Có 8 giống lúa cùng với chỉ tiêu cấp chịu mặn
theo thang đánh giá của IRRI (1997) cho thấy tỉ lệ
Na+/K+ trên lá và rễ sau 5 ngày xử lý mặn nhỏ hơn
tỉ lệ Na+/K+ trên lá và rễ của giống chuẩn chống
chịu Đốc Phụng: Ba Bụi 2 (cấp 4,2), Một Bụi Trắng
(cấp 3,0), Trà Long 2 (cấp 3,0), Tài Nguyên Cà Mau
(cấp 3,7), Nàng Quớt Biển (cấp 3,0), Một Bụi Lùn 2
(cấp 4,2), Tài Nguyên Sóc Trăng (cấp 3,7), Ba Bụi Lùn
(cấp 3,0). Các giống có tỉ lệ Na+/K+ dao động trong
khoảng trung bình giữa 2 đối chứng Đốc Phụng và
IR28 là: Sói Lùn (cấp 7,0), Ngọc Nữ (cấp 5,0), Năm
Tài 1 (cấp 3,7), Thơm Mẵn (cấp 4,2), Móng Chim
Rơi 3 (cấp 4,2), Nếp Sữa (cấp 5,0), Móng Chim Đen
(cấp 3,0). Mặt khác, 5 giống: Một Bụi Đỏ Cao Cà
Mau (cấp 3,0), Nàng Thơm (cấp 4,3), Nàng Cum 1
(cấp 3,0), Tét Rằn (cấp 5,0), Thơm Lùn Mùa (cấp 5,7)
có tỉ lệ Na+/K+ tương đương chuẩn nhiễm IR28 . Bên
cạnh đó, ghi nhận được: Tép Hành (cấp 5,7), Một
Bụi 5 (cấp 5,0) là các giống lúa Mùa có tỉ lệ Na+/K+
trên lá và rễ cao hơn so với đối chứng âm IR28.
Theo Pannaga và cộng tác viên (2009) thì nồng
độ Na+ trong rễ tăng khi bị stress muối nhưng ở một
mức độ nhỏ hơn so với nhìn thấy trong chồi, lượng
K+ trong chồi của các giống lúa trong các điều kiện
căng thẳng khác nhau về cơ bản vẫn giống nhau.
Tuy nhiên, mức K+ trong rễ giảm trong các điều kiện
căng thẳng khác nhau. Như vậy, kết quả phù hợp với
nghiên cứu của Gegorio và công tác viên (1997) đã
đánh giá rằng tỉ lệ Na+/K+ là chỉ tiêu chọn lọc giống
lúa chịu mặn và khả năng duy trì nồng độ Na+ thấp
hoặc K+cao trong lá hoặc rễ được coi là một chỉ số về
khả năng chịu mặn tiềm năng trong lúa theo nghiên
cứu của Tester và Davenport (2003).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá khả năng chịu mặn một số giống lúa mùa ở đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHỊU MẶN MỘT SỐ GIỐNG LÚA MÙA
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Huỳnh Kỳ1, Trần Hữu Phúc2, Văn Quốc Giang1,
Trần Thị Yến Nhi1, Nguyễn Lộc Hiền1, Nguyễn Châu Thanh Tùng1
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng chịu mặn của 22 giống lúa Mùa thu thập ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long bằng cách sử dụng dung dịch Yoshida bổ sung muối NaCl ở nồng độ 10‰ và tiến hành xử lý 5 ngày rồi đánh
giá và thu mẫu phân tích. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống, chiều cao thân lá đều giảm mạnh ở nồng độ mặn 10‰ sau
5 ngày xử lý mặn. Bên cạnh đó, chỉ số tích lũy Na+/K+ trong cây cũng đồng thời cho thấy các giống Ba Bụi 2, Một Bụi
Trắng, Trà Long 2, Tài Nguyên Cà Mau, Nàng Quớt Biển, Một Bụi Lùn 2, Tài Nguyên Sóc Trăng, Ba Bụi Lùn và Đốc
Phụng là nhóm giống lúa có khả năng chịu mặn. Thí nghiệm bước đầu tuyển chọn được một số giống lúa Mùa có
khả năng chịu mặn giai đoạn mạ trong dung dịch dinh dưỡng nhân tạo nhằm mục tiêu xác định giống bố mẹ chịu
mặn phục vụ cho công tác nghiên cứu lai tạo các giống lúa thuần mới chống có khả năng thích nghi với các vùng
sinh thái mặn điển hình ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: Lúa, lúa Mùa, đánh giá, khả năng chịu mặn
1 Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
2 Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến đổi khí hậu đã và đang tác động đến đời
sống của chúng ta và ảnh hưởng của nó đối với tăng
trưởng và phát triển năng suất cây trồng và nông
nghiệp đã trở thành vấn đề môi trường lớn (Lee and
Iersel, 2008; Vysotskaya et al., 2010; Hariadi et al.,
2011) ở Mỹ, ở Úc và châu Á, trong đó có Việt Nam.
Tính đến thời điểm này thì chưa có thống kê chính
xác về mức độ ảnh hưởng của mặn đến nông
nghiệp, nhưng con số thiệt hại có thể là hàng tỷ
USD (Hariadi et al., 2011). Những tháng đầu năm
2019, hiện trạng xâm nhập mặn có khuynh hướng
gia tăng so với năm 2018 ở các tỉnh Long An, Tiền
Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau, Kiên Giang. Điều này đem lại sự thách thức
không chỉ đối với nền nông nghiệp Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) nói chung mà còn gây tác động
và ảnh hưởng sâu sắc đối với sản xuất lúa gạo nói
riêng. Vì vậy, việc chọn tạo giống cây trồng thích ứng
với mặn, đặc biệt là các giống lúa có khả năng sinh
trưởng và phát triển được trong điều kiện mặn là
một trong những vấn đề cấp bách, nhằm đảm bảo
thu nhập cho nông dân trồng lúa ở các vùng duyên
hải của ĐBSCL và điều này lần lượt đòi hỏi một quy
trình đáng tin cậy và nhanh chóng để sàng lọc nguồn
gen lúa có khả năng chịu mặn.
Tính đến thời điểm này có rất nhiều nghiên cứu
trong và ngoài nước đã thanh lọc thành công giống lúa
chịu được mặn trong môi trường nhân tạo thông qua
các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Một số nghiên cứu ứng dụng phương pháp thanh
lọc mặn trong môi trường chỉ có NaCl hay có sự kết
hợp NaCl với CaCl2 (Jones and Stenhouse, 1983;
Maas and Hoffman, 1977; Ponnamperuma, 1984),
hay thanh lọc mặn nhân tạo bằng đất nhiễm mặn
trong chậu (IRRI, 1978; Jones and Stenhouse, 1983),
hoặc phương pháp tưới nước muối (Farah and Anter,
1978). Ponnamperuma, 1984 còn sử dụng phương
pháp thanh lọc mặn trong điều kiện tự nhiên.
Ở nghiên cứu này, 22 giống lúa Mùa đã được thanh
lọc trong môi trường dung dịch Yoshida có NaCl, kết
quả đã chọn được các giống lúa mùa có tiềm năng
chịu được mặn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Nguồn gốc của 22 giống lúa Mùa được thu thập
ở các vùng Duyên hải vùng ĐBSCL và tồn trữ ở
Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL - Trường Đại
học Cần Thơ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được bố trí với kiểu bố trí hoàn toàn
ngẫu nhiên, mỗi giống được gieo 3 lần lặp lại với
5 cây trên các khay thanh lọc. Môi trường thanh
lọc sử dụng là Yoshida có bổ sung và không bổ
sung NaCl nồng độ 10 ‰, thực hiện thí nghiệm và
đánh giá các chỉ tiêu theo phương pháp của IRRI
(Gregorio et al., 1997).
15
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Bảng 1. Thang đánh giá mức độ chịu mặn (SES) ở giai đoạn tăng trưởng
Cấp Quan sát đánh giá sinh trưởng cây lúa Mức chống chịu
1 Sinh trưởng và phát triển gần như bình thường Chống chịu tốt
3 Sinh trưởng gần như bình thường, song đẻ nhánh bị hạn chế đôi chút, vài lá bị đốm trắng và cuốn lại Chống chịu khá
5 Sinh trưởng và phát triển suy giảm, hầu hết lá bị đốm trắng và cuốn lại, chỉ rất ít lá có thể phát triển dài ra Chống chịu trung bình
7 Sinh trưởng hoàn toàn bị trì trệ, hầu hết lá bị khô, một vài cây bị chết Nhiễm
9 Hầu hết các cây bị chết hoặc khô Rất nhiễm
Nguồn: Gregorio et al., 1997.
2.2.1. Các chỉ tiêu ghi nhận để đánh giá khả năng
chịu mặn
Để giá khả năng chịu mặn, các giống lúa trước
và sau khi xử lý mặn được ghi nhận số liệu bao gồm
chiều cao cây, chiều dài rể, số lá, sinh khối thân lá
tươi và thân lá khô, sinh khối rễ tươi và rễ khô, cấp
chịu mặn đuợc đánh giá theo thang đánh giá của
Gregorio và cộng tác viên (1997). Hàm lượng tích
lũy Na+ và K+ được phân tích theo phương pháp của
Ochiai và Matoh (2002).
2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu đuợc xử lý bằng phần mềm Excel. Phân
tích thống kê bằng phần mềm SPSS (2007) và
phép kiểm định Duncan. Phần mềm vẽ biểu đồ
Origin 2017.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 năm 2018
đến tháng 3 năm 2019 tại Phòng thí nghiệm Trường
Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả đánh giá khả năng chịu mặn trong
điều kiện mặn nhân tạo
3.1.1. Thanh lọc tính chịu mặn giai đoạn mạ
Thí nghiệm được tiến hành thanh lọc mặn với
22 giống lúa địa phương ở giai đoạn mạ, sau khi cho
muối NaCl (10‰) 5 ngày. Kết quả khảo sát khả năng
chịu mặn của 22 giống lúa Mùa với độ mặn 10‰ sau
5 ngày xử lý mặn cho thấy, có 7 giống lúa (Một Bụi
Trắng, Nàng Quớt Biển, Nàng Cum 1, Trà Long 2,
Móng Chim Đen, Ba Bụi Lùn, Một Bụi Đỏ Cao) có
kiểu hình chịu mặn khá (cấp 3) tương đương với
giống chuẩn kháng Đốc Phụng, chiếm 31,8%; kiểu
hình chịu mặn cấp 4 có 8 giống (Tài Nguyên Sóc
Trăng, Tài Nguyên Cà Mau, Năm Tài 1, Ba Bụi 2,
Móng Chim Roi 3, Một Bụi Lùn 2, Nàng Thơm,
Thơm Mẵn), chiếm tỉ lệ 36,4% ; có 4 giống lúa (Nếp
Sữa, Ngọc Nữ, Một Bụi 5, Tét Rằn 1) mang kiểu
hình chịu mặn trung bình (cấp 5), chiếm 16,7 %; có
1 giống Sói Lùn bị nhiễm mặn (cấp 7) và chỉ có giống
chuẩn nhiễm IR28 mang kiểu hình rất nhiễm (cấp 9)
(Bảng 2).
Bảng 2. Thang đánh giá mức độ chịu mặn (SES) ở giai đoạn tăng trưởng của 24 giống lúa.
TT Giống Cấp TT Giống Cấp
1 Một Bụi Trắng 3,0 13 Móng Chim Roi 3 4,3
2 Nàng Quớt Biển 3,0 14 Một Bụi Lùn 2 4,3
3 Nàng Cum 1 3,0 15 Nàng Thơm 4,3
4 Đốc Phụng (chuẩn kháng) 3,0 16 Thơm Mẵn 4,3
5 Trà Long 2 3,0 17 Nếp Sữa 5,0
6 Móng Chim Đen 3,0 18 Ngọc Nữ 5,0
7 Ba Bụi Lùn 3,0 19 Một Bụi 5 5,0
8 Một Bụi Đỏ Cao CM 3,0 20 Tét Rằn 1 5,0
9 Tài Nguyên Sóc Trăng 3,7 21 Tép Hành 5,7
10 Tài Nguyên Cà Mau 3,7 22 Thơm Lùn Mùa 5,7
11 Năm Tài 1 3,7 23 Sói Lùn 7,0
12 Ba Bụi 2 4,3 24 IR28 (chuẩn nhiễm) 9,0
16
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
3.1.2. Ảnh hưởng của mặn lên chiều cao cây
Chiều cao cây của 22 giống lúa Mùa và 2 đối
chứng ở 2 mức độ mặn (qua kiểm định Duncan ở
mức ý nghĩa 5%) được trình bày qua hình 1 cho thấy
sự tác động của yếu tố giống và độ mặn lên chiều
cao cây đều có ý nghĩa về mặt thống kê 1%, sự tương
tác giữa hai yếu tố này có sự khác biệt về mặt thống
kê 5%. Giống có chiều cao cao nhất là Ba Bụi 2, cao
43,8 cm. Giống có chiều cao cây thấp nhất là IR28,
cao 23,2 cm. Sói Lùn cao 27,6 cm có chiều cao cây
tương đương IR28, nhưng thấp hơn và có sự khác
biệt ở mức ý nghĩa thống kê 5% so với giống Đốc
Phụng. Đốc Phụng (Đốc Phụng cao 38,6 cm). Giống
có chiều cao tương đương là Ba Bụi Lùn, Tài Nguyên
Sóc Trăng, Nàng Quớt Biển, Một Bụi Trắng, Tài
Nguyên Cà Mau, Ngọc Nữ, Nàng Cum 1, Trà Long 2,
Nếp Sữa, Móng Chim Đen, Móng Chim Rơi 3, Một
Bụi 5, Một Bụi Lùn 2, Thơm Mẵn, Tét Rằn 1, Nàng
Thơm. Tép Hành có chiều cao 28,9 cm, cao hơn IR28
nhưng thấp hơn so với Đốc Phụng và có sự khác biệt
ở mức ý nghĩa thống kê 5% so với 2 giống này.
Hình 1. Tương tác giữa độ mặn 10‰ NaCl với giống lên chiều cao cây
Ghi chú: 1) Một Bụi Trắng; 2) Tài Nguyên Sóc Trăng; 3) Tài Nguyên Cà Mau; 4) Nàng Quớt Biển; 5) Sói Lùn; 6) Ngọc
Nữ; 7) Nàng Cum 1; 8) Đốc Phụng; 9) Trà Long 2; 10) Ba Bụi 2; 11) Nếp Sữa; 12) Tép Hành; 13) Móng Chim Đen; 14)
Năm Tài 1; 15) Móng Chim Rơi 3; 16) Ba Bụi Lùn; 17) Một Bụi 5; 18) Một Bụi Đỏ Cao CM; 19) Tét Rằn 1; 20) Một Bụi
Lùn 2; 21) Nàng Thơm; 22) Thơm Mẵn; 23) Thơm Lùn Mùa; 24) IR28.
Như vậy, chỉ tiêu chiều cao cây của bộ giống lúa
thực hiện thí nghiệm khi trồng trong dung dịch
Yoshida khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê 1% cho
thấy yếu tố giống tác động lên chiều cao của cây. Khi
trồng trong dung dịch Yoshida, Ba Bụi 2 là giống có
chiều cao cao nhất; Tép Hành, Sói Lùn có chiều cao
cao hơn IR28 nhưng thấp hơn hẳn các giống khác.
Khi được xử lý ở độ mặn 10‰ sau 5 ngày, độ mặn và
giống tác động làm giảm chiều cao cây ở mức ý nghĩa
thống kê 1%, sự tương tác giữa độ mặn và giống lên
chiều cao cây có sự khác biệt ở mức ý nghĩa 5%; Ba
Bụi 2, Ba Bụi Lùn, Tài Nguyên Sóc Trăng, Nàng Quớt
Biển, Năm Tài 1 có chiều cao cao hơn các giống khác;
Tép Hành, Sói Lùn có chiều cao thấp nhất. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Hasamuzzaman và
cộng tác viên (2009) cho rằng mặn ức chế sự sinh
trưởng cây lúa dẫn đến chiều cao cây thấp hơn; mặn
ảnh hưởng khác nhau lên sự kéo dài thân của các
giống khác nhau do khả năng di truyền của giống.
3.1.3. Ảnh hưởng của mặn lên chiều dài rễ
Khi xử lý mặn với độ mặn 10‰, sau 5 ngày cho
thấy độ mặn tác động lên chiều dài rễ của 24 giống
không có khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê (Hình 2).
Ở nghiệm thức đối chứng với độ mặn 0‰ các giống
có chiều dài rễ trung bình là 15,9 cm. Ở độ mặn 10‰,
các giống có chiều dài rễ trung bình là 16,5 cm.
Kết quả phân tích thống kê chiều dài rễ của 22
giống lúa Mùa và 2 đối chứng ở 2 mức độ mặn thí
nghiệm (qua kiểm định Duncan ở mức ý nghĩa 5%)
được trình bày qua hình 2 cho thấy sự tương tác giữa
2 yếu tố giống và độ mặn tác động lên chiều dài rễ
không có ý nghĩa thống kê nhưng độ mặn tác động
lên chiều dài rễ, làm chiều dài rễ thay đổi. Kết quả thí
nghiệm ghi nhận một số giống: Trà Long 2, Móng
Chim Đen, Nàng Cum 1 có chiều dài rễ ở độ mặn
10‰ tăng trưởng dài hơn khi ở độ mặn 0‰ và sự
khác biệt giữa 2 độ mặn là có ý nghĩa thống kê. Bên
cạnh đó, IR28, Một Bụi Trắng, Nàng Quớt Biển, Ba
Bụi 2, Ba Bụi Lùn, Một Bụi Đỏ Cao, Một Bụi Lùn 2
là các giống có chiều dài rễ trung bình ở độ mặn
10‰ dài hơn khi ở độ mặn 0‰ nhưng không có sự
khác biệt giữa 2 độ mặn. Giống có chiều dài rễ tương
đương giữa 2 độ mặn là Đốc Phụng, Sói Lùn, Nàng
Thơm, Thơm Mẵn, Thơm Lùn Mùa. Giống có chiều
dài rễ ở độ mặn 10‰ ngắn hơn khi ở độ mặn 0‰
nhưng không có sự khác biệt giữa 2 độ mặn là Tài
Nguyên Sóc Trăng, Tài Nguyên Cà Mau, Ngọc Nữ,
Tép Hành, Năm Tài 1, Móng Chim Rơi 3, Tét Rằn 1.
17
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Hình 2. Tương tác giữa độ mặn 100mM NaCl với giống lên chiều dài rễ
Như vậy, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Byrt và cộng tác viên (2018) cho rằng sự phát triển
rễ bị ức chế bởi độ mặn. Nhưng theo nghiên cứu
của Nitika và cộng tác viên (2016) cho rằng do sự
dãn dài của rễ khi bị thiếu nước và sự gia tăng đáng
kể mật độ của rễ bên khi tiếp xúc với độ mặn. Theo
Pannaga Krishnamurthy và cộng tác viên (2009)
cho thấy rằng độ mặn ức chế sự sinh trưởng của rễ
nhưng cũng kích thích sự dãn dài và tăng số lượng
rễ bên.
3.2. Khả năng tích lũy hàm lượng Na+ và K+ trong
các giống
Khả năng tích lủy Na+ và K+ ở độ mặn 10‰
(bảng 3) cho thấy Đốc Phụng có tỉ lệ Na+/K+ là 1,18,
IR28 có tỉ lệ Na+/K+ là 1,55. Giống có tỉ lệ Na+/K+ cao
nhất là Một Bụi Năm với tỉ lệ 1,69, sau đó đến Tép
Hành với tỉ lệ 1,64 và IR28. Ba Bụi 2 có tỉ lệ thấp nhất
với tỉ lệ 0,92 (<1,0), sau đó là Một Bụi Trắng, Trà
Long 2, Tài Nguyên Cà Mau, Nàng Quớt Biển, Một
Bụi Lùn 2, Tài Nguyên Sóc Trăng, Ba Bụi Lùn có tỉ lệ
biến thiên từ 1,1 đến 1,17 và chúng đều có tỉ lệ thấp
hơn Đốc Phụng. Do những giống này chứa lượng K+
tăng rất cao đồng thời lượng Na+ cũng cao dẫn đến
tỉ lệ này được duy trì ở các giống Một Bụi Trắng, Tài
Nguyên Sóc Trăng, Tài Nguyên Cà Mau, Nàng Quớt
Biển. Ba Bụi 2 và Trà Long 2 có lượng K+ tăng thấp
và Na+ thấp; Một Bụi Lùn 2 có lượng K+ giảm đồng
thời lượng Na+ thấp, điều này giống với Đốc Phụng.
Riêng Ba Bụi Lùn có tỉ lệ Na+/K+ < 1 do hàm lượng
K+ giảm và Na+ tăng tương đương nhau. Các giống
có tỉ lệ trong khoảng Đốc Phụng và IR28 là Sói Lùn,
Ngọc Nữ, Trà Long 2, Nếp Sữa, Năm Tài 1, Móng
Chim Rơi 3, Một Bụi Đỏ Cao Cà Mau, Tét Rằn 1,
Nàng Thơm, Thơm Lùn Mùa có tỉ lệ biến thiên từ
1,2 đến 1,52.
Bảng 3. Tỉ lệ Na+/K+ trên lá và rễ lúa sau 5 ngày xử lý mặn
TT
Giống
Kết quả
thí nghiệm
TT Giống
Kết quả
thí nghiệm
Na+/K+ Na+/K+
0‰ 10‰ 0‰ 10‰
1 Một Bụi Trắng 0,08 1,10 13 Móng Chim Đen 0,12 1,37
2 Tài Nguyên Sóc Trăng 0,11 1,17 14 Năm Tài 1 0,09 1,21
3 Tài Nguyên Cà Mau 0,20 1,12 15 Móng Chim Rơi 3 0,07 1,27
4 Nàng Quớt Biển 0,12 1,14 16 Ba Bụi Lùn 0,05 1,17
5 Sói Lùn 0,13 1,20 17 Một Bụi 5 0,12 1,69
6 Ngọc Nữ 0,11 1,21 18 Một Bụi Đỏ Cao Cà Mau 0,07 1,42
7 Nàng Cum 1 0,06 1,46 19 Tét Rằn 1 0,20 1,51
8 Đốc Phụng 0,06 1,18 20 Một Bụi Lùn 2 0,07 1,15
9 Trà Long 2 0,10 1,11 21 Nàng Thơm 0,07 1,45
10 Ba Bụi 2 0,07 0,92 22 Thơm Mẵn 0,09 1,25
11 Nếp Sữa 0,06 1,35 23 Thơm Lùn Mùa 0,10 1,52
12 Tép Hành 0,07 1,64 24 IR28 0,14 1,55
18
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Có 8 giống lúa cùng với chỉ tiêu cấp chịu mặn
theo thang đánh giá của IRRI (1997) cho thấy tỉ lệ
Na+/K+ trên lá và rễ sau 5 ngày xử lý mặn nhỏ hơn
tỉ lệ Na+/K+ trên lá và rễ của giống chuẩn chống
chịu Đốc Phụng: Ba Bụi 2 (cấp 4,2), Một Bụi Trắng
(cấp 3,0), Trà Long 2 (cấp 3,0), Tài Nguyên Cà Mau
(cấp 3,7), Nàng Quớt Biển (cấp 3,0), Một Bụi Lùn 2
(cấp 4,2), Tài Nguyên Sóc Trăng (cấp 3,7), Ba Bụi Lùn
(cấp 3,0). Các giống có tỉ lệ Na+/K+ dao động trong
khoảng trung bình giữa 2 đối chứng Đốc Phụng và
IR28 là: Sói Lùn (cấp 7,0), Ngọc Nữ (cấp 5,0), Năm
Tài 1 (cấp 3,7), Thơm Mẵn (cấp 4,2), Móng Chim
Rơi 3 (cấp 4,2), Nếp Sữa (cấp 5,0), Móng Chim Đen
(cấp 3,0). Mặt khác, 5 giống: Một Bụi Đỏ Cao Cà
Mau (cấp 3,0), Nàng Thơm (cấp 4,3), Nàng Cum 1
(cấp 3,0), Tét Rằn (cấp 5,0), Thơm Lùn Mùa (cấp 5,7)
có tỉ lệ Na+/K+ tương đương chuẩn nhiễm IR28 . Bên
cạnh đó, ghi nhận được: Tép Hành (cấp 5,7), Một
Bụi 5 (cấp 5,0) là các giống lúa Mùa có tỉ lệ Na+/K+
trên lá và rễ cao hơn so với đối chứng âm IR28.
Theo Pannaga và cộng tác viên (2009) thì nồng
độ Na+ trong rễ tăng khi bị stress muối nhưng ở một
mức độ nhỏ hơn so với nhìn thấy trong chồi, lượng
K+ trong chồi của các giống lúa trong các điều kiện
căng thẳng khác nhau về cơ bản vẫn giống nhau.
Tuy nhiên, mức K+ trong rễ giảm trong các điều kiện
căng thẳng khác nhau. Như vậy, kết quả phù hợp với
nghiên cứu của Gegorio và công tác viên (1997) đã
đánh giá rằng tỉ lệ Na+/K+ là chỉ tiêu chọn lọc giống
lúa chịu mặn và khả năng duy trì nồng độ Na+ thấp
hoặc K+ cao trong lá hoặc rễ được coi là một chỉ số về
khả năng chịu mặn tiềm năng trong lúa theo nghiên
cứu của Tester và Davenport (2003).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả đánh giá khả năng chịu mặn của 22 giống
lúa Mùa trên các chỉ tiêu sinh lý và khả năng tích lũy
ion Na+ và K+ thông qua tỉ lệ Na+/K+ trên cây lúa,
chọn được các giống Ba Bụi 2, Một Bụi Trắng, Trà
Long 2, Tài Nguyên Cà Mau, Nàng Quớt Biển, Một
Bụi Lùn 2, Tài Nguyên Sóc Trăng, Ba Bụi Lùn và Đốc
Phụng là những giống lúa khả năng chịu mặn trong
điều kiện mặn 10‰ ở giai đoạn mạ.
4.2. Đề nghị
Tiếp tục khảo sát khả năng chịu mặn các giống ở
giai đoạn sinh trưởng, ra hoa và đánh giá khả năng
chịu mặn thông qua dấu phân tử.
LỜI CÁM ƠN
Đề tài này được tài trợ bởi Dự án Nâng cấp
Trường Đại học Cần Thơ VN14-P6 bằng nguồn vốn
vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. Cám ơn Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã cho phép thực hiện đề tài: “Thu
thập, bảo tồn và đánh giá một số đặc điểm di truyền
của tập đoàn 300 giống lúa Mùa vùng Bán đảo Cà
Mau” để có nguồn giống thực hiện nghiên cứu này.
Cảm ơn Viện Nghiên cứu và Phát triển ĐBSCL -
Trường Đại học Cần Thơ đã hỗ trợ cho nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Byrt CS1, Munns R2, Burton RA3, Gilliham M4,
Wege S4., 2018. Root cell wall solutions for crop
plants in saline soils. Plant Sci., 269: 47-55.
Farah M A and Anter I M., 1978. Salt tolerance of eight
varieties of rice. Agric. Res. Rev. 56, 9-15.
Gregorio GB, Senadhira D., and Mendoza RD., 1997.
Screening rice for salinity tolerance. IRRI Discussion
paper Series No.22. International Rice Research
Institute, Los Baños. Laguna, Philippines.
Hariadi Y, MarandonK, TianY, JacobsenS-E, Shabala S.,
2011. Ionic and osmotic relations in quinoa
(Chenopodium quinoa wild) plant grown at various
salinity levels. Journal of Experimental Botany 2011.
62(1): 185-193.
Hasamuzzaman, M., Fujita, M., Islamm, M. N.,
Ahamed, K. U. and Nahar, K., 2009. Performance
of four irrigated rice varieties under different levels
of salinity stress. International Journal of Integrative
Biology 6: 85-89.
IRRI, 1978. Annual Report for 1977. The International
Rice Research Institute, Los Bafios, Philippines.
Jones M. P. and Stenhouse J. W., 1983. Salt tolerance
of mangrove swamp rice varieties. IRRI Newsletter 8,
8-9.
Lee, M.K. and M.W. van Iersel, 2008. Sodium chloride
effects on growth, morphology, and physiology of
chrysanthemum (Chrysanthemum morifolium). Hort.
Science 2008; 43(6): 1888-1891.
Maas E. V. and G. J. Hoffman, 1977. Crop salt tolerance-
current assessment. J. Irrig. Drain Div. 103, 115-134.
Nitika, K. Anitha Raman, Rolando O. Torres, Alain
Audebert, Audrey Dardou, Arvind Kumar, and
Amelia Henry, 2016. Rice Root Architectural
Plasticity Traits and Genetic Regions for Adaptability
to Variable Cultivation and Stress Conditions. Plant
Physiol. 171(4): 2562-2576.
Ochiai K., Matoh T, 2002. Characterization of the Na+
delivery from roots to shoots in rice under saline
stress: Excessive salt enhances apoplastic transport
in rice plants. Soil Sci. Plant Nutr., 48: 371-378.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_kha_nang_chiu_man_mot_so_giong_lua_mua_o_dong_bang.pdf