Đánh giá rối loạn nuốt tại giường bằng test
sàng lọc “The Gugging Swallowing Screen
(GUSS)”(12) trên 89 bệnh nhân đột quỵ não cấp tại
khoa Nội thần kinh Bệnh viện Thống Nhất từ
tháng 3/2013 – 9/2013 chúng tôi rút ra một số kết
luận sau:
- Rối loạn nuốt thường gặp ở bệnh nhân đột
quị não cấp với tỷ lệ 60,7% (54 bệnh nhân).
- Rối loạn nuốt có liên quan có ý nghĩa thống
kê với viêm phổi sau đột quỵ não. Tỷ lệ viêm
phổi trong nhóm có rối loạn nuốt là 27,8%, trong
nhóm không có rối loạn nuốt là 0% với p<0,001.
- Tuổi lớn hơn, giới nữ và thể đột quỵ xuất
huyết trong sọ làm tăng nguy cơ rối loạn nuốt
sau đột quỵ não.
- Việc sàng lọc rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột
quỵ não cấp có ý nghĩa quan trọng nhằm dự
đoán nguy cơ hít sặc, từ đó có chế độ nuôi
dưỡng và loại thức ăn thích hợp với từng mức
độ rối loạn nuốt nhằm phòng ngừa phổi hít và
biến chứng viêm phổi sau đột quỵ. Thang điểm
sàng lọc rối loạn loạn nuốt GUSS có độ nhạy cao
và tương đối dễ thực hiện, thích hợp đối với yêu
cầu đánh giá nhanh chóng bệnh nhân đột quỵ
não cấp tại giường
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quị não cấp bằng thang điểm Guss, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 47
ĐÁNH GIÁ RỐI LOẠN NUỐT Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỊ NÃO CẤP
BẰNG THANG ĐIỂM GUSS
Nguyễn Thị Phương Nga* , Phan Xuân Nam*, Trần Kim Phượng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Rối loạn nuốt thường gặp và làm tăng nguy cơ viêm phổi hít sau đột quỵ cấp. Chúng tôi dùng
phương pháp đánh giá rối loạn nuốt đơn giản từng bước tại giường “The Gugging Swallowing Screen (GUSS)
cho các bệnh nhân đột quỵ cấp nhằm đánh giá nguy cơ phổi hít và khuyến cáo chế độ nuôi dưỡng thích hợp.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu trên 89 bệnh nhân đột quỵ cấp được nhập viện vào khoa Nội thần kinh
từ tháng 3/2013 đến tháng 9/2013.
Kết quả: Tuổi trung bình là 66,8 (SD = ± 14,5). Nam chiếm tỷ lệ 65,2% và nữ 34,8%. Tỷ lệ rối loạn nuốt là
60,7%. Tỷ lệ viêm phổi ở nhóm bệnh nhân có và không có rối loạn nuốt lần lượt là 27,8% và 0% (p < 0,001). Tuổi
lớn hơn, giới nữ và thể đột quỵ xuất huyết trong sọ có liên quan có ý nghĩa thống kê với rối loạn nuốt sau đột quỵ.
Kết luận: Tỷ lệ rối loạn sau đột quỵ là 60,7%. Tuổi lớn hơn, giới nữ, thể đột quỵ xuất huyết trong sọ có thể
là các yếu tố nguy cơ của rối loạn nuốt. Thang điểm sàng lọc rối loạn nuốt GUSS có độ nhạy cao và tương đối dễ
thực hiện, thích hợp đối với yêu cầu đánh giá nhanh chóng bệnh nhân đột quỵ não cấp tại giường.
Từ khóa: đột quỵ não, rối loạn nuốt, guss
ABSTRACT
DYSPHAGIA BEDSIDE SCREENING FOR ACUTE STROKE PATIENTS
USING THE GUGGING SWALLOWING SCREEN
Nguyen Thi Phuong Nga, Phan Xuan Nam, Tran Kim Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 47-52
Objective: Acute-onset dysphagia after stroke is frequently associated with an increased risk of aspiration
pneumonia. We used the simple, stepwise bedside screen (The Gugging Swallowing Screen) for acute-stroke
inpatients to assess the severity of aspiration risk and recommend a special diet accordingly.
Methods: 89 acute-stroke inpatients were assessed prospectively. These patients were hospitalized in
Department of Neurology, Thong Nhat hospital from March 2013 September 2013.
Results: 65.2% were men and 34.8% women; mean age 66.8 years (SD = ± 14.5). Swallowing disorders
occurred in 60.7%. The rate of pneumonia among patients with and without dysphagia are 27.8% and 0%
respectively (p <0.001). Older age (p = 0.001), female (p = 0.018) and intracranial hemorrhage stroke (p = 0.030)
were significantly associated with dysphagia after stroke.
Conclusions: Swallowing disorders occurred in 60.7% acute-stroke patients. The risk factors for swallowing
disorders were older age, female and intracranial hemorrhage stroke.
Keywords: stroke, dysphagia, Guss
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những vấn đề thường gặp nhất và
xảy ra sớm nhất sau đột quỵ não là rối loạn nuốt.
Tuỳ theo phương pháp đánh giá và định nghĩa,
rối loạn nuốt gặp ở 30% - 67% bệnh nhân đột quị
não. Rối loạn nuốt có thể gây phổi hít và tỷ lệ
* Khoa Nội thần kinh Bệnh viện Thống Nhất Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Thị Phương Nga ĐT: 0908190633 Email: phuongnga2910@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 48
này chiếm 20% đến 25% các bệnh nhân đột quỵ
não(2). Do viêm phổi ở bệnh nhân đột quị thường
do phổi hít nên việc tầm soát rối loạn nuốt có thể
làm giảm nguy cơ viêm phổi và cải thiện kết cục
chung. Các hậu quả khác của rối loạn nuốt là
tình trạng suy dinh dưỡng, mất nước, kéo dài
thời gian nằm viện và tiên lượng xa xấu. Do đó
việc phát hiện sớm rối loạn nuốt để đưa ra các
khuyến cáo dinh dưỡng phù hợp là rất cần thiết
nhằm tránh các biên chứng trên. Có nhiều
phương pháp phát hiện rối loạn nuốt ở bệnh
nhân đột quị não. Các phương pháp đánh giá rối
loạn nuốt cơ bản như chiếu điện quang quay
video (Videofluoroscopy), nội soi ống mềm đánh
giá nuốt (Fibre Endoscopic Evaluation of
Swallowing) đòi hỏi kỹ thuật và chuyên khoa
sâu, khó áp dụng trong giai đoạn cấp của đột quị
và khó lặp lại nhiều lần. Các test đánh giá tại
giường đơn giản và dễ áp dụng hơn. Phương
pháp đánh giá rối loạn nuốt tại giường “The
Gugging Swallowing Screen (GUSS)”(12) là một
phương pháp tương đối dễ làm, đáng tin cậy để
xác định rối loạn nuốt và nguy cơ sặc, đồng thời
giúp phân chia rối loạn nuốt thành các mức độ
và đưa ra được các khuyến cáo về chế độ dinh
dưỡng phù hợp.
Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
nhằm các mục tiêu sau:
1. Tỷ lệ rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quị
não cấp.
2. Liên quan giữa rối loạn nuốt và viêm phổi
sau đột quỵ não.
3. Các yếu tố có liên quan rối loạn nuốt.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Các bệnh nhân ĐQ não cấp nhập viện trong
72 giờ đầu được điều trị nội trú tại khoa Nội
Thần kinh bệnh viện Thống Nhất từ tháng
3/2012 – 9/2013 thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn
bệnh và không phạm các tiêu chuẩn loại trừ sẽ
được đưa vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chọn vào
- Các bệnh nhân ĐQ cấp được chẩn đoán xác
định chuẩn lâm sàng của tổ chức y tế thế giới và
hình ảnh học (CT scan và/hoặc MRI sọ não).
- Nhập viện trong thời gian nghiên cứu,
được lựa chọn liên tiếp.
Tiêu chuẩn loại ra
- Bệnh nhân rối loạn ý thức không thể thực
hiện được nghiệm pháp.
- Bệnh nhân đột quị não đang thở máy.
- Bệnh nhân rối loạn nuốt do các nguyên
nhân khác.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu liên tiếp.
Các biến số trong nghiên cứu
Một số biến số về dân số học
- Tuổi.
- Giới.
Các biến số khác
- ĐQ não là một hội chứng lâm sàng đặc
trưng bởi sự khởi phát đột ngột của các triệu
chứng biểu hiện tổn thương khu trú của não, tồn
tại trên 24 giờ hoặc tử vong trước 24 giờ. Những
triệu chứng thần kinh khu trú phù hợp với vùng
não do động mạch bị tổn thương phân bố, loại
trừ nguyên nhân chấn thương (Tổ chức y tế thế
giới).
- Thể ĐQ: nhồi máu não, xuất huyết não,
xuất huyết dưới nhện được chẩn đoán dựa vào
CT và/hoặc MRI.
- Triệu chứng cơ năng rối loạn nuốt.
- Bán cầu tổn thương: phải, trái, 2 bên.
- Số lần đột quỵ.
- Ran phổi.
- Viêm phổi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 49
- Rối loạn nuốt: đánh giá nuốt theo thang
tầm soát nuốt – Gugging Swallowing Screen
(GUSS). BN được nuốt cả 3 loại thức ăn (dạng
sệt, nước và dạng cứng). Trước và trong quá
trình nuốt thức ăn, BN được mắc máy đo SPO2
để phát hiện suy hô hấp (nếu có) nhằm cấp cứu
kịp thời. Khi bệnh nhân có GUSS ≤ 19 điểm được
chẩn đoán rối loạn nuốt.
- Phân độ rối loạn nuốt: nhẹ có GUSS từ 15 –
19 điểm; trung bình có GUSS từ 10 – 14 điểm;
nặng có GUSS ≤ 9 điểm.
Thu thập dữ liệu
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Chúng tôi tiến hành thu thập các biến số
nghiên cứu như sau: tuổi, giới, triệu chứng cơ
năng rối loạn nuốt, thể đột quỵ, bán cầu tổn
thương, số lần đột quỵ não, sự xuất hiện ran
phổi, viêm phổi.
Đánh giá nuốt theo thang tầm soát nuốt –
Gugging Swallowing Screen (GUSS). Khi bệnh
nhân có GUSS ≤ 19 điểm được chẩn đoán rối
loạn nuốt.
Phân độ rối loạn nuốt như sau: nhẹ có GUSS
từ 15 – 19 điểm; trung bình có GUSS từ 10 – 14
điểm; nặng có GUSS ≤ 9 điểm.
Công cụ thu thập dữ liệu
- Bảng thu thập dữ liệu đã được soạn trước
dựa trên: bãng thu thập dữ liệu, hồ sơ bệnh án
hiện tại.
- Ống nghe.
Xử lý và phân tích dữ liệu
Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần
mềm SPSS 11.5.
- Bước 1: thống kê mô tả chung các biến số
nghiên cứu. Các biến số định lượng được mô tả
bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn – SD
(standard deviation). Các biến số định tính được
mô tả bằng tần suất và tỉ lệ phần trăm.
- Bước 2: so sánh các biến số giữa nhóm rối
loạn nuốt và nhóm không rối loạn nuốt.
Với các biến số định tính: dùng phép kiểm χ2
hoặc phép kiểm chính xác Fisher (khi tần số
trong bất kỳ một ô nào < 5).
Với các biến số định lượng: dùng phép kiểm
t (có so sánh phương sai) hoặc phép kiểm phi
tham số Mann – Whitney (khi các biến số định
lượng không có phân phối chuẩn).
Mức p có ý nghĩa cho mọi trường hợp là < 0,05.
Khoảng tin cậy 95% được xem là có ý nghĩa
thống kê khi không chứa 1.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Nội
Thần kinh Bệnh viện Thống Nhất từ tháng
03/2013 đến tháng 09/2013. Mẫu nghiên cứu
gồm 89 bệnh nhân đột quị não cấp nhập viện
trong khoảng thời gian từ 3/2013 đến tháng
9/2013.
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu
là 66,8 ± 14,5 (năm), nhỏ nhất là 23 tuổi và cao
nhất là 94 tuổi. Tuổi trung bình trong nghiên cứu
của chúng tôi tương đướng với tuổi trung bình
trong nghiên cứu của Mã Lệ Quân (64,14), Phan
Nhựt Trí (66,8), nghiên cứu PASS (67,8)(5,9,13).
Nam: 58 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 65,2%. Nữ:
31 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 34,8%. Tỉ lệ nam /
nữ= 1,9. Tỷ lệ nam trong nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn tỷ lệ nam trong nghiên cứu
của Mã Lệ Quân (55,08%), Phan Nhựt Trí
(61%)(9,5). Điều này có thể do đối tượng điều trị
của chúng tôi phần lớn là cán bộ trung cao cấp
vốn có tỷ lệ nam cao hơn nữ.
Trong 89 bệnh nhân đột quỵ não, 65 bệnh
nhân nhồi máu não (73,0%), 24 bệnh nhân
xuất huyết não trong sọ (xuất huyết não hay
xuất huyết dưới nhện) (27,0%). Tỷ lệ nhồi máu
não của chúng tôi tương đương với Phan
Nhựt Trí (73%), nhưng thấp hơn tỷ lệ nhồi
máu não của Mã Lệ Quân (83,05%) và Zhou Z
và cộng sự (88,8%)(5,9,13).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 50
Tổn thương não bên phải gặp ở 41 bệnh
nhân (46,1%), bên trái gặp ở 35 bệnh nhân
(39,3%), hai bên gặp ở 13 bệnh nhân (14,6%).
Tỉ lệ ĐQ não tái phát (ĐQ > 1 lần) là 27,0%.
Tỷ lệ này trong nghiên cứu của Martino R. và
cộng sự là 19,9%(5).
21 bệnh nhân có ran phổi (23,6%) và 15 bệnh
nhân viêm phổi (16,9%).
Đánh giá rối loạn nuốt bằng thang điểm guss
Theo thang điểm GUSS, rối loạn nuốt nhẹ
tức là bệnh nhân nuốt được thức ăn lỏng và đặc,
không nuốt được thức ăn cứng ; rối loạn nuốt
trung bình tức là bệnh nhân chỉ nuốt được thức
ăn đặc ; rối loạn nuốt nặng tức là bệnh nhân
không nuốt được cả 3 loại thức ăn.
Tỷ lệ rối loạn nuốt là 60,7% (54 bệnh
nhân). Trong đó, rối loạn nuốt nhẹ 15,7%,
trung bình 7,9%, nặng 37,1%. Tỷ lệ này tương
đương với tỷ lệ rối loạn nuốt của tác giả Mã Lệ
Quân (57,63%) với cùng phương pháp đánh
giá bằng thang điểm GUSS. Các nghiên cứu
của các tác giả khác với các phương pháp
đánh giá khác nhau cho tỷ lệ rối loạn nuốt ở
bệnh nhân đột quỵ là 30% - 67%(02).
Các triệu chứng cơ năng theo thứ tự thường
gặp là nuốt chậm 56 bệnh nhân (62,9%), thay đổi
giọng sau khi nuốt 44 bệnh nhân (49,4%), chảy
nước dãi 39 bệnh nhân (43,8%), ho sặc sau khi
nuốt 38 bệnh nhân (42,7%) và không nuốt được
31 bệnh nhân (34,8%).
Trong nhóm bệnh nhân có rối loạn nuốt (54
bệnh nhân), triệu chứng chiếm tỷ lệ cao nhất là
nuốt chậm (85,2%), kế đến là thay đổi giọng sau
khi nuốt (77,8%), chảy nước dãi (66,7%), ho sặc
sau khi nuốt (66,7%) và không nuốt được
(57,4%). Như vậy triệu chứng nuốt chậm và thay
đổi giọng sau khi nuốt có độ nhạy cao nhất gợi ý
tình trạng rối loạn nuốt.Theo tác giả Mã Lệ
Quân, triệu chứng chiếm tỷ lệ cao nhất đối với
thức ăn cứng và sệt là nuốt chậm, đối với thức ăn
lỏng là ho(5).
Liên quan giữa rối loạn nuốt và viêm phổi
sau đột quỵ não
Tỷ lệ có ran phổi trong nhóm có rối loạn
nuốt là 37,0% và trong nhóm không có rối loạn
nuốt là 2,9% và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p < 0,001) (bảng 1).
So sánh hai nhóm bệnh nhân có và không có
rối loạn nuốt, chúng tôi nhận thấy có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ viêm phổi trong
nhóm có (27,8%) và không có rối loạn nuốt (0%)
với p < 0,001 (bảng 2).
Bảng 1: Liên quan giữa rối loạn nuốt và ran phổi
Đặc điểm Không ran
phổi-n (%)
Có ran phổi-n
(%)
Tổng P
Không rối
loạn nuốt
34 (97,1%) 01(2,9%) 35 < 0,001
Có rối loạn
nuốt
34(63%) 20(37%) 54
Tổng 68 21 89
Bảng 2: Liên quan giữa rối loạn nuốt và viêm phổi
Đặc điểm
Không viêm
phổi n(%)
Có viêm
phổi n(%)
Tổng P
Không rối loạn nuốt 35 (100) 0 (0) 35
0,001 Có rối loạn nuốt 39 (72,2) 15 (27,8) 54
Tổng 74 15 89
Các nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước cho tới nay đều nhận thấy rối loạn
nuốt có thể gây phổi hít (aspiration) với tỷ lệ 20%
- 25% các bệnh nhân đột quỵ(6,11,4) Viêm phổi tăng
gấp 7 lần ở bệnh nhân có phổi hít so với ở bệnh
nhân không có phổi hít(9). Điều này giải thích cho
bằng chứng được ghi nhận qua các nghiên cứu
rằng rối loạn nuốt có liên quan mạnh với viêm
phổi và làm tăng tỷ lệ tử vong sau đột quỵ(6,13).
Nghiên cứu trong nước của Nguyễn Nhựt Trí
cũng nhận thấy rối loạn nuốt có liên quan với
viêm phổi sau đột quỵ với tỷ lệ viêm phổi ở
nhóm bệnh nhân có rối loạn nuốt là 19,1% so với
0% ở nhóm không có rối loạn nuốt (p < 0,05).
Như vậy việc sàng lọc đánh giá rối loạn nuốt
ở bệnh nhân đột quỵ não cấp có ý nghĩa quan
trọng nhằm dự đoán nguy cơ hít sặc, từ đó có
chế độ nuôi dưỡng và loại thức ăn thích hợp với
từng mức độ rối loạn nuốt nhằm phòng ngừa
phổi hít và biến chứng viêm phổi sau đột quỵ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 51
Theo Edmiaston J. và cộng sự, thang điểm tầm
soát rối loạn loạn nuốt GUSS có độ nhạy cao dự
đoán phổi hít (100%), độ đặc hiệu tương đương
các test tầm soát tại giường khác như Timed test
(52%), 3-oz water swallow test (59%), độ tin cậy
giữa những người đánh giá (rater reliability) khá
cao 83% và tương đối dễ thực hiện nên thích hợp
đối với yêu cầu đánh giá nhanh chóng rối loạn
nuốt ở bệnh nhân đột quỵ não cấp(2).
Các yếu tố liên quan rối loạn nuốt
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi, giới
nữ, thể đột quỵ xuất huyết trong sọ có liên quan
với rối loạn nuốt, trong khi vị trí tổn thương phải
hay trái và số lần đột quỵ não không có liên
quan với rối loạn nuốt (bảng 3).
Tuổi trung bình trong nhóm có rối loạn nuốt
và không có rối loạn nuốt lần lượt là 70,7 và 60,8
và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Một
nghiên cứu hồi cứu trên 596 bệnh nhân ở Brasil
nhận thấy tuổi là một yếu tố tiên đoán rối loạn
nuốt với nguy cơ tương đối (RR) = 1,03 (95%CI
1,01 – 1,05)(13). Các bệnh nhân lớn tuổi hơn
thường có sự giảm phản xạ ho và giảm sự phối
hợp giữa hoạt động nuốt và hô hấp nên dễ có
nguy cơ rối loạn nuốt hơn bệnh nhân ít tuổi hơn.
Tuy nhiên một số tác giả khác không có cùng
nhận định này(5,13). Do đó cần thêm các nghiên
cứu nữa để có thể kết luận về tương quan này.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ rối
loạn nuốt ở nữ là 77,4% và nam là 51,7% (p =
0,018). Điều này gợi ý rằng nữ có nguy cơ bị rối
loạn nuốt cao hơn nam. Tuy nhiên phần lớn các
nghiên cứu cho đến nay không cho thấy có sự
liên quan giữa giới tính và rối loạn nuốt(1,10). Điều
này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn.
Tỷ lệ rối loạn nuốt trong nhóm bệnh nhân
xuất huyết trong sọ (79,2%) cao hơn tỷ lệ rối loạn
nuốt trong nhóm bệnh nhân nhồi máu não
(53,8%) có ý nghĩa thống kê (p = 0,03). Điều này
có thể do xuất huyết trong sọ thường có biểu
hiện rối loạn ý thức ảnh hưởng đến khả năng
nuốt của bệnh nhân. Baroni A.F.F.B và cộng sự
nhận thấy tỷ lệ xuất huyết não trong nhóm có rối
loạn nuốt cao hơn trong nhóm không có rối loạn
nuốt (19,4% so với 11,5%) tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (OR = 1,85, CI
95% 0.82 4.17); nhưng rối loạn nuốt có liên quan
rõ ràng với tình trạng suy giảm ý thức của bệnh
nhân (OR = 24.2, CI 95% 3.23 - 180.7)(1).
Bảng 3: Các yếu tố liên quan rối loạn nuốt
Trong nghiên cứu của chúng tôi, rối loạn
nuốt không có liên quan có ý nghĩa thống kê với
bên tổn thương đột quỵ. Mã Lệ Quân (2009),
Remesso G. C và cộng sự (2011) nhận thấy bên
tổn thương không có liên quan với rối loạn
nuốt(5,10). Mã Lệ Quân (2009), Baroni A.F.F.B và
cộng sự (2012) nhận thấy bệnh nhân có tiên sử
đột quỵ não có nguy cơ rối loạn nuốt cao hơn
bệnh nhân đột quỵ não lần đầu. Sự tích luỹ các
tổn thương não do đột quỵ tái phát làm tăng
nguy cơ hiện diện các dấu hiệu thần kinh biểu
hiện ở hầu họng như nói đớ, nói khó hoặc rối
loạn vận ngôn góp phần gây rối loạn nuốt. Kết
quả của chúng tôi không cho thấy tương quan
giữa rối loạn nuốt với đột quỵ tái phát. Điều này
có thể do cỡ mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn.
Yếu tố liên quan Không rối loạn nuốt Có rối loạn nuốt Tổng P
Tuổi 60,8 (14,1) 70,7 (13,5) 89 0,001º
Giới
Nam 28 (48,3) 30 (51,7) 58
0,018
Nữ 07 (22,6) 24 (77,4) 31
Thể đột quỵ
Nhồi máu não 30 (46,2) 35 (53,8) 65
0,030
Xuất huyết trong sọ 05 (20,8) 19 (79,2) 24
Tổn thương
Phải 20 (44,8) 21 (51,2) 41
0,198 Trái 10 (28,6) 25 (71,4) 35
2 bên 05 (38,5) 08 (61,5) 13
Số lần đột quỵ
1 lần 26 (40,0) 39 (60,0) 65
0,830
≥ 2 lần 09 (37,5) 15 (62,5) 24
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 52
KẾT LUẬN
Đánh giá rối loạn nuốt tại giường bằng test
sàng lọc “The Gugging Swallowing Screen
(GUSS)”(12) trên 89 bệnh nhân đột quỵ não cấp tại
khoa Nội thần kinh Bệnh viện Thống Nhất từ
tháng 3/2013 – 9/2013 chúng tôi rút ra một số kết
luận sau:
- Rối loạn nuốt thường gặp ở bệnh nhân đột
quị não cấp với tỷ lệ 60,7% (54 bệnh nhân).
- Rối loạn nuốt có liên quan có ý nghĩa thống
kê với viêm phổi sau đột quỵ não. Tỷ lệ viêm
phổi trong nhóm có rối loạn nuốt là 27,8%, trong
nhóm không có rối loạn nuốt là 0% với p<0,001.
- Tuổi lớn hơn, giới nữ và thể đột quỵ xuất
huyết trong sọ làm tăng nguy cơ rối loạn nuốt
sau đột quỵ não.
- Việc sàng lọc rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột
quỵ não cấp có ý nghĩa quan trọng nhằm dự
đoán nguy cơ hít sặc, từ đó có chế độ nuôi
dưỡng và loại thức ăn thích hợp với từng mức
độ rối loạn nuốt nhằm phòng ngừa phổi hít và
biến chứng viêm phổi sau đột quỵ. Thang điểm
sàng lọc rối loạn loạn nuốt GUSS có độ nhạy cao
và tương đối dễ thực hiện, thích hợp đối với yêu
cầu đánh giá nhanh chóng bệnh nhân đột quỵ
não cấp tại giường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baroni AFFB, Fabio SRC et al (2012). Risk factors for
swallowing dysfunction in stroke patients. Arq Gastroenterol v.
49 –no.2–abr./jun..
2. Edmiaston J, Connor LT et al (2010). Validation of a
Dysphagia Screening Tool in Acute Stroke Patients. Am J Crit
Care;19:357-364.
3. Holas M, DePippo K, et al (1994). Aspiration and relative risk
of medical complications following stroke. Arch
Neurol.;51:1051-1053.
4. Leder SB, Espinosa JF (2002). Aspiration risk after acute stroke:
comparison of clinical examination and fiberoptic endoscopic
evaluation of swallowing. Dysphagia.;17:214-218.
5. Mã Lệ Quân, Vũ Anh Nhị (2009). Rối loạn nuốt trong tai biến
mạch máu não.
6. Mann G, Hankey G et al (1999). Swallowing function after
stroke: prognosis and prognostic factors at 6
months.Stroke.;30(4):744-748
7. Martino R, Foley N, et al (2005). Dysphagia after stroke-
incidence, diagnosis, and pulmonary complications. Stroke.;36
(12):2756-2763.
8. Martino R, Silver F et al (2009). The Toronto Bedside
Swallowing Screening Test (TOR-BSST): Development and
Validation of a Dysphagia Screening Tool for Patients With
Stroke. Stroke.;40:555-561.
9. Phan Nhựt Trí, Nguyễn Thị Thu Hương (2011). Nghiên cứu
rối loạn nuốt theo GUSS ở bệnh nhân đột quỵ não cấp tại
bệnh viện Cà Mau năm 2010-2011. Y học thực hành;
811+812:189-195.
10. Remesso GC, Fukujima MM, et al (2011). Swallowing
disorders after ischemic stroke. Arq Neuropsiquiatr;69(5):785-
789.
11. Smithard DG, O’Neill P et al (1998). Can bedside assessment
reliably exclude aspiration following acute stroke? Age
Ageing.;27:99-106.
12. Trapl M, Brainin M et al (2007). Dysphagia bedside screening
for acute-stroke patients the gugging swallowing screen.
Stroke;38:2948-2952.
13. Zhou Z, Salle JI et al (2011). Combined approach in bedside
assessment of aspiration risk post stroke: PASS. Eur J Phys
Rahabil Med;47: 441-6.
Ngày nhận bài báo: 03-04-2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11-04-2014
Ngày bài báo được đăng: 20 – 05 - 2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_roi_loan_nuot_o_benh_nhan_dot_qui_nao_cap_bang_than.pdf