Đánh giá mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng

Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị trung bình chung của áp lực oxy tổ chức não và áp lực nội sọ không có sự tương quan với nhau trong toàn bộ suốt thời gian theo dõi. Kết quả này cũng tương tự với tác giả Rohlwink cho thấy có mối tương quan yếu giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và không có một ngưỡng áp lực nội sọ cụ thể nào quyết định đến tình trạng giảm áp lực oxy tổ chức não. Tác giả này cho rằng mối quan hệ giữa áp lực oxy tổ chức não và áp lực nội sọ không đơn giản, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến từng thông số riêng biệt và cũng như đối với đồng thời cả hai [12]. Thứ nhất, một số yếu tố có thể gây ra những thay đổi đối với cả hai áp lực nội sọ và áp lực oxy tổ chức não như là tình trạng phù não có thể đồng thời làm tăng áp lực nội sọ và giảm áp lực oxy tổ chức não do giảm áp lực tưới máu não hoặc tình trạng phù ở khoảng kẽ trong nhu mô não làm cho việc khuyếch tán oxy từ mao mạch đến các tế bào khó khăn hơn, do đó có thể vẫn xảy ra giảm áp lực oxy tổ chức não trong khi mà áp lực nội sọ cũng như áp lực tưới máu não vẫn trong giới hạn bình thường [7; 8]. Thứ hai, thay đổi một số thông số sinh lý có thể ảnh hưởng đến giá trị áp lực oxy tổ chức não một cách độc lập với áp lực nội sọ như thay đổi FiO2, tình trạng co thắt mạch não.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 201796 ĐÁNH GIÁ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ÁP LỰC OXY TỔ CHỨC NÃO VỚI ÁP LỰC NỘI SỌ VÀ ÁP LỰC TƯỚI MÁU NÃO Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG Vũ Hoàng Phương¹, Nguyễn Quốc Kính² ¹Bộ môn Gây mê hồi sức - Trường Đại học Y Hà Nội, ²Bệnh viện Việt Đức Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu phân tích mối tương quan giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. 41 bệnh nhân được theo dõi thần kinh đa phương thức bao gồm: áp lực nội sọ; áp lực tưới máu não, áp lực oxy tổ chức não (kĩ thuật Licox) và được điều trị theo 1 phác đồ chung. Mối tương quan (r) được đánh giá và so sánh trong 24h đầu và trong 5 ngày theo dõi ở tất cả bệnh nhân; ở nhóm sống và tử vong; ở nhóm kết cục xấu và kết cục tốt. Kết quả cho thấy áp lực oxy tổ chức não và áp lực nội sọ cũng như áp lực tưới máu não có tương quan ở mức độ yếu trong toàn bộ thời gian theo dõi. Tuy nhiên, mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não ở nhóm tử vong là rất chặt chẽ và thuận chiều (r = 0,79; p < 0,01); ở nhóm kết cục xấu là chặt chẽ (r = 0,5 với p 1h trong vòng 24h đầu phối hợp với tăng tỉ lệ tử vong có ý nghĩa thống kê (80% ở nhóm tử vong so với 8,33% ở nhóm sống; p < 0,001). Áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não có tương quan chặt chẽ và thuận chiều ở nhóm bệnh nhân kết cục xấu, đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân tử vong. Tình trạng thiếu oxy tổ chức não kéo dài có liên quan với tăng tỉ lệ tử vong. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: áp lực oxy tổ chức não, chấn thương sọ não nặng, áp lực nội sọ, áp lực tưới máu não, mối tương quan Theo dõi thần kinh đóng 1 vai trò trung tâm trong hồi sức bệnh nhân sau chấn thương sọ não nặng nhằm phát hiện phát hiện và sửa chữa kịp thời những nguyên nhân dẫn đến tổn thương não thứ phát, tình trạng thiếu máu cục bộ cũng như phù não cấp tính... làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Cùng với việc thăm khám thần kinh trên lâm sàng, các biện pháp theo dõi bổ sung như áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não cũng như chuyển hóa oxy não làm tăng thêm hiệu quả đánh giá lâm sàng và trở thành công cụ hướng dẫn chủ yếu trong điều trị bệnh nhân chấn thương sọ não [1; 2], [3; 4]. Tuy nhiên, kỹ thuật theo dõi áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não đôi khi có thể không đủ đại diện được cho các chỉ số sinh lý mà các nhà hồi sức cần quan tâm. Kỹ thuật theo dõi áp lực oxy tổ chức não được phát triển từ những tiến bộ trong hiểu biết về sinh lý bệnh của chấn thương sọ não cho phép định lượng, đo lường liên tục theo “thời gian thực” có thể cung cấp thông tin chi tiết hơn liên quan đến chức năng chuyển hóa oxy não [1; 2; 5]. Những nghiên cứu gần đây cho thấy mối tương quan chặt chẽ giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp với tỉ lệ tử vong cũng như kết quả điều trị xấu trong điều trị bệnh nhân chấn thương sọ não nặng [3; 6; 7; 8]. Do vậy, chúng tôi thực hiện nghiên Địa chỉ liên hệ: Vũ Hoàng Phương, Bộ môn Gây mê hồi sức, Trường Đại học Y Hà Nội Email: vuhoangphuong@hmu.edu.vn Ngày nhận: 23/4/2017 Ngày được chấp nhận: 26/6/2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 97 cứu này nhằm mục tiêu phân tích mối tương quan giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Bệnh nhân chấn thương sọ não có điểm Glasgow ≤ 8; độ tuổi 16 - 65 được lựa chọn vào nghiên cứu trong thời gian từ 05/2013 – 2/2015 tại phòng Hồi sức tích cực, Trung tâm Gây mê và Hồi sức – Bệnh viện Việt Đức. * Những bệnh nhân bị loại trừ ra khỏi nghiên cứu gồm có: hôn mê sâu (Glasgow = 3 điểm), đồng tử 2 bên giãn hết sau khi hồi sức; đa chấn thương nặng có điểm ISS (Injury Severe Score) ≥ 25, chấn thương ngực nặng; có bệnh lý mạn tính kèm theo như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh tim mạch; bệnh nhân không thể đặt được catheter đo áp lực oxy tổ chức não: vỡ lún sọ rộng và phức tạp, mất da đầu, nhiễm trùng vùng da đầu định đặt; đang có rối loạn đông máu và tiền sử dùng thuốc chống đông. 2. Phương pháp Nghiên cứu mô tả, cắt ngang và phân tích. Cỡ mẫu được tính dựa theo một nghiên cứu trước đó (áp lực oxy tổ chức não có mối tương quan chặt với áp lực tưới máu não với r = 0,5 [9]); lực mẫu (power) = 90% và sai lầm loại I (α) = 0,05 thì số lượng bệnh nhân nghiên cứu tối thiểu là n = 37. Trong nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 41 bệnh nhân chấn thương sọ não. * Tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu đều được điều trị theo một phác đồ chung trước khi đặt catheter theo dõi, bao gồm: thông khí nhân tạo, an thần giảm đau, tư thế đầu cao 15 – 30°, kiểm soát thân nhiệt < 37,5°C, theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn liên tục và áp lực tĩnh mạch trung tâm theo chỉ định. Để loại bỏ hiện tượng nhiễu do sang chấn nhỏ trong quá trình đặt catheter theo dõi, dữ liệu áp lực oxy tổ chức não chỉ bắt đầu ghi lại và điều chỉnh sau khi kết thúc quá trình đặt là 2h. * Theo dõi và hướng dẫn điều trị dựa theo áp lực nội sọ và áp lực oxy tổ chức não: Tất cả bệnh nhân chấn thương sọ não trong nghiên cứu được điều trị dựa theo phác đồ hướng dẫn của Hiệp hội chấn thương thần kinh 2007 để đạt được đích điều trị đảm bảo mức áp lực oxy tổ chức não duy trì từ 20 – 35 mmHg [3]: áp lực tưới máu não ≥ 65 mmHg; huyết áp động mạch trung bình từ 90 - 110 mmHg; duy trì áp lực nội sọ < 20 mmHg; áp lực riêng phần oxy máu động mạch (PaO2) > 100 mmHg và PaO2 từ 35 - 40 mmHg. * Tiêu chí xác định mối tương quan của áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ, áp lực tưới máu não: Tìm mối tương quan (r) giữa giá trị trung bình chung của áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não trong 24h đầu và suốt toàn bộ thời gian theo dõi sau khi đặt catheter đo áp lực oxy tổ chức não; tìm mối tương quan (r) giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não ở 2 nhóm: sống và tử vong; kết cục xấu sau 6 tháng và kết cục tốt. * Tiêu chí đánh giá: Kết quả bệnh nhân sống hoặc chết được đánh giá trong vòng 28 ngày nằm viện. Kết cục điều trị sau 6 tháng được đánh giá bằng thang điểm GOS (Glasgow Outcome Scale). Kết cục xấu nếu GOS ≤ 3 và kết cục tốt nếu GOS ≥ 4. 3. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mền SPSS 13.0. So sánh các giá trị trung bình (áp lực oxy tổ chức não, áp lực nội sọ, áp lực tưới máu não) dựa vào test t-Student, test ANOVA với nhiều trung bình, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. So sánh 2 tỷ lệ dựa vào test khi bình phương và mức ý nghĩa thống kê là p TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 201798 < 0,05. Đánh giá sự tương quan giữa các giá trị trung bình áp lực oxy tổ chức não, áp lực nội sọ, áp lực tưới máu não tại các thời điểm nghiên cứu theo Spearman Correlation. 4. Đạo đức nghiên cứu Người nhà bệnh nhân được giải thích đầy đủ về quy trình nghiên cứu và đồng ý tham gia. Các bệnh nhân đều được cân nhắc về lợi ích và nguy cơ trước khi được đưa vào nghiên cứu. Những bệnh nhân có nguy cơ đều đã được loại trừ để giảm thiểu các tác động không mong muốn của các phương pháp theo dõi. Các thông tin về hồ sơ bệnh án và hình ảnh đều được chúng tôi bảo mật. Đề tài nghiên cứu là một phần của đề tài nhánh trong đề tài cấp Nhà nước được báo cáo và đã nghiệm thu trong năm 2015. III. KẾT QUẢ 1. Mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não Biểu đồ 1. Tương quan giữa giá trị trung bình áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não Biểu đồ 1 cho thấy giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực nội sọ trung bình có mối tương quan thấp và nghịch chiều (r = -0,251) với p = 0,009. Tương tự, giá trị oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não trung bình có mối tương quan thấp và thuận chiều (r = 0,226), p = 0,024. 2. Diễn biến theo thời gian giá trị áp lực oxy tổ chức não giữa 2 nhóm tử vong và sống Biểu đồ 2. Diễn biến theo thời gian giá trị trung bình của áp lực oxy tổ chức não giữa 2 nhóm chết và sống trong 24h đầu sau khi đặt catheter TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 99 Giá trị áp lực oxy tổ chức não trong vòng 24h ở nhóm bệnh nhân sống gần như ổn định nằm trong khoảng giới hạn từ 20 - 35 mmHg, ngược lại ở nhóm bệnh nhân chết cho thấy giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp dưới 10 mmHg và thời gian áp lực oxy tổ chức não thấp dưới 10 mmHg kéo dài và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 3. Mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não ở nhóm chết và sống Biểu đồ 3. Diễn biến theo thời gian giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não trung bình giữa 2 nhóm chết và sống Nhận xét: Giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não trung bình trong nhóm chết đều ở mức thấp hơn bình thường ở nhiều thời điểm. Tương quan giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não trung bình trong nhóm bệnh nhân chết ở mức rất chặt chẽ và thuận chiều (r = 0,791 và p < 0,01). 4. Mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não thấp và kết quả điều trị Bảng 1. Tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não trong 24h sau khi đặt và kết quả điều trị Ở bảng 1, tỉ lệ bệnh nhân có áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg kéo dài > 1h là khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tử vong và sống (80,0% so với 8,3%; p < 0,001) nhưng giữa 2 nhóm kết cục xấu và tốt là chưa có ý nghĩa thống kê (40,0% so với 18,7%; p > 0,05) (ANOVA – 2 ways). Kết quả điều trị sau 6 tháng Giá trị áp lực oxy tổ chức não (kéo dài > 1h) ≤ 10 mmHg > 10 mmHg Tổng P (ANOVA) Kết cục xấu (n) (%) 8 (40,0%) 12 (60%) 20 > 0,05 Kết cục tốt (n) (%) 3 (18,7%) 13 (81,3%) 16 Chết (n) (%) 4 (80%) 1 (20%) 5 < 0,001 Sống (n) (%) 3 (8,3%) 33 (91,7%) 36 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017100 Biểu đồ 4. Tần suất giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg và kết quả điều trị. 5. Mối tương quan giữa áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não ở 2 nhóm kết quả xấu và tốt Biểu đồ 5. Diễn biến theo thời gian giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não trung bình giữa 2 nhóm kết quả xấu và tốt Giá trị áp lực tưới máu não và áp lực oxy tổ chức não trung bình ở nhóm kết cục xấu và tốt gần như tương đương nhau ở nhiều thời điểm và khác biệt là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tương quan giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não trung bình ở nhóm bệnh nhân kết cục xấu là chặt chẽ và thuận chiều ( r = 0,501 (p < 0,01). IV. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu này, nếu đánh giá chung thì mối quan hệ giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não và áp lực tưới máu não ở tất cả bệnh nhân nghiên cứu chỉ tương quan ở mức độ yếu (r TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 101 = 0,226 với p < 0,05). Kết quả này cũng gần giống với kết quả của tác giả Sahuquillo cho thấy chưa hẳn có một mối tương quan trực tiếp giữa áp lực oxy tổ chức não với áp lực tưới máu não và ngay cả khi áp lực tưới máu não trên mức bình thường thì giá trị áp lực oxy tổ chức não vẫn có thể thay đổi [5]. Tương tự, tác giả Stocchetti cũng cho thấy những thay đổi trong áp lực oxy tổ chức não vẫn không hoàn toàn song hành với những thay đổi trong áp lực tưới máu não, nó vẫn có thể thấp ngay cả khi giá trị áp lực tưới máu não vẫn bình thường [10]. Tuy nhiên, khi đánh giá mối quan hệ này trên nhóm bệnh nhân tử vong, chúng tôi nhận thấy áp lực tưới máu não ở mức thấp < 60 mmHg kéo dài ở nhiều thời điểm và mối quan hệ giữa áp lực oxy tổ chức não với áp lực tưới máu não trở nên có ý nghĩa thống kê với mức độ tương quan là rất chặt chẽ và thuận chiều; tương tự như vậy trên nhóm bệnh nhân có kết cục xấu thì mối tương quan này cũng ở mức chặt chẽ. Điều này cũng phù hợp với một kết quả tương tự của tác giả Marin-Caballos cho thấy giá trị áp lực oxy tổ chức não có liên quan trực tiếp và tương quan chặt chẽ với giá trị áp lực tưới máu não khi áp lực tưới máu não thấp dưới ngưỡng 60 mmHg [9]. Hơn nữa, chúng tôi quan sát thấy giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg và khoảng thời gian giá trị áp lực oxy tổ chức não ≤ 10 mmHg kéo dài ở nhiều thời điểm trong vòng 24h đầu sau khi đặt catheter. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ bệnh nhân có tần suất giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg kéo dài > 1h là khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm chết và sống. Kết quả này của chúng tôi cho thấy mối liên quan với kết cục xấu đặc biệt là tình trạng tử vong của bệnh nhân chấn thương sọ não nặng và giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg cũng tương tự với kết quả của nhiều nghiên cứu khác. Tác giả van den Brink cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa mức độ giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg cũng như thời gian kéo dài tình trạng thiếu oxy (thấp ≤ 10 mmHg kéo dài > 30 phút ) với tỉ lệ tử vong và kết cục xấu sau chấn thương [6]. Tương tự, tác giả Valadka cũng cho thấy tỉ lệ tử vong tăng lên có ý nghĩa cùng với mức độ giảm và thời gian kéo dài của giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp < 15 mmHg hoặc khi xuất hiện bất kì một giá trị nào PbtO2 ≤ 6 mmHg. Tác giả này đưa ra một kết luận là cả mức độ giảm và thời gian kéo dài của tình trạng thiếu oxy tổ chức não có mối tương quan mạnh với tỷ lệ tử vong của bệnh nhân chấn thương sọ não nặng [11]. Các nghiên cứu phân tích gộp gần đây cũng cho thấy rằng mức độ thấp áp lực oxy tổ chức não < 10 - 15 mmHg có mối liên quan chặt chẽ đến tình trạng thiếu oxy não và kết cục xấu ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng [1; 4]. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị trung bình chung của áp lực oxy tổ chức não và áp lực nội sọ không có sự tương quan với nhau trong toàn bộ suốt thời gian theo dõi. Kết quả này cũng tương tự với tác giả Rohlwink cho thấy có mối tương quan yếu giữa giá trị áp lực oxy tổ chức não với áp lực nội sọ và không có một ngưỡng áp lực nội sọ cụ thể nào quyết định đến tình trạng giảm áp lực oxy tổ chức não. Tác giả này cho rằng mối quan hệ giữa áp lực oxy tổ chức não và áp lực nội sọ không đơn giản, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến từng thông số riêng biệt và cũng như đối với đồng thời cả hai [12]. Thứ nhất, một số yếu tố có thể gây ra những thay đổi đối với cả hai áp lực nội sọ và áp lực oxy tổ chức não như là tình trạng phù não có thể đồng thời làm tăng áp lực nội sọ và giảm áp lực oxy tổ chức não do giảm áp lực tưới máu não hoặc tình trạng phù ở khoảng kẽ trong nhu mô não làm cho việc khuyếch tán oxy từ mao mạch đến các tế bào TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017102 khó khăn hơn, do đó có thể vẫn xảy ra giảm áp lực oxy tổ chức não trong khi mà áp lực nội sọ cũng như áp lực tưới máu não vẫn trong giới hạn bình thường [7; 8]. Thứ hai, thay đổi một số thông số sinh lý có thể ảnh hưởng đến giá trị áp lực oxy tổ chức não một cách độc lập với áp lực nội sọ như thay đổi FiO2, tình trạng co thắt mạch não. V. KẾT LUẬN Mối tương quan giữa giá trị trung bình áp lực oxy tổ chức não với áp lực tưới máu não và áp lực nội sọ ở mức độ yếu trong toàn bộ suốt thời gian theo dõi. Tuy nhiên, áp lực oxy tổ chức não với áp lực tưới máu não có mối tương quan rất chặt chẽ và thuận chiều ở nhóm bệnh nhân kết cục xấu, đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân tử vong. Giá trị áp lực oxy tổ chức não thấp ≤ 10 mmHg kéo dài > 1h trong vòng 24h đầu phối hợp với tăng tỉ lệ tử vong có ý nghĩa thống kê. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn các bệnh nhân và gia đình bệnh nhân, các bác sỹ và điều dưỡng phòng Hồi sức tích cực, Trung tâm Gây mê và hồi sức ngoại khoa - Bệnh viện Việt Đức đã nhiệt tình giúp đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu để hoàn thành nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Suarez J.I (2006). Outcome in neurocritical care: Advances in monitoring and treatment and effect of a specialized neurocritical care team. Crit Care Med. 34, S232 - S238. 2. Vespa P.M (2005). Multimodality monitoring and telemonitoring in neurocritical care: From microdialysis to robotic telepresence. Curr Opin Crit Care. 11, 133 - 138. 3. Foundation Brain Trauma (2007). Guidelines for the management of severe traumatic brain injury. J Neurotrauma. 24, S1 – S106. 4. Lang E.W, Jaeger M (2013). Systematic and Comprehensive Literature Review of Publications on Direct Cerebral Oxygenation Monitoring. The Open Critical Care Medicine Journal. 6, 1 - 24. 5. Sahuquillo J, Amoros S., et al (2000). Does an increase in cerebral perfusion pressure always mean a better oxygenated brain? A study in head-injured patients. Acta Neurochir Suppl. 76, 457 - 462. 6. van den Brink W.A, Wimar A, van Santbrink (2000). Brain oxygen tension in severe head injury. Neurosurg. 46, 868 - 876. 7. Bardt T.F, Unterberg A.W., et al (1998). Monitoring of brain tissue PO2 in traumatic brain injury: effect of cerebral hypoxia on outcome. Acta Neurochir Suppl. 71, 153 - 156. 8. Littlejohns LR, Bader MK (2003). Brain tissue oxygen monitoring in severe brain injury, I: Research and usefulness in critical care. Crit Care Nurse. 23, 17 - 25. 9. Marin-Caballos A.J, Murillo- Cabezas F., et al (2005). Cerebral perfusion pressure and risk of brain hypoxia in severe head injury: a prospective observational study. Crit Care. 9, R670 - 676. 10. Stocchetti N, Chieregato A., et al (1998). High cerebral perfusion pressure improves low values of local brain tissue O2 tension (PtiO2) in focal lesions. Acta Neurochir Suppl. 71, 162 - 165. 11. Valadka A.B, Gopinath S.P (1998). Relationship of brain tissue PO2 to outcome after severe head injury. Crit Care Med. 26, 1576 - 1581. 12. Rohlwink U.K, Zwane E., et al (2012). The relationship between intracranial pressure TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 103 and brain oxygenation in children with severe traumatic brain injury. Neurosurgery. 70, 1220 - 30; discussion 1231. Summary RELATIONSHIP BETWEEN THE BRAIN TISSUE OXYGEN PRESSURE WITH INTRACRANIAL PRESSURE AND CEREBRAL PERFUSION PRESSURE IN PATIENTS WITH SEVERE TRAUMATIC BRAIN INJURY This study aims to analyze the relationship between brain tissue oxygen pressure with intracranial pressure and cerebral perfusion pressure in patients with severe traumatic brain injury. A neuromultimodal monitoring method was used to assess 41 patients including intracranial pressure; cerebral perfusion pressure, brain tissue oxygen pressure (Licox technique) and treated following a common protocol. The relationship was evaluated between brain tissue oxygen pressure versus intracranial pressure and cerebral perfusion pressure in the period of 5 days in all patients. Results showed that there is no strong correlation between the brain tissue oxygen pressure and the intracranial pressure and cerebral perfusion pressure during the all periods of monitoring. However, there is a strong relationship between brain tissue oxygen pressure and cerebral perfusion pressure in the deceased group (r = 0.79; p < 0.01); the correlation is also strong in the poor outcome group (r = 0.5, p < 0.01). Brain tissue oxygen pressure less than 10 mmHg lasting longer than 1 hour in the first 24 hours was associated with significant increased in mortality (80% in the deceased group vs 8.33% in survival group; p < 0.001). Conclusions: Brain tissue oxygen pressure correlated closely and positively with cerebral perfusion pressure in groups with poor outcome, particularly in the decease groups. Prolonged brain tissue hypoxia is associated with increased mortality rate. Keywords: brain tissue oxygen pressure, severe traumatic brain injury, intracranial pressure, cerebral perfusion pressure, relationship.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_moi_tuong_quan_giua_ap_luc_oxy_to_chuc_nao_voi_ap_l.pdf
Tài liệu liên quan