(i) Bản đồ nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất khu
vực Tây Nguyên tỷ lệ 1:250.000 được thành lập
trên cơ sở tích hợp bản đồ nguy cơ với bản đồ đối
tượng chịu tai biến nứt sụt đất bằng phân tích
không gian trong môi trường Hệ thông tin địa lý.
(ii) Trên cơ sở phân tích tổng hợp từ bản đồ
nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất khu vực Tây
Nguyên cho thấy, nguy cơ thiệt hại do tai biến nứt
sụt đất gây ra ở mức độ khác nhau phân bố không
giống nhau trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Vùng có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất rất cao và
cao chủ yếu phân bố dọc thung lũng sông Pô Cô,
sông Ba và sông Đồng Nai. Vùng có nguy cơ thiệt
hại do nứt sụt đất trung bình, thấp, rất thấp phân
bố rộng rãi trên địa bàn Tây Nguyên.
(iii) Những vùng có nguy cơ thiệt hại cao cần
được chú trọng phòng tránh: các huyện Đắk Glây,
Ngọc Hồi, Đắk Tô, Đắk Hà và thành phố Kon
Tum (tỉnh Kon Tum); các huyện Đắk Đoa, An
Khê, Chư Prông, Ayun, Ia Pa, Krông Pa và thành
phố Pleiku (tỉnh Gia Lai); Cư Mgar, thành phố
Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk); huyện Đa Rlấp và
thị xã Gia Nghĩa (tỉnh Đắk Nông), các huyện Di
Linh, Đức Trọng, thị xã Bảo Lộc và thành phố Đà
Lạt (tỉnh Lâm Đồng).
(iv) Kết quả đánh giá nguy cơ thiệt hại do nứt
sụt đất ở Tây nguyên là những cứ liệu thực tế cho
các nhà khoa học, quản lý, hoạch định chính sách
của nhiều bộ, ngành và các cấp chính quyền địa
phương trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ môi trường. Xây dựng mở mang đô
thị, thị trấn, cụm dân cư, các công trình kinh tế dân
sinh là xu thế tất yếu đối với các tỉnh Tây Nguyên.
Trong điều kiện có thể, nên hạn chế tối đa việc mở
mang xây dựng ở các khu vực có nguy cơ tai biến
cao và rất cao; xây dựng phải kết hợp chặt chẽ với
áp dụng đồng thời các giải pháp phòng tránh tai
biến đã được dự báo
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 638 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất gây ra ở khu vực Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 37 (2), 148-155
148
(VAST)
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất
Website:
Đánh giá nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất gây ra ở khu vực
Tây Nguyên
Phạm Văn Hùng*, Nguyễn Xuân Huyên
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 3 - 10 - 2014
Chấp nhận đăng: 10 - 4 - 2015
ABSTRACT
The risk assessment of loss due to landslides-cracks in the Tay Nguyen
This work presents the initial results of the risk assessment of damage due to landslides caused cracks in the Tay Nguyen.
Map damage risk Tay Nguyen area is built on the basis of integrated risk maps with maps cracked landslides hazard level under
the socio-economic objects with spatial analysis in GIS. On the basis of analysis of synthetic risk maps for damage caused by
landslides cracked Tay Nguyen region showed that the risk of damage due to accidents caused landslides cracked moderate - high.
On the Tay Nguyen provinces, the risk level of damage caused by landslides crack distribution are very different. Area at risk of
damage from landslides is very high and cracking high 21% area of the Tay Nguyen provinces, mainly along the Po river valley,
river, Dong Nai and Ba River. Area at risk of damage from landslides cracked average accounted for 29% of the area of the Tay
Nguyen; widely distributed in many parts of the Tay Nguyen region. Area at risk of damage caused by low soil cracks and very low
loss accounted for 49,7% of the Tay Nguyen.
Areas with high risk and very high damage of cities of Kon Tum, Pleiku, Buon Ma Thuot, Da Lat and Gia Nghĩa, towls of the
district of Dak Glay, Ngoc Hoi, Dak To, Dak Ha, Ayun Pa, Krong Pa, An Khe, Duc Co, Chu Se, M'Drak, Krong Pak, Dak Lap, Don
Duong, Bao Loc,... in the area above the local planning should be used rational use of territory and reasonable solution to prevent
cracking landslides.
©2015 Vietnam Academy of Science and Technology
1. Mở đầu
Khu vực Tây Nguyên nằm trong vùng có điều
kiện tự nhiên rất phức tạp, hàng năm phải hứng
chịu những tổn thất không nhỏ do tai biến địa chất
gây ra; đặc biệt là nứt sụt đất (NSĐ) đang có xu
hướng ngày một gia tăng cả về quy mô và tần suất
xuất hiện, để lại những hậu quả nặng nề cho cuộc
sống của người dân. Dân cư phân bố tập trung ở
các thị trấn và dọc theo các trục đường giao thông
Tác giả liên hệ, Email: phamvanhungvdc@gmail.com
liên huyện, tỉnh, Tai biến địa chất nói chung,
NSĐ nói riêng có nguy cơ thiệt hại lớn ở một số
địa phương, ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch
phát triển bền vững kinh tế - xã hội (KT-XH) và
bảo vệ môi trường. Do vậy, nghiên cứu tai biến địa
chất nói chung, NSĐ nói riêng, nghiên cứu đánh
giá nguy cơ thiệt hại do NSĐ gây ra là một trong
những nội dung quan trọng, làm cơ sở khoa học
phục vụ quản lý tai biến địa chất, phòng tránh
giảm nhẹ thiệt hại do tai biến gây nên.
Trên khu vực Tây Nguyên, trong thời gian vừa
qua, các tai biến địa chất, đặc biệt là nứt sụt đất
P.V. Hùng và N.X. Huyên/Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, Tập 37 (2015)
149
diễn ra bất thường, khó kiểm soát, đã gây nên
những tổn thất không những về vật chất, mà cả
tinh thần của người dân địa phương. Ví dụ như: tai
biến NSĐ đã phá hủy cả doanh trại của Trung đoàn
28, Sư đoàn 10 - Quân đoàn 3 đóng quân trên địa
bàn xã Hoà Bình (thành phố Kon Tum), phá hủy
hàng trăm hecta cây cà phê, hàng chục ngôi nhà ở
Pleiku, Tuy Đức, Đắk Rlấp, Bảo Lâm, Di Dinh,...
Trong thời gian qua đã có một số công trình
nghiên cứu, đánh giá tai biến NSĐ ở nước ta trong
đó có khu vực Tây Nguyên (P.V. Hùng, 2013;
N.T. Yêm, 2006). Phần lớn các công trình khoa
học mới đi sâu đánh giá về nguy cơ và thống kê
một số thiệt hại do tai biến NSĐ gây nên. Cho đến
nay, ở khu vực Tây Nguyên chưa có công trình
nào nghiên cứu dự báo, khoanh vùng nguy cơ thiệt
hại do tai biến NSĐ gây nên làm cơ sở cho quản lý
tai biến và phòng chống giảm nhẹ thiên tai. Công
trình này trình bầy những kết quả nghiên cứu bước
đầu về đánh giá nguy cơ thiệt hại do tai biến nứt
sụt đất gây ra ở Tây Nguyên; một phần kết quả
nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước:
“Nghiên cứu một số dạng tai biến địa chất điển
hình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu vực
Tây Nguyên” mang mã số TN3/T04 do TS.
Nguyễn Xuân Huyên làm chủ nhiệm, Viện Địa
chất là cơ quan chủ trì.
2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Các tài liệu sử dụng để đánh giá nguy cơ thiệt
hại do tai biến NSĐ gây ra bao gồm bản đồ nguy
cơ tai biến NSĐ (H) và bản đồ mức độ chịu tai
biến của các đối tượng KT-XH (V). Bản đồ nguy
cơ NSĐ khu vực Tây Nguyên đã được thành lập
năm 2013 tỷ lệ 1:250.000 (P.V. Hùng, 2013). Các
đối tượng chịu tai biến NSĐ ở khu vực Tây
Nguyên rất phức tạp, được đưa vào để đánh giá
nguy cơ thiệt hại (R) bao gồm: dân cư, các công
trình kinh tế dân sinh, các công trình giao thông,
thủy lợi, thủy điện và tài nguyên đất đai. Trên cơ
sở tài liệu quy hoạch phát triển KT-XH các tỉnh
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt cho phép đánh giá nguy cơ thiệt hại do
NSĐ gây ra ở khu vực Tây Nguyên.
Để đánh giá nguy cơ thiệt hại do NSĐ gây ra,
các phương pháp áp dụng bao gồm: phân tích ảnh
viễn thám, khảo sát thực địa, phân tích tổng hợp,
phân tích đánh giá tai biến (so sánh cặp AHP của
Saaty, 1994) và phân tích không gian trong môi
trường GIS. Bản đồ mức độ chịu tai biến của các
đối tượng được xây dựng dựa trên phân tích đánh
giá vai trò của các đối tượng chịu tai biến NSĐ và
được tính theo công thức sau:
V =
n
j
wj
1
m
i
Xij
1
Trong đó: V - là chỉ số mức độ chịu tai biến nứt
sụt đất của các đối tượng, Wj - là trọng số của các
đối tượng thứ j, Xij - là giá trị của lớp thứ i trong đối
tượng chịu tai biến j.
Việc tích hợp thông tin trong môi trường GIS
với phương pháp phân tích đa biến đã cho phép
xây dựng bản đồ mức độ chịu tai biến do NSĐ gây
nên trên địa bàn khu vực Tây Nguyên. Bản đồ
nguy cơ thiệt hại (R) được thành lập trên cơ sở tích
hợp thông tin từ các bản đồ nguy cơ tai biến (H) và
bản đồ mức độ chịu tai biến của các đối tượng chịu
tai biến (V). Như vậy, bản đồ nguy cơ thiệt hại
được thành lập theo công thức sau (Природные
опасности России, Т3, 2002; T6, 2003):
R = V * H = f (nguy cơ tai biến, đối tượng chịu
tai biến) =
n
ji
XiYj
1,
Trong đó: R là bản đồ nguy cơ thiệt hại, V là
bản đồ mức độ chịu tai biến của các đối tượng KT-
XH, H là bản đồ nguy cơ tai biến, X là điểm số cấp
nguy cơ tai biến i, Y là điểm số của cấp chịu tai
biến j.
Phương pháp đánh giá nguy cơ thiệt hại đã
được đề cập đến trong các công trình khoa học trên
thế giới và Việt Nam (L.M. Đích, 2001; N.T. Yêm,
2006; Природные опасности России, Т3, 2002;
T6, 2003). Tuy nhiên, ở nước ta còn là vấn đề khó,
bởi những bất cập chính trong việc xác định giá trị
bằng tiền của các đối tượng chịu tai biến; cũng
đồng thời là những số liệu thống kê sử dụng để
đánh giá nguy cơ thiệt hại luôn biến động khá
phức tạp. Do đó, những kết quả đánh giá nguy cơ
thiệt hại do tai biến gây ra của những công trình
nghiên cứu trước đây còn mang tính định tính.
Việc tính toán giá trị các đối tượng chịu tai biến
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 37 (2), 146-155
150
bằng tiền rất khó khăn, mặt khác lại luôn biến
động. Vì vậy, trong đánh giá nguy cơ thiệt hại,
việc xác định vai trò của từng đối tượng KT-XH ở
địa phương mới dừng ở mức độ: coi con người là
tài sản vô giá, không thể tính được bằng tiền và là
đối tượng quan trọng nhất. Do vậy, mật độ dân cư
là đối tượng chịu tai biến quan trọng nhất, tiếp đến
là công trình kinh tế dân sinh (tài sản của nhà nước
và nhân dân), Trong công trình này, tập thể tác
giả đánh giá nguy cơ thiệt hại do NSĐ gây ra trên
cơ sở những dữ liệu KT-XH hiện có, cập nhật
trong thời gian gần đây và bước đầu được định
lượng hoá.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Xây dựng bản đồ nguy cơ thiệt hại do nứt sụt
đất gây nên
Trên cơ sở xem xét tổng hợp các họat động
KT-XH ở địa phương cho thấy, ở khu vực Tây
Nguyên có 4 đối tượng chịu tai biến đưa vào đánh
giá. Dân cư và các công trình kinh tế dân sinh bao
gồm: các cụm dân cư sống ở các thị trấn, dọc các
đường quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện, liên xã, liên
thôn, các cụm dân cư sống dọc các sông suối, trên
các sườn núi ở vùng miền núi. Các công trình xây
dựng dân dụng bao gồm: nhà ở, các công trình
công cộng trong khu vực như trường học, chợ,
bệnh viện, trạm xá, trụ sở các cơ quan hành chính;
các khu vực khai thác khoáng sản, khu công
nghiệp,... đều là những đối tượng chịu của tai biến
NSĐ. Nguy cơ thiệt hại sẽ càng cao khi mật độ
công trình càng lớn. Nguy cơ thiệt hại về vật chất
và con người sẽ còn lớn hơn khi ở đây đang có
những hoạt động đông người. Nhóm công trình
giao thông bao gồm: các quốc lộ, tỉnh lộ, các
đường liên huyện, liên xã, liên thôn. Các công
trình thuỷ điện, thủy lợi, kênh mương tưới tiêu và
các công trình phụ trợ phục vụ cho thủy điện, thủy
lợi như: nhà xưởng, kho bãi, trạm bơm, kênh
mương, Tài nguyên rừng gồm: rừng tự nhiên,
rừng bảo tồn, rừng đầu nguồn, rừng trồng, rừng
sản xuất, khoanh nuôi; đất gồm: đất dân cư, đất sản
xuất nông nghiệp (trồng lúa, hoa màu, cây nông
nghiệp khác). Đánh giá mức độ chịu tai biến nứt
sụt đất còn được dựa trên cơ sở hiện trạng phát
triển KT-XH của địa phương. Những đối tượng
KT-XH đã được cập nhật theo các số liệu thống kê
có thể được đến thời gian hiện nay. Trong đó, đáng
chú ý nhất chính là yếu tố con người và công trình
kinh tế dân sinh.
Mật độ dân số được coi là đối tượng quan trọng
nhất đối với tai biến NSĐ, cho 9 điểm. Bởi lẽ con
người là đối tượng nhạy cảm nhất trong các đối
tượng chịu tác động của tai biến NSĐ. Mức độ
thiệt hại về người không thể tính bằng vật chất như
những đối tượng khác, song về mặt xã hội lại là
những tổn thất không thể bù đắp nổi. Khi mật độ
dân cư càng cao thì khả năng chịu tai biến càng
kém, ngược lại, mật độ dân số càng thấp thì khả
năng chịu tai biến càng tốt. Trên khu vực Tây
Nguyên phân bố 5 cấp mật độ dân số khác nhau:
Cấp mật độ dân số rất lớn (>200 người/km2) phân
bố ở các thành phố, thị trấn huyện. Cấp mật độ dân
cư lớn (từ 100 đến 200 người/km2) phân bố ở các
huyện bao quanh các thành phố, thị xã và thị trấn.
Mật độ dân số trung bình (từ 50 đến 100
người/km2) phân bố ở các huyện xa thành phố, thị
xã. Mật độ dân số thấp (25-50 người/km2) và rất
thấp (<25 người/km2) phân bố rộng rãi trong khu
vực nghiên cứu. Điểm cho các cấp mật độ dân
số theo khả năng chịu tai biến: rất tốt (<25
người/km2) - 1, tốt (25-50) - 3, trung bình (50-100)
- 5, kém (100-200) - 7, rất kém (>200) - 9.
Nhóm các công trình giao thông, bao gồm các
đường quốc lộ, tỉnh lộ và các tuyến đường liên
huyện, liên xã, liên thôn bản được đánh giá là đối
tượng chịu tai biến NSĐ thứ 2 và cho 5 điểm. Mức
độ chịu tai biến NSĐ thể hiện ở mật độ giao thông.
Mật độ giao thông càng lớn thì mức độ chịu tai
biến NSĐ càng kém. Trên khu vực Tây Nguyên,
mật độ giao thông được chia thành 5 cấp: rất lớn
(>1,891 km.km2), lớn (1264-1891 km/km2), trung
bình (0,846-1264 km/km2), nhỏ (0,428-0,846
km/km2) và rất nhỏ (<0,428 km/km2). Điểm cuả
các cấp mật độ giao thông chịu tai biến NSĐ tương
ứng: rất kém - 9, kém - 7, trung bình - 5, tốt - 3, rất
tốt - 1.
Nhóm đối tượng tài nguyên đất (đất đã và đang
được sử dụng) bao gồm: đất dân cư, đất sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp và rừng tự nhiên, rừng
bảo tồn đầu nguồn. Vai trò của sử dụng đất trong
phát triển KT-XH ở địa phương được đánh giá là
đối tượng chịu tai biến thứ 3 và cho 1 điểm. Đối
P.V. Hùng và N.X. Huyên/Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, Tập 37 (2015)
151
tượng này cũng được phân chia thành 5 cấp: rất
lớn, lớn, trung bình, nhỏ và rất nhỏ. Cấp độ rất lớn
là những nơi phân bố đất dân cư phục vụ cho làm
nhà ở, các công trình dân sinh như: trạm xá, trường
học, bệnh viện và trụ sở UBND thành phố, huyện,
thị xã. Cấp độ lớn là đất sản xuất nông nghiệp,
trồng cây lương thực phục vụ trực tiếp đời sống
của cư dân địa phương như: đất trồng lúa, hoa
màu, cây công nghiệp thuộc loại lớn. Đây chính là
nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm chính cho
đời sống của cư dân địa phương. Cấp độ trung
bình là những diện tích đất rừng trồng, khoanh
nuôi, rừng sản xuất. Đây cũng là nguồn thu chính
của cư dân địa phương. Cấp độ nhỏ và rất nhỏ là
đất rừng tái sinh, rừng tự nhiên và rừng đầu nguồn.
Khả năng chống chịu tai biến của các loại đất
tương ứng là rất kém, kém, trung bình, tốt và rất
tốt. Điểm cho các cấp độ chịu tai biến NSĐ của đối
tượng này ở khu vực Tây Nguyên tương ứng là 9,
7, 5, 3, 1.
Trên cơ sở 3 đối tượng chịu tai biến NSĐ nêu
trên, áp dụng phương pháp phân tích so sánh cặp
thông minh đã cho phép xác lập ma trận so sánh
cặp các đối tượng chịu tai biến và từ đó tính trọng
số của chúng (bảng 1).
Bảng 1. Ma trận so sánh cặp các đối tượng chịu tai biến NSĐ
Các đối tượng
Tài nguyên
đất
Công trình
giao thông
Dân cư
Tài nguyên đất (1) 1 5,000 9,000
Công trình giao thông (5) 0,200 1 1,800
Dân cư (9) 0,111 0,556 1
Trọng số của các đối tượng chịu tai biến được
xác định trên cơ sở đánh giá vai trò của từng nhóm
đối tượng chịu tai biến và cho điểm. Vai trò của
từng đối tượng chịu tai biến chính là độ lớn, hay
vai trò của chúng đối với đời sống KT-XH ở địa
phương. Khả năng chống chịu tai biến kém hay tốt
chính là nhờ vào vai trò này của chúng trong đời
sống KT-XH. Trọng số của các đối tượng được
gán theo thứ tự tầm quan trọng của từng đối tượng
trên cơ sở giải ma trận tương quan so sánh cặp
giữa 3 đối tượng chịu tai biến nêu trên. Trọng số
của các đối tượng chịu tai biến NSĐ: dân cư là
0,600, công trình giao thông là 0,333 và đất sử
dụng là 0,067. Bản đồ khả năng chống chịu tai
biến (V) (hình 1) được xây dựng trên cơ sở tích
hợp các bản đồ đối tượng chịu tai biến thành phần
bằng phép phân tích không gian trong môi trường
GIS. Như vậy, bản đồ khả năng chống chịu tai biến
của các đối tượng (V) được xây dựng trên cơ sở tích
hợp 3 bản đồ đối tượng chịu tai biến thành phần (3
bản đồ khả năng chống chịu tai biến của các đối
tượng KT-XH chịu tai biến NSĐ): bản đồ khả năng
chống chịu tai biến của đối tượng dân cư, bản đồ
khả năng chống chịu tai biến của đối tượng giao
thông và bản đồ khả năng chống chịu tai biến của
đối tượng tài nguyên đất. Bản đồ khả năng chống
chịu tai biến NSĐ của các đối tượng được xây dựng
theo công thức sau:
V = 0,600 x Bđ_Dc + 0,333 x Bđ_Ctrgt + 0,067
x Bđ_Tngđ.
Trong đó: V- Bản đồ khả năng chống chịu tai
biến của các đối tượng KT-XH, Bđ_Dc là bản đồ
khả năng chống chịu tai biến NSĐ của đối tượng
mật độ dân số, Bđ_Ctrgt là bản đồ khả năng chống
chịu tai biến NSĐ của đối tượng mật độ đường
giao thông và Bđ_Tngđ là bản đồ khả năng chống
chịu tai biến NSĐ của đối tượng tài nguyên đất
(đất sử dụng).
Hình 1. Bản đồ khả năng chống chịu tai biến nứt sụt đất
khu vực Tây Nguyên
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 37 (2), 146-155
152
Bản đồ nguy cơ thiệt hại khu vực Tây Nguyên
được tích hợp từ bản đồ khả năng chống chịu tai
biến của các đối tượng KT-XH (hình 1) với bản đồ
nguy cơ NSĐ (hình 2) thông qua công cụ GIS theo
ma trận sau (bảng 2).
Bản đồ nguy cơ thiệt hại do NSĐ khu vực Tây
Nguyên tỷ lệ 1:250.000 thể hiện ở 5 cấp nguy cơ
khác nhau: rất thấp, thấp, trung bình, cao và rất cao
(hình 3).
Hình 2. Bản đồ nguy cơ nứt sụt đất khu vực Tây Nguyên
Bảng 2. Ma trận đánh giá nguy cơ thiệt hại do tai biến nứt sụt
đất gây ra
Khả năng chống chịu TB
Nguy cơ NSĐ
Tốt Trung bình Kém
Rất thấp RT RT T
Thấp T T T
Trung bình T TB TB
Cao TB C C
Rất cao C C RC
Chú thích: Cấp nguy cơ thiệt hại RT - Rất thấp; T - Thấp;
Trung bình - TB; C - Cao; RC - Rất cao
Hình 3. Bản đồ nguy cơ thiệt hại do tai biến nứt sụt đất gây ra ở
khu vực Tây nguyên
3.2. Đánh giá nguy cơ thiệt hại ở các tỉnh
Tây Nguyên
Các tỉnh Tây Nguyên nằm ở vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung và Tây Nguyên, có diện tích
rộng khoảng 54.577km2 với dân số 4.101.000
người phân bố tập trung ở các thành phố, thị xã,
trung tâm huyện lỵ. Kết quả khoanh vùng nguy cơ
thiệt hại do nứt sụt đất gây ra cho thấy, phần lớn
diện tích các tỉnh lỵ, huyện lỵ có nguy cơ thiệt hại
ở cấp trung bình và cao (khoảng 49%). Cấp nguy
cơ thiệt hại rất thấp chiếm 30% diện tích của Tây
Nguyên. Do vậy, các trung tâm huyện lỵ, tỉnh lỵ có
nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất ở mức độ trung
bình - cao. Kết quả thống kê nguy cơ thiệt hại theo
từng cấp thể hiện ở bảng 3, hình 4.
Bảng 3. Thống kê diện tích theo cấp nguy cơ thiệt hại
khu vực Tây Nguyên
Cấp nguy cơ thiệt hại Diện tích (km2) Phần trăm
Rất cao 557 1,0
Cao 11080 20,3
Trung bình 15830 29,0
Thấp 10780 19,7
Rất thấp 16330 30,0
P.V. Hùng và N.X. Huyên/Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, Tập 37 (2015)
153
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
18000
Diện tích (km2)
Rất cao Cao Trung
bình
Thấp Rất thấp
Cấp nguy cơ thiệt hại
Hình 4. Biểu đồ nguy cơ thiệt hại khu vực Tây Nguyên
Vùng có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất rất cao
rộng 557km2, chiếm 1% diện tích của các tỉnh Tây
Nguyên. Vùng có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất
cao rộng 11080km2, chiếm 20,3% diện tích của các
tỉnh Tây Nguyên. Các vùng có nguy cơ thiệt hại
cao và rất cao phân bố thành những dải kéo dài
theo phương á kinh tuyến và á vỹ tuyến, TB-ĐN
và ĐB-TN. Vùng có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt
đất trung bình rộng 15830km2, chiếm 29% diện
tích của các tỉnh Tây Nguyên; phân bố rộng rãi ở
nhiều nơi ở các tỉnh Tây Nguyên. Vùng có nguy
cơ thiệt hại do nứt sụt đất thấp rộng 10780km2,
chiếm 19,7% diện tích các tỉnh Tây Nguyên. Vùng
có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất rất thấp
rộng 16330km2, chiếm 30% diện tích các tỉnh
Tây Nguyên.
Những khu vực có nguy cơ thiệt hại cao và rất
cao cần quan tâm là các tỉnh lỵ Kon Tum, Pleiku,
Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa và Đà Lạt; các huyện
lỵ của các huyện Đắk Glây, Ngọc Hồi, Đắk Tô,
Đắk Hà, Ayun Pa, Krông Pa, An Khê, Đức Cơ,
Chư Sê, M’Đrắk, Krông Pắk, Đắk R’lâp, Đơn
Dương, Bảo Lộc, Trên địa bàn những địa
phương kể trên cần phải có quy hoạch sử dụng đất
và giải pháp hợp lý phòng tránh nứt sụt đất.
Nguy cơ thiệt hại do NSĐ ở các tỉnh: Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng
cũng khác nhau. Kết quả phân tích thống kê nguy
cơ thiệt hại cho từng tỉnh ở Tây Nguyên cho thấy,
mỗi tỉnh có các cấp độ nguy cơ thiệt hại ở mức độ
khác nhau về diện tích và sự phân bố theo không
gian. Cấp nguy cơ thiệt hại rất cao chỉ phân bố ở
các tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Nông, tuy
nhiên cũng chỉ chiếm phần diện tích rất nhỏ,
không đáng kể so với diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Trong mỗi tỉnh cũng có những vùng có nguy cơ
cao và rất cao cần đặc biệt quan tâm khi quy hoạch
phát triển bền vững KT-XH và bảo vệ môi trường
(bảng 4).
Bảng 4. Thống kê diện tích theo cấp nguy cơ thiệt hại từng tỉnh Tây Nguyên (km2)
Cấp nguy cơ
Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng
Diện tích Phần trăm Diện tích Phần trăm Diện tích Phần trăm Diện tích Phần trăm Diện tích Diện tích
Rất cao 115 1 363,8 2 0 0 76,39 1 0 0
Cao 2966 31 4468 29 875,9 7 918,9 14 1852 19
Trung bình 2801 29 5275 34 3330 25 1250 19 3177 32
Thấp 1790 19 2146 14 3500 27 1402 22 1944 20
Rất thấp 1988 20 3302 21 5367 41 2853 44 2823 29
Tỉnh Kon Tum là nơi đang được đầu tư lớn cho
xây dựng hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiều nhà máy thủy điện, khu kinh tế và khu tập
trung dân cư mọc lên. Hệ thống đường giao thông
được xây dựng mới và mở mang. Quá trình nứt sụt
đất xảy ra khá mạnh mẽ, do đó nguy cơ thiệt hại ở
mức độ cao. Tỉnh Kon Tum có diện tích khoảng
9660 km2. Vùng có nguy cơ thiệt hai do NSĐ rất
cao rộng 115km2, chỉ chiếm phần rất nhỏ, không
đáng kể (1%) diện tích của tỉnh và phân bố rải rác
ở các huyện thị và thành phố Kon Tum, Đắk Hà,
Đắk Tô,... Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ cao
rộng 2966km2, chiếm 31% diện tích của tỉnh; phân
bố ở thị trấn huyện Ngọc Hồi, Đắk Tô, Đắk Hà và
thành phố Kon Tum. Vùng có nguy cơ thiệt hại do
NSĐ trung bình rộng 2801km2, chiếm 29% diện
tích của tỉnh; phân bố ở hầu khắp các thị trấn, xã
trong các huyện của tỉnh. Vùng có nguy cơ thiệt
hại do NSĐ thấp rộng 1790km2, chiếm 19% diện
tích của tỉnh; phân bố rộng rãi ở các huyện trong
tỉnh. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ rất thấp
rộng 1988km2, chiếm 20% diện tích của tỉnh; phân
bố rải rác ở các huyện miền núi của tỉnh: Kon
Plông, Sa Thầy.
Tỉnh Gia Lai là nơi đã và đang được đầu tư lớn
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 37 (2), 146-155
154
cho phát triển kinh tế - xã hội; tai biến NSĐ xảy ra
mạnh mẽ, do đó nguy cơ thiệt hại ở mức độ cao.
Tỉnh Gia Lai có diện tích khoảng 15.554 km2.
Phần lớn diện tích trong tỉnh ở mức độ nguy cơ
thiệt hại từ trung bình đến cao và rất cao. Vùng có
nguy cơ thiệt hại do NSĐ rất cao rộng 363,8km2,
chỉ chiếm phần rất nhỏ, không đáng kể (2%) diện
tích của tỉnh và phân bố rải rác ở các huyện thị và
thành phố Gia Lai, Măng Giang, Chư Sê, Ayun Pa,
Krong Pa,... Vùng có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt
đất cao rộng 2966km2, chiếm 31% diện tích của
tỉnh; phân bố ở thị trấn các huyện Măng Giang,
Ayun Pa, Krông Pa, Chư Pah, Chư Prông và thành
phố Pleiku. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ
trung bình rộng 2801km2, chiếm 29% diện tích của
tỉnh; phân bố ở hầu khắp các thị trấn, xã trong các
huyện của tỉnh. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ
thấp rộng 1790km2, chiếm 19% diện tích của tỉnh;
phân bố rộng rãi ở các huyện trong tỉnh. Vùng có
nguy cơ thiệt hại do NSĐ rất thấp rộng 1988km2,
chiếm 20% diện tích của tỉnh; phân bố rải rác ở các
huyện miền núi của tỉnh: Chư Pah, Đăk Đoa, An
khê, Chư Prông,...
Tỉnh Đắk Lắk là nơi đang được đầu tư lớn cho
phát triển nông nghiệp và chế biến nông sản. Quá
trình nứt sụt đất xảy ra khá mạnh mẽ, nhưng nguy
cơ thiệt hại ở mức độ trung bình. Tỉnh Đắk Lắk có
diện tích khoảng 13.072,9 km2. Phần lớn diện tích
trong tỉnh ở mức độ nguy cơ thiệt hại từ trung bình
đến thấp. Trên địa bàn tỉnh không có vùng nguy cơ
thiệt hai do NSĐ rất cao. Vùng có nguy cơ thiệt
hại do nứt sụt đất cao rộng 875,9km2, chiếm 7%
diện tích của tỉnh; phân bố ở các huyện lỵ Krông
Năng, MĐrắk. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ
trung bình rộng 3330km2, chiếm 25% diện tích của
tỉnh; phân bố ở hầu khắp các thị trấn huyện lỵ,
thành phố Buôn Mê Thuột. Vùng có nguy cơ thiệt
hại do NSĐ thấp rộng 3500km2, chiếm 27% diện
tích của tỉnh; phân bố rộng rãi ở các huyện trong
tỉnh. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ rất thấp
rộng 5367km2, chiếm 41% diện tích của tỉnh; phân
bố rải rác ở các huyện miền núi của tỉnh Đắk Lắk.
Tỉnh Đắk Nông là tỉnh mới được chia tách, do vậy
hạ tầng cơ sở cũng như đầu tư lớn cho xây dựng và
phát triển kinh tế đang được quan tâm. Tuy quá
trình nứt sụt đất xảy ra mạnh mẽ, nhưng nguy cơ
thiệt hại cao và rất cao chỉ chiếm phần diện tích rất
nhỏ. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ rất cao
rộng 76,39km2, chỉ chiếm phần rất nhỏ, không
đáng kể (1%) diện tích của tỉnh và phân bố rải rác
ở các huyện thị và thị xã Gia Nghĩa. Vùng có nguy
cơ thiệt hại do nứt sụt đất cao rộng 918,9km2,
chiếm 14% diện tích của tỉnh; phân bố ở thị trấn
các huyện Tuy Đức, Đắk Song, Đắk Glong. Vùng
có nguy cơ thiệt hại do NSĐ trung bình rộng
1250km2, chiếm 19% diện tích của tỉnh; phân bố ở
hầu khắp các thị trấn, xã trong các huyện của tỉnh.
Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ thấp rộng
1402km2, chiếm 22% diện tích của tỉnh; phân bố
rộng rãi ở các huyện trong tỉnh. Vùng có nguy cơ
thiệt hại do NSĐ rất thấp rộng 2853km2, chiếm
44% diện tích của tỉnh; phân bố rải rác ở các huyện
của tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, nguy cơ thiệt hại
do NSĐ ở mức độ trung bình. Tỉnh Lâm Đồng có
diện tích khoảng 9796km2. Phần lớn diện tích
trong tỉnh ở mức độ nguy cơ thiệt hại từ trung
bình. Vùng có nguy cơ thiệt hai do NSĐ cao rộng
1852km2, chiếm 19% diện tích của tỉnh; phân bố ở
thị trấn các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Di
Linh, Bảo Lộc, Lâm Hà, Đức Trọng, Bảo Lâm và
thành phố Đà Lạt. Vùng có nguy cơ thiệt hại do
NSĐ trung bình rộng 3177km2, chiếm 32% diện
tích của tỉnh; phân bố ở hầu khắp các thị trấn, xã
trong các huyện của tỉnh. Vùng có nguy cơ thiệt
hại do NSĐ thấp rộng 1944km2, chiếm 20% diện
tích của tỉnh; phân bố rộng rãi ở các huyện trong
tỉnh. Vùng có nguy cơ thiệt hại do NSĐ rất thấp
rộng 2823km2, chiếm 29% diện tích của tỉnh; phân
bố rải rác ở các huyện miền núi của tỉnh: Đam
Rông, Lâm Hà, Đa Hoai, Cát Tiên,...
4. Kết luận
(i) Bản đồ nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất khu
vực Tây Nguyên tỷ lệ 1:250.000 được thành lập
trên cơ sở tích hợp bản đồ nguy cơ với bản đồ đối
tượng chịu tai biến nứt sụt đất bằng phân tích
không gian trong môi trường Hệ thông tin địa lý.
(ii) Trên cơ sở phân tích tổng hợp từ bản đồ
nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất khu vực Tây
Nguyên cho thấy, nguy cơ thiệt hại do tai biến nứt
sụt đất gây ra ở mức độ khác nhau phân bố không
giống nhau trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Vùng có nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất rất cao và
cao chủ yếu phân bố dọc thung lũng sông Pô Cô,
sông Ba và sông Đồng Nai. Vùng có nguy cơ thiệt
hại do nứt sụt đất trung bình, thấp, rất thấp phân
bố rộng rãi trên địa bàn Tây Nguyên.
P.V. Hùng và N.X. Huyên/Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, Tập 37 (2015)
155
(iii) Những vùng có nguy cơ thiệt hại cao cần
được chú trọng phòng tránh: các huyện Đắk Glây,
Ngọc Hồi, Đắk Tô, Đắk Hà và thành phố Kon
Tum (tỉnh Kon Tum); các huyện Đắk Đoa, An
Khê, Chư Prông, Ayun, Ia Pa, Krông Pa và thành
phố Pleiku (tỉnh Gia Lai); Cư Mgar, thành phố
Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk); huyện Đa Rlấp và
thị xã Gia Nghĩa (tỉnh Đắk Nông), các huyện Di
Linh, Đức Trọng, thị xã Bảo Lộc và thành phố Đà
Lạt (tỉnh Lâm Đồng).
(iv) Kết quả đánh giá nguy cơ thiệt hại do nứt
sụt đất ở Tây nguyên là những cứ liệu thực tế cho
các nhà khoa học, quản lý, hoạch định chính sách
của nhiều bộ, ngành và các cấp chính quyền địa
phương trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ môi trường. Xây dựng mở mang đô
thị, thị trấn, cụm dân cư, các công trình kinh tế dân
sinh là xu thế tất yếu đối với các tỉnh Tây Nguyên.
Trong điều kiện có thể, nên hạn chế tối đa việc mở
mang xây dựng ở các khu vực có nguy cơ tai biến
cao và rất cao; xây dựng phải kết hợp chặt chẽ với
áp dụng đồng thời các giải pháp phòng tránh tai
biến đã được dự báo.
(v) Cần đầu tư tăng cường mạng lưới dự báo tai
biến, đặc biệt là các tai biến bất thường như nứt sụt
đất. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị, hệ thống xử lý
thông tin. Thiết lập các hệ thống cảnh báo tiên tiến
cũng như các công tác cứu hộ, cứu nạn nhằm giảm
thiểu thiệt hại do tai biến gây ra. Đối với các khu
dân cư, tai biến diễn ra phức tạp, nguy hiểm, phải
kiên quyết di dời dân đến nơi ở mới an toàn hơn.
Tài liệu dẫn
Lê Mục Đích, 2001: Kinh nghiệm phòng tránh và kiểm soát
tai biến địa chất. Nxb. Xây Dựng, Hà Nội (dịch từ tiếng
Trung Quốc).
Phạm Văn Hùng, Nguyễn Văn Dũng, 2013: Nghiên cứu đánh
giá hiện trạng và cảnh báo nguy cơ nứt sụt đất ở khu vực
Tây Nguyên. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, T.35, (3),
tr.219-229.
Nguyễn Trọng Yêm và nnk, 2006: Nghiên cứu xây dựng bản đồ
tai biến môi trường tự nhiên lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo
tổng kết Đề tài cấp Nhà nước, mã số KC-08-01, lưu trữ
Viện Địa chất, Hà Nội.
Saaty, Thomas L. 1994: Fundamentals of decision making and
priority theory with analytic hierarchy process. Pittsburgh:
RWS publications, 527 p.
Природные опасности России, Т3, Эндогенные
геологические опасности, КРУК, М, 2002.
Природные опасности России, Т6, Оценка и Управление
природными рисками, КРУК, М, 2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7370_27017_1_pb_8506_2100677.pdf