Đánh giá phân số dự trữ lưu lượng vành (FFR) ở những bệnh nhân hẹp động mạch vành mức độ trung bình tại bệnh viện Hữu Nghị

KẾT LUẬN 1. Phân số dự trữ lưu lượng vành (FFR) ở bệnh nhân tổn thương động mạch vành mức độ trung bình trên phim chụp DsA: FFR có vai trò quan trọng trong việc chỉ định can thiệp. • Giá trị FFR trung bình của 45 tổn thương là 0,77 ± 0,16. Giá trị FFR thấp nhất là 0,46; cao nhất là 0,98. • Tổn thương hẹp động mạch vành trung bình có FFR < 0.8 là 42,22 % (19/ 45 tổn thương), có FFR > 0.8 là 57,78 % (26/45 tổn thương). • Tỷ lệ hẹp ĐMV có ảnh hưởng huyết động là 30,6% (19/62 trường hợp), tỷ lệ hẹp không ảnh hưởng đến huyết động là 69,4% (43/62 trường hợp). • Khảo sát FFR giúp trì hoãn can thiệp 19% so với chụp động mạch vành DSA. • Khảo sát FFR giúp không bỏ sót tổn thương can thiệp 8,5% so với chụp động mạch vành DSA. 2. Phương pháp đo dự trữ lưu lượng vành (FFR) trong thủ thuật chụp và can thiệp động mạch vành qua da: Tương đối an toàn, không có các biến chứng nặng nề cần phải can thiệp. • Một số tác dụng phụ do thuốc và do thao tác trong quá trình đưa dây dẫn áp lực trong lòng động mạch vành lúc tiến hành đo FFR: Nhịp chậm 59,5%; tụt áp 24,3%; ngừng xoang 21,6%; co thắt động mạch vành 8,1%, chóng mặt 5,4%; khó thở 5,4%. Các triệu chứng trên tự hết nhanh chóng, không cần thiết phải xử lý và không gây nguy hiểm cho bệnh nhân. • Không ghi nhận trường hợp bệnh nhân nào có biến chứng sau thủ thuật đo FFR trong 1 tháng theo dõi.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá phân số dự trữ lưu lượng vành (FFR) ở những bệnh nhân hẹp động mạch vành mức độ trung bình tại bệnh viện Hữu Nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 259 I. đẶT VẤN đỀ Bệnh động mạch vành là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Chụp động mạch vành qua đường ống thông vẫn là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh động mạch vành. Trong trường hợp hẹp trung bình (từ 40 – 70 % lòng mạch), rất khó đánh giá chính xác tổn thương mạch vành có ảnh hưởng tới việc cung cấp máu cho cơ tim và cần thiết phải can thiệp tái tưới máu [1,5]. Phân số dự trữ lưu lượng vành (Fractional Flow Reserve, viết tắt: FFR) là một thông số được đo trong lúc chụp ĐMV. FFR giúp thầy thuốc trả lời câu hỏi liệu tổn thương hẹp có ảnh hưởng đến huyết động mạch vành và cần phải can thiệp tái tưới máu hay không. Nhiều tác giả trên thế giới đã chứng minh vai trò của FFR trong chẩn đoán và định hướng điều trị bệnh mạch vành[8]. Tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, đo FFR đã được triển khai ứng dụng trong thực hành tại khoa tim mạch can thiệp từ năm 2012. đÁNH GIÁ PHÂN sỐ DỰ TRỮ LƯU LƯỢNG VàNH ( FFR ) Ở NHỮNG BỆNH NHÂN HẸP đỘNG MẠCH VàNH MỨC đỘ TRUNG BÌNH TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ lê tùng lam* *Bệnh viện Hữu Nghị TÓM TẮT Mục tiêu: 1. Tìm hiểu vai trò của FFR trong phối hợp chỉ định điều trị can thiệp ở một số bệnh nhân hẹp ĐM vành mức độ trung bình. 2. Đánh giá mức độ an toàn của phương pháp đo dự trữ lưu lượng vành. đối tượng – phương pháp: Trên phim chụp mạch cản quang (DSA) ĐM vành có mức độ hẹp vừa (40 – 70% ) được đo FFR. Chúng tôi chỉ tiến hành can thiệp cho những bệnh nhân có chỉ số FFR < 0.8, không can thiệp những bệnh nhân có chỉ số FFR ≥ 0.8. Đánh giá các đặc điểm của nhóm bệnh nhân ghiên cứu, kết quả đo FFR, những tác dụng phụ trong quá trình đo và theo dõi các bệnh nhân trong 1 tháng sau thủ thuật. Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi lâm sàng. Kết quả: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 10/2012 đến tháng 7/2014, tổng số có 37 bệnh nhân với 45 tổn thương hẹp mức độ trung bình được đo FFR. Tuổi trung bình 72 ± 8, nam giới 31 bệnh nhân (83.78 %). Vị trí ĐM tổn thương và đo FFR lần lượt là: ĐM liên thất trước 23/45; ĐM vành phải 11/45; ĐM mũ 8/45, có 3 lần đo ở nhánh chéo 1 ĐM liên thất trước. Giá trị trung bình FFR đo được 0.77 ± 0.16; cao nhất 0.98; thấp nhất 0.46. Có 19 (42,22%) tổn thương FFR<0,8 được can thiệp ĐM vành; 26 (57,78%) tổn thương FFR≥0,8 điều trị nội khoa. Có 16 bệnh nhân (43,24%) điều trị can thiệp, 21 bệnh nhân (56,76 %) điều trị nội khoa. Đo FFR giúp không bỏ sót tổn thương 2 trường hợp (8.5 %), trì hoãn can thiệp 4 trường hợp (19 %) so với đánh giá QCA trên phim chụp DSA ĐM vành. Biến chứng thường gặp nhất là nhịp chậm (22/37 BN, chiếm 59,5%). Tiếp đó là tụt áp (9/37 bệnh nhân, chiếm 24,3%), ngừng xoang kéo dài (8 bệnh nhân, chiếm 21,6%). Các biến chứng nhẹ, thoáng qua, tự hết nhanh chóng sau khi hết thời gian tác dụng của adenosine. Kết luận: Đối với những tổn thương hẹp ĐM vành trung bình: Đo FFR tỏ ra an toàn với bệnh nhân và có giá trị đánh giá chính xác, khách quan về tổn thương ĐM vành có hay không ảnh hưởng đến huyết động, giúp cho bác sỹ lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân. nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX260 Chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Đánh giá phân số dự trữ lưu lượng vành ở những bệnh nhân hẹp động mạch vành mức độ trung bình tại bệnh viện Hữu nghị Hà Nội” với 2 mục tiêu: 1. Bước đầu tìm hiểu vai trò của phân số dự trữ lưu lượng vành trong phối hợp chỉ định điều trị can thiệp ở một số bệnh nhân hẹp động mạch vành mức độ trung bình. 2. Đánh giá mức độ an toàn của của phương pháp đo dự trữ lưu lượng vành. II. PHƯƠNG PHÁP - đỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. đối tượng: Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Tim mạch can thiệp - Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội từ tháng 10/2012 đến tháng 7/2014. Bệnh nhân chẩn đoán cơn đau thắt ngực ổn định, chụp động mạch vành qua da, đánh giá hẹp vừa (40 – 70%) được đo FFR và đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân chẩn đoán hội chứng vành cấp, phì đại thất trái tiên phát hoặc thứ phát. Bệnh nhân có tình trạng nội khoa nặng như suy thận nặng, nhiễm khuẩn nặng, bệnh lý ác tính giai đoạn cuối, bệnh nhân có các chống chỉ định với adenosine như nhịp chậm kéo dài, blốc nhĩ thất chưa được đặt máy tạo nhịp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, 3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có theo dõi dọc theo thời gian. 4. Thu thập dữ liệu: Bệnh nhân được khám lâm sàng và làm các xét nghiệm cận lâm sàng theo mẫu bệnh án nghiên cứu. Chụp ĐMV cho bệnh nhân qua đường động mạch đùi hoặc động mạch quay, sử dụng ống thông can thiệp các loại JL, JR cỡ 5F, 6F, 7F. Tiến hành đo FFR nếu có chỉ định. Can thiệp mạch vành nếu FFR < 0,8 và điều trị bảo tồn nếu FFR ≥ 0,8. Lựa chọn bóng và stent tùy theo thủ thuật viên. Theo dõi các biến chứng của quá trình đo FFR. 5. Theo dõi dọc theo thời gian: Các bệnh nhân được theo dõi trong thời gian nằm viện. Sau khi xuất viện, bệnh nhân được theo dõi trong tối thiểu 30 ngày, qua khám bệnh định kỳ và gọi điện thoại trực tiếp (với những người bệnh ở xa không có điều kiện đến Bệnh viện Hữu Nghị khám lại). 6. Xử lý số liệu: Chúng tôi xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quả phân tích được coi là có ý nghĩa thống kê khi giá trị p<0,05. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Có 37 bệnh nhân với 45 tổn thương hẹp ĐM vành trung bình được đo FFR. Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=35) Giá trị Tuổi 72,03 ± 8,2 Nam giới 31 (83,78%) Yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành Tăng huyết áp 22 (59,5%) Đái tháo đường 13 (35,1%) Rối loạn lipid máu 11 (29,7%) Hút thuốc 8 (11,6%) suy tim 5 (13,5%) suy thận 3 (8,1%) Vị trí động mạch vành đo FFR nhiều nhất là ĐM liên thất trước 57.8%, ĐM vành phải 24.4% và ĐM mũ 17.8 %. Bảng 2. Kết quả đo FFR Giá trị trung bình Giá trị thấp nhất Giá trị cao nhất Chung (n=45) 0.77 ± 0.16 0.46 0.98 FFR<0.8 (n=19) 0.69 ± 0.15 0.46 0.78 FFR≥0.8 (n=26) 0.86 ± 0.08 0.82 0.98 Trong số 37 bệnh nhân có 16 bệnh nhân (43,24 %) điều trị can thiệp, 21 bệnh nhân ( 56,76 %) điều trị nội khoa. nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 261 Trong số 45 tổn thương hẹp vừa ĐMV, nếu dựa trên kết quả chụp ĐMV, có 21 trường hợp (46,66 %) bác sỹ muốn can thiệp ĐMV. Tuy nhiên kết quả đo FFR cho thấy chỉ 17 tổn thương cần can thiệp (80,95%). Có 4 tổn thương sau khi đo FFR đã trì hoãn can thiệp, chiếm 19%. Ngược lại, trong số 24 tổn thương mạch vành định điều trị bảo tồn khi đánh giá trên chụp DSA, có 2 tổn thương hẹp đáng kể về mặt huyết động (8,5 %) sau khi đo FFR, vì thế cần tái tưới máu. Tổng số, có 6/ 45 trường hợp mà thầy thuốc thay đổi quyết định điều trị sau khi đo FFR, chiếm tỷ lệ 13,5%. Bảng 5. Số ca có biến chứng trong quá trình đo FFR Biến chứng số BN Tỷ lệ % Nhịp chậm 22/37 59.5 % Tụt áp 9/37 24.3 % Ngừng xoang 8/37 21.6 % Chóng mặt 5/37 13.5 % Co thắt động mạch vành 3/37 8.1 % Bloc A V 3/37 8.1 % Khó thở 2/37 5.4 % Đau ngực 2/37 5.4 % Tất cả 37 bệnh nhân đều được theo dõi các biến cố tim mạch trong khi nằm viện. 35 bệnh nhân (94,6%) hoàn thành thời gian theo dõi 30 ngày sau xuất viện. Trong thời gian đó, không có trường hợp nào tử vong, không có bệnh nhân nào tái nhập viện vì NMCT, đau ngực. IV. BàN LUẬN Trong NC chúng tôi tuổi khá cao (72 ± 8), nam chiếm ưu thế (83.78 %) phù hợp với kết quả của một số tác giả nước ngoài và đặc thù bệnh nhân Bệnh viện Hữu nghị quản lý (BN cao tuổi, nam nhiều hơn nữ) [3]. Giá trị FFR trung bình của 45 tổn thương là 0,77 ± 0,16. FFR thấp nhất là 0,46, cao nhất là 0,98. Độ biến thiên tương đối cao của nhóm nghiên cứu cho thấy mặc dù đều chỉ là hẹp vừa ĐMV, nhưng ảnh hưởng huyết động có thể rất trầm trọng (FFR=0,46), hoặc gần như không gây ảnh hưởng gì về huyết động (FFR=0,98). Có 19/45 (42,22%) trường hợp FFR ≥ 0,8, 26/45 (57,78 %) ca FFR<0,8. Kết quả này tương tự những nghiên cứu khác so sánh QCA với FFR. Theo Fisher và cộng sự, mức độ hẹp ĐMV ở nhóm FFR dương tính là 71%, lớn hơn đáng kể so với nhóm FFR âm tính là 58%, p=0,0001[9] [2]. Những công trình nghiên cứu của Pijls và De Bruyne đã chứng minh vai trò của FFR trong trường hợp hẹp vừa ĐMV. FFR có tương quan chặt chẽ với tình trạng thiếu máu cơ tim, và có thể được dùng để tiên lượng biến cố tim mạch của người bệnh [7,11,12]. Ngưỡng chẩn đoán thiếu máu cơ tim được các tác giả thống nhất là FFR<0,8 [5,12]. FFR<0,8 chứng tỏ tổn thương hẹp có ý nghĩa và cần tái tưới máu, trong khi Bảng 3. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị can thiệp và điều trị nội khoa n Tỷ lệ % BN can thiệp (FFR < 0.8) 16 43.24 BN điều trị nội khoa (FFR ≥ 0.8) 21 56.76 Tổng số 37 100 Bảng 4. Chỉ định can thiệp theo kết quả chụp ĐM vành và đo FFR Can thiệp đặt stent Theo kết quả chụp DsA Tổng số Có Không Theo FFR Có(FFR < 0.8) 17 2 19 Không(FFR≥0.8) 4 22 26 Tổng số 21 24 45 nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX262 FFR≥0,8 thì có thể điều trị bảo tồn mà không làm tăng nguy cơ tim mạch cho bệnh nhân. Trong số 45 tổn thương hẹp ĐMV mà chúng tôi nghiên cứu, 57,78 % không ảnh hưởng đến huyết động và chỉ cần điều trị nội khoa. Trong nghiên cứu FAME, với 620 tổn thương hẹp vừa ĐMV, tỷ lệ FFR≥0,8 cũng lên tới 65% [13]. Như vậy, kết quả của chúng tôi tỷ lệ FFR < 0.8 cao hơn kết quả của nghiên cứu FAME. Trong thực tế lâm sàng, đánh giá bằng mắt thường mức độ tổn thương ĐMV trên phim chụp mạch cản quang vẫn là cơ sở để can thiệp tái tưới máu. Ở nhiều trung tâm tim mạch can thiệp, đây là biện pháp duy nhất sẵn có. Mặc dù đánh giá theo kết quả chụp ĐMV nhanh chóng và tương đối chính xác, nhất là với những thầy thuốc nhiều kinh nghiệm [6], nó vẫn có sai số và kết luận thu được không phải lúc nào cũng đồng nhất. Theo Fisher và cộng sự, các thầy thuốc thường chỉ thống nhất với nhau trong khoảng 70% trường hợp hẹp ĐMV, đặc biệt là nếu hẹp ĐMV mức độ vừa [6]. Theo nghiên cứu của chúng tôi, nếu chỉ dựa đơn thuần theo kết quả chụp ĐMV, thầy thuốc có xu hướng can thiệp trong 46,66% trường hợp (21/45 tổn thương). Trong khi dựa theo FFR, tỷ lệ tái tưới máu chỉ là 80,95% (17/21 tổn thương). Đo FFR đã giúp chúng tôi trì hoãn 4/21 ca có ý định can thiệp nếu chỉ dựa vào chụp DSA, đồng thời can thiệp ĐMV trong 2/24 trường hợp có ý định điều trị bảo tồn. Như vậy chúng tôi đã trì hoãn được 19% số ca đặt stent không cần thiết và thay đổi quyết định điều trị can thiệp trong 2 trường hợp hẹp vừa ĐMV (chiếm 8.5%) không có ý định can thiệp nếu chỉ dựa vào kết quả chụp mạch. Kết quả nghiên cứu FAME cho thấy, có thể giảm 30% số stent sau khi sử dụng FFR [6]. Rõ ràng, khi ĐMV hẹp mức độ vừa, không nên dựa đơn thuần vào kết quả chụp mạch vành để đưa ra quyết định tái tưới máu. Nhất là trong kỷ nguyên stent bọc thuốc, khi tỷ lệ tắc lại stent do huyết khối muộn ngày càng cao [10], đồng thời các tác dụng phụ do dùng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu kéo dài cũng là điều thầy thuốc cần cân nhắc. Khi hình ảnh giải phẫu còn chưa rõ ràng, tốt nhất là có thăm dò chức năng chứng minh tình trạng hẹp động mạch vành có ảnh hưởng đến nuôi dưỡng cơ tim. Biến chứng của đo FFR chủ yếu do 2 nguyên nhân: các thao tác liên quan đến dây dẫn áp lực, và tác dụng phụ của adenosine tiêm mạch vành[4]. Là một guide wire ngậm nước (hydrophylic), với kích thước hoàn toàn tương tự các dây dẫn thông thường, chính vì vậy không gây khó khăn cho bác sĩ can thiệp trong quá trình thao tác. Guide wire áp lực có thể đưa qua các tổn thương xoắn vặn cũng như qua các mắt stent (trong trường hợp đánh giá FFR của nhánh bên sau can thiệp nhánh chính). Chúng tôi không gặp trường hợp tách thành ĐMV nào do guide wire áp lực. Có 3 trường hợp co thắt mạch vành nhiều trong lúc đưa guide wire vào lòng mạch vành (chiếm 8,1 %). Với những bệnh nhân này, chúng tôi đã tăng liều nitroglycerin tiêm mạch vành. Nhờ đó hệ mạch vành ở thượng tâm mạch giãn tối đa. Bệnh nhân có thể được tiếp tục đo FFR, đồng thời tình trạng dòng chảy mạch vành ở đoạn xa không bị ảnh hưởng. Adenosine có tác dụng giãn mạch và ức chế dẫn truyền qua nút nhĩ thất. Do vậy, nhịp chậm, tụt huyết áp, ngừng xoang là những biến chứng do thuốc phổ biến nhất trong nghiên cứu của chúng tôi. Có 59,5% trường hợp xuất hiện nhịp chậm, trong đó 21,6% là ngưng xoang kéo dài trên 3 giây. Chúng tôi ghi nhận một trường hợp xuất hiện cơn Adam-Stokes sau tiêm adenosine mạch vành. Tuy nhiên không có trường hợp nào cần phải dùng máy tạo nhịp do biến chứng nhịp chậm. Tỷ lệ tụt huyết áp khá cao (24,3%) tuy nhiên không có trường hợp nào cần dùng thuốc vận mạch để nâng huyết áp. Thời gian bán hủy của adenosine rất ngắn (chỉ từ 10-20 giây), vì thế tác dụng phụ của thuốc đều tự phục hồi. Chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá tỷ lệ các biến chứng của thủ thuật. De Bruyne, một trong những người đầu tiên ứng dụng FFR trong tim mạch can thiệp, nhận thấy các tác dụng phụ của adenosine phổ biến và rõ rệt hơn nếu truyền thuốc bằng bơm tiêm điện qua đường tĩnh mạch trung tâm. Nếu tiêm adenosine trực tiếp vào mạch vành, gần như không gây các rối loạn hệ thống trầm trọng [4]. nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 263 V. KẾT LUẬN 1. Phân số dự trữ lưu lượng vành (FFR) ở bệnh nhân tổn thương động mạch vành mức độ trung bình trên phim chụp DsA: FFR có vai trò quan trọng trong việc chỉ định can thiệp. • Giá trị FFR trung bình của 45 tổn thương là 0,77 ± 0,16. Giá trị FFR thấp nhất là 0,46; cao nhất là 0,98. • Tổn thương hẹp động mạch vành trung bình có FFR < 0.8 là 42,22 % (19/ 45 tổn thương), có FFR > 0.8 là 57,78 % (26/45 tổn thương). • Tỷ lệ hẹp ĐMV có ảnh hưởng huyết động là 30,6% (19/62 trường hợp), tỷ lệ hẹp không ảnh hưởng đến huyết động là 69,4% (43/62 trường hợp). • Khảo sát FFR giúp trì hoãn can thiệp 19% so với chụp động mạch vành DSA. • Khảo sát FFR giúp không bỏ sót tổn thương can thiệp 8,5% so với chụp động mạch vành DSA. 2. Phương pháp đo dự trữ lưu lượng vành (FFR) trong thủ thuật chụp và can thiệp động mạch vành qua da: Tương đối an toàn, không có các biến chứng nặng nề cần phải can thiệp. • Một số tác dụng phụ do thuốc và do thao tác trong quá trình đưa dây dẫn áp lực trong lòng động mạch vành lúc tiến hành đo FFR: Nhịp chậm 59,5%; tụt áp 24,3%; ngừng xoang 21,6%; co thắt động mạch vành 8,1%, chóng mặt 5,4%; khó thở 5,4%. Các triệu chứng trên tự hết nhanh chóng, không cần thiết phải xử lý và không gây nguy hiểm cho bệnh nhân. • Không ghi nhận trường hợp bệnh nhân nào có biến chứng sau thủ thuật đo FFR trong 1 tháng theo dõi. TàI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Lân Việt, Phạm Việt Tuân (2008). Tìm hiểu đặc điểm mô hình bệnh tật ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Tim mạch Việt Nam trong thời gian 5 năm (2003-2007). Trường Đại học Y Hà Nội. 2. J. R. Arnold, T. D. Karamitsos, T. J. Pegg et al., (2010). Adenosine stress myocardial contrast echocardiography for the detection of coronary artery disease: a comparison with coronary angiography and cardiac magnetic resonance. JACC Cardiovasc Imaging, 3(9):934-43. 3. M. A. Christou, G. C. Siontis, D. G. Katritsis et al., (2007). Metaanalysis of fractional flow reserve versus quantitative coronary angiography and noninvasive imaging for evaluation of myocardial ischemia. Am J Cardiol, 99(4):450-6. 4. B. De Bruyne, N. H. Pijls, E. Barbato et al., (2003). Intracoronary and intravenous adenosine 5’-triphosphate, adenosine, papaverine, and contrast medium to assess fractional flow reserve in humans. Circulation, 107(14):1877-83. 5. B. De Bruyne, J. Sarma (2008). Fractional flow reserve: a review: invasive imaging. Heart, 94(7):949-59. 6. J. J. Fischer, H. Samady, J. A. McPherson et al., (2002). Comparison between visual assessment and quantitative angiography versus fractional flow reserve for native coronary narrowings of moderate severity. Am J Cardiol, 90(3):210-5. 7. J. J. Fischer, X. Q. Wang, H. Samady et al., (2006). Outcome of patients with acute coronary syndromes and moderate coronary lesions undergoing deferral of revascularization based on fractional flow reserve assessment. Catheter Cardiovasc Interv, 68(4):544-8. 8. M. Hamilos, A. Peace, G. Kochiadakis et al., (2010). Fractional flow reserve: an indispensable diagnostic tool in the cardiac catheterisation laboratory. Hellenic J Cardiol, 51(2):133-41. 9. T. S. Kristensen, T. Engstrom, H. Kelbaek et al., (2010). Correlation between coronary computed tomographic angiography and fractional flow reserve. Int J Cardiol, 144(2):200-5. 10. G. Lemesle, C. Delhaye, L. Bonello et al., (2008). Stent thrombosis in 2008: definition, predictors, prognosis and treatment. Arch Cardiovasc Dis, 101(11-12):769-77. nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX264 11. N. H. Pijls, P. van Schaardenburgh, G. Manoharan et al., (2007). Percutaneous coronary intervention of functionally nonsignificant stenosis: 12. Martyn Thomas (2009). How to do FFR and interpret measurement. 4th European Interventional Cardiology Fellows Course. 13. P. A. Tonino, B. De Bruyne, N. H. Pijls et al., (2009). Fractional flow reserve versus angiography for guiding percutaneous coronary intervention. N Engl J Med, 360(3):213-24. ABsTRACT eVALUATe FRACTIONAL FLOW ReseRVe (FFR)IN PATIeNTs WITH INTeRMeDIATe CORONARY ARTeRY sTeNOsIs IN HUU NGHI HANOI HOsPITAL Aims: - Study the role of FFR in combined therapy interventions in patients with intermediate coronary artery stenosis. - Evaluating the safeness of coronary flow reserve measurement method. Method: On the Digital Substraction Angiography (DSA) images, coronary artery stenosis with intermediate narrowness (40-70%) was mesuared for FFR. Mesuared FFR > 0.8: No intervention or medical treatment. Mesuared FFR < 0.8: Ballon angioplasty and stenting intervention. Report side effects occur during FFR measurement and follow up the patients 1 month after the procedure. Results: The study was conducted from October 2012 to July 2014 with total 37 patients in which 31 were male (83.78%). The average age was 72 ± 8. From these 37 patients, 45 intermediate coronary artery stenosis were subjected for FFR measurement. The artery stenosis and FFR measurement areas are: LAD (23/45); RCA (11/45); and LCX (8/45). There were three measurements in diagonal 1 of the LAD. The average FFR value is 0.77 ± 0.16; maximum value is 0.98 and minimum value is 0.46. 19 intermediate coroary artery stenosis with FFR <0.8 (42.22%) were subjected to angioplasty intervention. 26 intermediate coroary artery stenosis with FFR ≥ 0.8 (57.78%) were subjected to medical treatment. In total, there were 16 patients (43,24%) undergone angioplasty intervention; and 21 patients (54.76%) undergone medical treatment. FFR measurement helped to avoid overlooking injuries in 2 cases, and to delay intervention in 4 cases (19%) compared with the method of evaluating QCA in DSA images of artery coronary. During FFR measurement, the most common complication is bradycardia (59.5%), following by hypotension (24.3%) and stop prolonged sinus (21.6%). Complications are mild, transient, and ended quickly after the effects of adenosine had wore off. Conclusion: In patients with intermediate coronary artery stenosis, FFR measurement is a safe procedure. It provides a valuable objective assessment of coronary artery damages, whether the damages affect the haemodynamic of coronary artery or not. This information can help doctors choose the best treatment for patients.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_phan_so_du_tru_luu_luong_vanh_ffr_o_nhung_benh_nhan.pdf
Tài liệu liên quan