫu thuật nội soi cắt triệt để
tuyến ức và mô mỡ vùng trung thất trước và
nền cổ trong điều trị BNC ngày càng hoàn thiện.
PTNS đã chứng tỏ vai trò hiệu quả với khả năng
nạo vét triệt để các phần mỡ cần lấy đi, mà phẫu
thuật mở xương ức đơn thuần nhiều lúc không
thể lấy đến hết, phải kết hợp thêm đường mở cổ.
hậu phẫu nặng nề. Là phẫu thuật ít xâm lấn,
PTNS lồng ngực cắt tuyến ức không chỉ giảm
đau hậu phẫu, rút ngắn thời gian nằm viện,
giảm chi phí cho gia đình và xã hội mà còn đạt
được yếu tố thẫm mỹ làm hài lòng cho BN
nhược cơ các nhà lâm sàng nội thần kinh trên
những BN nhược cơ sau mổ cắt tuyến ức.
Với thời gian theo dõi trung bình là 18 tháng,
hiệu quả sau mổ của chúng tôi lên đến 85,5%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alshekhlee A, Miles JD, Katirji B, Preston DC. and Kaminski
HJ (2009): Incidence and mortality rates of myasthenia gravis
and myasthenia crisis in US hospitals. Neurology. 72: 1548-54.
2. Bril V, Keshavjee S (2007). Management of myasthenia gravis:
Does thymectomy provide benefit over medical therapy
alone? Difficult decisions in thoracic surgery. Ed. by M K
Ferguson. Heidelberg Springer-Verlag: 463-8.
3. Cakar F, Werner P, Augustin F, Schmid T, Sieb M et al. (2007).
A comparison of outcomes after robotic open extended
thymectomy for myasthenia gravis. European J. Cardio-
thorac. Surg. 31: 501-5.
4. Cheng YJ, Kao EL, Chou SH (2005). Videothoracoscopic
Resection of Stage II Thymoma: Prospective Comparison of
the Results Between Thoracoscopy and Open Methods. Chest.
128: 3010-3012.
5. Drachman DB (2008). Myasthenia Gravis and other Diseases
of Neuromuscular Junction. Harrison’s Internal Medicine.
17th Ed., Ed. By Fauci, Braunwald, Kasper, Hauser, Longo,
Jameson and Loscalzo. Mc Graw Hill, NY: 2672-2677.
6. Durieux R, Radermecker MA, Dekoster G and Limet R (2008).
Extended Transsternal Thymectomy for Myasthenia Gravis:
A Report of 19 Consecutive Cases. Acta chir belg. 108: 102-6.
7. Gold R and Schneider-Gold C (2008). Current and Future
Standards in Treatment of Myasthenia Gravis.
Neurotherapeutics. V.5, N.4: 535-541.
8. Grob D, Brunner N, Namba T, Pagala M. (2008). Lifetime
course of myasthenia gravis”. Muscle Nerve. 37: 141-9.
9. Hsu HS, Huang CS, Huang BS, Lee HC, Hsu WH et al. (2006).
Thymoma is associated with relapse of symtoms after
transsternal thymectomy for myasthenia gravis. Interact
Cardiovasc Thorac Surg. 5: 42-6.
10. Huang CS, Hsu HS et al. (2005). Factor influencing the
outcome of transternal thymectomy for myasthenia gravis.
Acta Neurol Scand. 112: 108-114.
11. Kattach H, Anastasiadis K. et al. (2006). Transsternal
Thymectomy for Myasthenia Gravis: Surgical Outcome. Ann
Thorac Surg. 81: 305-8.
12. Kondo K, Monden Y (2005): Thymoma and Myasthenia
gravis: A Clinical Study of 1.089 Patients From Japan. Ann
Thorac Surg. 79: 219-224.
13. Kondo K, Monden Y (2005): Myasthenia gravis appearing
after thymectomy for thymoma. European J. Cardio-thorac.
Surg. 28: 22-25.
14. Kondov GTT, Ljapcev R et al. (2005). Thymectomy in
Myasthenia Gravis: Response and Complication. Turkish
Respiratory J. 6 (1): 15-18.
15. Kucharczuk JC, Shrager JB, Hsler AS (2005). Thymoma-
Association with Myasthenia gravis - Anterior mediastinal
mass. Surg. of the chest, Sabiston-Spencer, 7th Ed. Ed. By F W
Sellke. Elsevier Saunders Co. Philadelphia:667-670.
16. Lucchi M, Ricciardi R, Melfi F, Duranti L et al. (2009).
Association of thymoma and myasthenia gravis: oncological
and neurological results of the surgical treatment. European J.
Cardio-thorac. Surg. 35: 812-6.
17. Maddaus MA and Luketich JD (2005). Thymic Tumors-Lung-
Chest Wall, Lung, Mediastinum and Pleura. P.of Surg. 8 th
Ed. Ed. By F. Charles Brunicardi., Mc.Graw-Hill Book Co.
N.Y.: 589-594.
18. Maddaus MA and Luketich JD (2006). Thymus - Thymoma-
Lung-Chest Wall, Lung, Mediastinum and Pleura. Schwartz’
Manual of Surgery. 8 th Ed. Ed. Ed. By F. Charles Brunicardi.,
Mc.Graw-Hill Book Co. N.Y.: 425-8.
19. Manlulu A, Lee TW, Wan I et al. (2005). Video-assisted
thoracic surgery thymectomy for non thymomatous
myasthenia gravis. Chest. 128 (5): 3454-60.
20. Meacci E, Cesario A. et al. (2009). Thymectomy in myasthenia
gravis original video-assisted infra-mammary cosmetic
incision and median sternotomy: long-term results in 180
patients. European J. Cardio-thorac. Surg. 35: 1063-69.
21. Murthy J (2009). Thymectomy in myasthenia gravis. Neurol
India. 57: 363-5.
22. Nguyễn Công Minh (2007). Phẫu thuật nội soi cắt u tuyến ức
trong điều trị bệnh nhược cơ tại BV Chợ Rẫy. Y học Tp Hồ
Chí Minh, Hội nghị KHKT lần 24. Tập 11, phụ bản của số 1.
ĐHYD TP Hồ Chí Minh: 321-326.
23. Nguyễn Công Minh (2011). Hiệu quả sau mổ cắt triệt để
tuyến ức. Những tiến bộ mới trong điều trị bệnh nhược cơ”.
NXB Y học-Chi nhánh TP. HCM: 154-161.
24. Pompeo E, Tacconi F, Massa R, Mineo D, Nahmias S and
Mineo TC (2009). Lon-term outcome of thoracoscopic
extended thymectomy for nonthymomatous myasthenia
gravis. Eur J. Cardio-thorac Surg. 36: 164-169.
25. Ponseti JM, Caritg N, Gamez J, Lopez-Cano M, Vilallonga R,
Armengol M (2009). A comparison of longterm post-
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 97
thymectomy outcome of anti-AChR-positive, anti-AChR-
negative and anti-MuSK-positive patients with non-
thymomatous myasthenia gravis. Expert Opin Biol Ther. 9:1-
8.
26. Sadrizadeh ARB. (2006). Thymectomy by Partial sternotomy
for the treatment of Non-thymomatous Myasthenia Gravis.
National Research Institute of tubeculosis and lung diseases.
Tanaffos. 5(4): 43-46.
27. Saka E, Topcuoglu MA, Akkaya B, Galati A, Onal MZ,
Vincent A. (2005): Thymus changes in anti-MuSKpositive and
-negative myasthenia gravis. Neurology. 65: 782-3.
28. Schwendimann RN, Burton E. and Minagar A. (2005).
Management of myasthenia gravis. American J. of
Therapeutics. 12: 262-268.
29. Shahrizaila N, Pacheco OA, Vidal DG, Miyares FR, Wills AJ.
(2005). Comparison of outcome in Santiago, Cuba and
Nottingham, UK”. J. Neurol. 252: 1262-1266.
30. Singhal B S, Bhatia N S, Umesh T, Menon S. (2008).
Myasthenia gravis: A study from India”. Neurol India. 56:
352-5.
31. Toker A, Taju S, Ozuluk Y and Sedaroglu P. (2008). Thymoma
appearing 10 years after an extended thymectomy for
myasthenia gravis. European J. Cardio-thorac. Surg. 33: 1155-
1156.
32. Toker A, Taju S, Ziyade S. et al. (2009). Early outcome of
video-assisted thoracoscopic resection of thymus in 181
patients with myasthenia gravis. Interac Cardiovasc Thorac
Surg. 9 (6): 995-8.
33. Tomulescu V, Ion V, Kosa A, Sgarbura O. and Poprscu I.
(2006): “Thoracoscopic Thymectomy Mid-Term Results”. Ann
Thorac Surg. 82: 1003-8.
34. Turner C (2007): “A review of myasthenia gravis:
Pathogenesis, Clinical features and Treatment”. Current
anesthesia and Critical Care. 18: 15-23.
35. Varghese Jr. T, Lau C L. (2008): “Thymoma-The Mediastinum
– The Chest”. T. of surg.18th Ed., Ed by Townsend.
Bauchamp Evers Mattox, W.B. Saunder Co., Philadelphia:
1763- 1812.
36. Waitande SS, Thankachen R, Philip MA, Shukla V. and
Korula R J. (2007): “Surgical outcome of thymectomy for
myasthenia gravis”. Thorac Cardio-vasc Surg. 23: 171-175.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_trung_han_cua_ptns_cat_tuyen_uc_trong_dieu.pdf