Đánh giá sơ bộ kết quả triển khai luật hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người 2007-2010

KHUYếN NGHị Về hành lang pháp lý ? Cần nhanh chóng ban hành qui trình ghép gan, thận, tim từ nguồn cho chết não ? Về thủ tục hiến tạng sống: Bổ sung thêm các qui định chặt chẽ về các thủ tục hiến khi sống. Nên qui định chỉ ngời cùng huyết thống hoặc ngời thân (chứng minh đợc quan hệ trên hai năm nh Luật một số nớc living related donors) để hạn chếtình trạng trao đổi mua bán. ? Về thủ tục hiến tạng khi chết: + Qui định cụ thể nếu bệnh nhân có đơn hiến khi chết thì có cần sự đồng ý của ngời thân không, nếu cần chỉ rõ ngời thân là ai. + Qui định cụ thể ngời thân nào có quyền quyết định hiến của bệnh nhân chết não trong trờng hợp bệnh nhân không có đơn hiến. + Qui định cụ thể thủ tục đăng ký hiến tạng sau khi chết. ? Về việc tiếp cận thông tin của ngời hiến cho việc nghiên cứu: cần có các qui định cụ thể các đối tợng nào thì đợc tiếp cận khai thác thông tin và các thủ tục cần làm. Những thông tin này là rất cần thiết cho việc phân tích tâm lý, tìm các cách tiếp cận phù hợp vận động cộng đồng hiến chết não. Về việc tổ chức, điều hành Khẩn trơng trình Thủ tớng Chính phủ Đề án thành lập Trung tâm điều phối quốc gia về hiến ghép bộ phận cơ thể ngời. Điều cần nhất hiện nay là phải thành lập đợc Trung tâm điều phối hiến ghép và mạng lới vệ tinh tại các địa phơng đồng thời với việc vận động cộng đồng. Cần sớm đa trung tâm điều phối này đi vào hoạt động để cầm trịch việc nhận tạng từ ngời cho, phân phối đến đúng địa chỉ ngời cần nhận. Nhà nớc cần đầu t cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực, tài chính cho Trung tâm điều phối quốc gia về hiến ghép bộ phận cơ thể ngời, Ngân hàng mô và các cơ sở y tế cấy ghép mô, tạng. Tuyên truyền vận động cộng đồng Điều quan trọng nhất là phải có một chiến dịch tuyên truyền lâu dài và đủ mạnh để tác động vào nhận thức của ngời dân. Cần triển khai các giải pháp đồng bộ và cụ thể.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sơ bộ kết quả triển khai luật hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người 2007-2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29 khi triển khai cần điều chỉnh, bổ sung. PHƯƠNG PHáP Thu thập số liệu sẵn có - Rà soát các văn bản pháp luật liên quan: Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác và các văn bản dưới Luật liên quan. - Các báo cáo của các cơ quan chuyên môn, các đoàn thể liên quan. - Các kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học trong lĩnh vực được tiến hành sau khi Luật ra đời. Thực hiện nghiên cứu định tính bằng phương pháp phỏng vấn sâu các đối tượng liên quan tại Hà Nội: đại diện cơ quan quản lý nhà nước; các nhà cung ứng dịch vụ, kỹ thuật ghép mô, tạng; người đã hiến tạng sống, người dân trong cộng đồng. Báo cáo được thực hiện dựa trên giả định quá trình hoạch định và triển khai chính sách không tuân theo một mô hình tuyến tính. Theo đó, việc thực thi chỉ được hiểu đơn giản là áp dụng các văn bản qui phạm pháp luật vào thực tiễn. Quá trình này được coi là một quá trình tương tác năng động giữa các khâu khác nhau, giữa các vấn đề quản lý, điều hành, kỹ thuật và xã hội. Đánh giá sơ bộ kết quả triển khai Luật Hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người 2007 - 2010 1 ThS. BS. Phan Hồng Vân Mở ĐầU Tháng 11/2006 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể (BPCT) người và hiến lấy xác đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua, có hiệu lực thi hành từ 2 1/7/2007 . Luật ra đời tạo hành lang pháp lý cho đội ngũ thầy thuốc chuyên ngành phẫu thuật ghép tạng yên tâm làm việc và cũng là cơ sở pháp lý để vận động người dân hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Tuy nhiên, cho đến nay khung pháp lý và qui trình thu nhận cũng như phân phối mô, BPCT vẫn chưa được hoàn chỉnh, Trung tâm điều phối hiến ghép quốc gia cũng chưa được thành lập. Đã gần 4 năm kể từ khi Luật có hiệu lực, chuyên ngành kỹ thuật ghép mô, BPCT ở nước ta đã có những bước tiến vượt bậc, song số bệnh nhân được ghép mô, bộ phân cơ thể vẫn còn rất ít so với số người có nhu cầu. Việc đánh giá sơ bộ tình hình triển khai thi hành Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT để phát hiện các khó khăn và thuận lợi, kịp thời điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế là việc hết sức quan trọng hiện nay. Nghiên cứu "Đánh giá sơ bộ việc triển khai Luật Hiến ghép mô, BPCT người 2007 - 2010" đã được tiến hành nhằm tìm hiểu quá trình triển khai thực hiện Luật trong thực tế. Nội dung nghiên cứu bao gồm: (1) Các văn bản qui phạm pháp luật đã được ban hành, kế hoạch hành động triển khai thi hành Luật của Bộ Y tế; (2) Kết quả đạt được sau khi có Luật, kể cả về qui trình kỹ thuật và nguồn cung cấp; (3) Những khó khăn và bất cập nảy sinh trong 1 Trưởng phòng Quản lý Khoa học - Đào tạo - Hợp tác Quốc tế, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. 2 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, Hà Nội. Chính sách - Số 8/2011 Y tế Tạp chí 30 CáC KếT QUả NGHIÊN CứU CHíNH Và BàN LUậN Các văn bản qui phạm pháp luật đã được ban hành và triển khai thực hiện Luật Hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác được xây dựng trên những quan điểm chỉ đạo: (1) Tôn trọng sự tự nguyện của người hiến, người được ghép; (2) Vì mục đích nhân đạo; (3) Không nhằm mục đích thương mại; (4) Giữ bí mật về thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép; (5) Phù hợp với Hiến pháp, Bộ luật dân sự và điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam. Luật gồm 6 chương và 40 điều qui định như sau: Chương I "Những qui định chung"; Chương II "Qui định về hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống"; Chương III "Qui định về hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và hiến, lấy xác"; Chương IV "Ghép mô, bộ phận cơ thể người"; Chương V "Ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người; Chương VI "Điều khoản thi hành". Luật của Việt Nam được xây dựng theo hệ thống chủ động đồng ý. Tại Chương II có các điều cụ thể qui định về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống (điều 12), thay đối, hủy bỏ đơn đăng ký hiến (điều 13), các điều kiện, thủ tục lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống (điều 14), quyền lợi của người đã hiến mô, bộ phận cơ thể người (điều 17). Nếu so sánh với một số nước trên thế giới như Singapore, Pháp, Nhật Bản, Mỹ, v.v... thì việc qui định các quyền lợi đối với người đã hiến mô, bộ phận cơ thể người là rất lớn, thể hiện tính chất nhân đạo và đặc thù của đất nước. Trong khi đó, với các nước trên, người đã hiến mô, bộ phận cơ thể người luôn trên tinh thần tự nguyện và không có bất kỳ 3 một lợi ích vật chất nào . Chương III cũng có các điều qui định về thủ tục đăng ký hiến xác và thủ tục thay đổi, hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết và hiến xác (điều 19, 20). Trong chương này cũng qui định rất cụ thể và chi tiết về chết não và điều kiện xác định chết não (điều 28, 29), thủ tục và thẩm quyền xác định chết não (điều 27). Có điểm cần lưu ý là bác sĩ trực tiếp tham gia ghép mô, bộ phận cơ thể người và bác sĩ đang trực tiếp điều trị cho người chết não không được tham gia nhóm chuyên gia xác định chết não. Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký kế hoạch số 21/KH- BYT ngày 12/1/2007 về việc triển khai thi hành Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và 4 hiến, lấy xác . Tháng 6 năm 2007, Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Luật và lấy ý kiến góp ý dự thảo Nghị định, qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật tại khu vực phía bắc và khu vực phía nam. Đến nay Bộ Y tế đã xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn Luật như sau: Về qui trình kỹ thuật - Quy trình kỹ thuật ghép gan từ người cho sống và Quy trình kỹ thuật ghép thận từ người cho sống (Quyết định số 43/2006/QĐ-BYT ngày 29/12/2006); - Quy định tiêu chuẩn lâm sàng và các trường hợp không áp dụng các tiêu chuẩn lâm sàng để xác định chết não (Quyết định số 32/2007/QĐ- BYT ngày 15/8/2007) Như vậy, ở đây còn thiếu các văn bản qui định qui trình kỹ thuật cho việc ghép mô, tạng từ người cho chết não như qui trình kỹ thuật ghép thận, ghép gan, ghép tim từ người cho chết não. Học viện Quân Y, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Trung ương Huế đang hoàn thiện đề tài cấp nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng và ban hành các qui định này. 3 Nguyễn Huy Quang và Nguyễn Hoàng Phúc (2006), "Một số nội dung quan trọng trong Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác", Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về y tế. Vụ Pháp chế - Bộ Y tế, 2006 (04), trang 2-11. 4 Bộ Y tế (2007), Kế hoạch số 21/KH-BYT, ngày 12/1/2007 về Triển khai thi hành Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, Hà Nội. Nghiên cứu chính sách 31 Hiện nay tại các bệnh viện có tiến hành ghép tạng từ người cho sống đã áp dụng qui trình ghép gan và ghép thận từ người cho sống của Bộ Y tế ban hành. Các quy định tiêu chuẩn chết não đã được á p dụng và đã tiến hành ghép tạng từ người cho chết não với tổng số 18 trường hợp, trong đó ghép thận 15, ghép gan 02 và ghép tim 03 trường hợp. Về điều kiện cơ sở y tế - Quy định về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân sự đối với cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến (Quyết định số 35/2007/QĐ- BYT ngày 05/10/2007); - Quy định điều kiện về tổ chức nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và hồ sơ, thủ tục cấp giấy phép hoạt động của ngân hàng mô (Quyết định số 03/2008/QĐ-BYT ngày 01/02/2008); - Quy định về điều kiện đối với cơ sở y tế lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và trình tự, thủ tục cho phép cơ sở y tế hoạt động (Quyết định số 08/2008/QĐ-BYT ngày 14/02/2008) - Quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng tư vấn lấy, ghép bộ phận cơ thể không tái sinh ở người sống (Quyết định số 06/2008/QĐ- BYT ngày 14/02/2008) Hiện nay, Ngân hàng Mắt đã được chính thức thành lập ngày 28/5/2009, ngày 5/2/2010 chính thức đi vào hoạt động (nhưng Dự á n Ngân hàng Mắt đã bắt đầu từ 2005), với nhân lực chỉ có 4 người, điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, không có mạng lưới vệ tinh ở các địa phương, mạng lưới chân rết tại cộng đồng. Về việc hiến mô, bộ phận cơ thể cả khi sống và sau khi chết - Các mẫu đơn tự nguyện hiến, hủy đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống, sau khi chết và hiến xác; các mẫu thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết và hiến xác (Quyết định số 07/2008/QĐ-BYT ngày 14/02/2008); - Hướng dẫn tư vấn, kiểm tra sức khỏe cho người đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống, hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và người đăng ký hiến xác (Quyết định số 13/2008/QĐ-BYT ngày 12/3/2008). - Thông tư số 01/2008/TT-BYT ngày 22 tháng 01 năm 2008 của Bộ Y tế hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành y tế. Đến nay, Bộ Y tế (Vụ Pháp chế) đã giải quyết theo đề nghị của các bệnh viện lấy, ghép tạng trao nhiều kỷ niệm chương vì sức khỏe nhân dân cho người hiến bộ phận cơ thể người. - Thông tư số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 18 tháng 8 năm 2008 của liên Bộ Y tế - Tài chính hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế, việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người hiến bộ phận cơ thể người (Nhóm 2, Khoản 2, Điều 15) do Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện, đến nay đã cấp cho một số người hiến. Tuy nhiên, trong thực tế, các cơ sở ghép tạng còn lúng túng nên chưa tiến hành các thủ tục cần thiết để cấp kỷ niệm chương cũng như bảo hiểm y tế cho người hiến. Theo phản ánh của người được cấp thẻ bảo hiểm y tế họ không được hưởng 100% mà phải nộp 15% cho cơ quan bảo hiểm khi điều trị tại các cơ sở y tế. (PVS Lãnh đạo Cục Quản lý Khám chữa bệnh) Hiện nay, tất cả các trường hợp hiến tạng từ người cho chết não đều không có thẻ hiến, mà do người nhà được vận động đồng ý cho tạng. Về tổ chức, điều hành Nghị định 56/2008/NĐ-CP đã được ban hành ngày 29/4/2008 về tổ chức, hoạt động của Ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về 5 ghép bộ phận cơ thể người . Tuy nhiên, cho đến nay Trung tâm điều phối hiến ghép mô, tạng vẫn chưa thành lập được mặc dù đã có cơ sở pháp lý là Nghị định 56 và nhu cầu thực tiễn là các cơ sở lấy, ghép tạng cần có một trung tâm để điều phối việc lấy, ghép tạng. Nguyên nhân đến nay chưa 5 Chính phủ (2008), Nghị định số 56/2008/NĐ-CP, ngày 29/4/2008 về Tổ chức, hoạt động của Ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, Hà Nội. Chính sách - Số 8/2011 Y tế Tạp chí 32 thành lập được Trung tâm này do “thiếu cơ sở hạ tầng, thiếu phương tiện trang thiết bị cần thiết, thiếu nhân lực chuyên trách”(phỏng vấn sâu Lãnh đạo Cục Quản lý Khám chữa bệnh). Hướng xử lý của Bộ Y tế hiện nay là: - Trước mắt thành lập Phòng hoặc Trung tâm điều phối ghép bộ phận cơ thể người thuộc Cục Quản lý Khám, chữa bệnh để có nhân lực chuyên trách thực thi việc điều phối ghép, đến khi đủ điều kiện sẽ tách ra thành Trung tâm điều phối quốc gia; - Lập Đề án thành lập Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người; - Lập Dự á n đầu tư xây dựng Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Tuy nhiên, theo một chuyên gia đầu ngành ghép tạng của Việt Nam thì Trung tâm điều phối trước mắt nên đặt một bệnh viện có kinh nghiệm ghép tạng. Bộ phận điều phối phải có kiến thức về ghép tạng, phải được đào tạo về vấn đề này, phải nắm được các trung tâm. Phải giao vào các nơi có làm nhiều như trong Nam có Chợ Rẫy, Bệnh viện 115, ngoài Bắc có Bệnh viện 103, Việt Đức, Viện Nhi, là những nơi có trên 30 ca ghép. Còn dưới 30 ca thì loại ra, anh mới tập làm. (PVS chuyên gia ghép tạng đầu ngành Việt Nam) Khi Trung tâm điều phối đi vào vận hành và có mạng lưới vệ tinh, thì việc vận động cộng đồng tham gia hiến mới có giá trị. Phải ra được quy chế, bộ máy tổ chức của Trung tâm điều phối thì vận động mới đồng bộ. Chứ bây giờ người đến cũng chẳng lấy được. Tôi xây nhà máy rồi thì các vùng nguyên liệu cũng phải có đi... Từ khi có Luật đến giờ đã 3 năm rưỡi rồi chưa thành lập được, rồi cơ quan nó phải có các bộ phận, chân rết đến các nơi chứ (PVS chuyên gia ghép tạng đầu ngành Việt Nam) Như vậy để có thể ra đời một Trung tâm điều phối hiến ghép hoạt động theo đúng các chức năng và nhiệm vụ được qui định cần phải có sự đầu tư lớn của Nhà nước và sự quan tâm của các cơ quan chức năng. Các kết quả đạt được sau khi có Luật Về số lượng, chất lượng các ca ghép và nguồn cho So sánh thời điểm trước và sau khi có Luật Hiến ghép mô, bộ phận cơ thể được thực thi, ta có thể nhận thấy sau khi Luật ra đời, nền y học của nước nhà đã có những bước tiến vượt bậc về công nghệ ghép tạng cả về số lượng và chất lượng. Trước khi có Luật: Có 10 cơ sở y tế tiến hành ghép bộ phận cơ thể từ người cho sống, trường hợp ghép thận đầu tiên ngày 04 tháng 6 năm 1992 và ghép gan đầu tiên ngày 31 tháng 01 năm 2004 tại Bệnh viện 103 - Học viện Quân y. Tổng số ghép khoảng 300 trường hợp. Không có trường hợp nào ghép tạng từ người cho chết não. Sau khi Luật ra đời, số các Trung tâm ghép tạng trong cả nước tăng lên. Hiện nay số cơ sở ghép tạng có 12 cơ sở ghép thận, 4 trung tâm ghép gan và 3 trung tâm ghép tim.  Với các ca ghép tạng từ người cho sống Ca ghép thận từ người cho sống đầu tiên ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1992 tại Bệnh viện 103, Học viện Quân Y, trải qua 15 năm (cho đến 2007) mà con số này chỉ là hơn 200 ca. Trong khi đó, từ sau 1/7/2007 cho đến nay đã có thêm hơn 200 ca. Như vậy, sau khi Luật ra đời cho đến nay chỉ có hơn 3 năm, nhưng số trường hợp được ghép đã tương đương với được ghép trong quãng thời gian 15 năm trước khi có Luật. Chất lượng các ca ghép tốt, thời gian hồi phục nhanh, người hiến không bị ảnh hưởng gì đến sức khỏe sau khi hiến. Đây là thông tin quan trọng khi tuyên truyền vận động hiến khi sống. Hiến thận ghép ở 103 thứ năm tuần này thì thứ sáu tuần sau tôi về. Thời gian làm cũng nhanh mà cũng không có vấn đề gì. Từ hồi hiến cho đến giờ tôi thấy sức khỏe vẫn bình thường, sinh hoạt không có gì thay đổi. (PVS nam 58 tuổi hiến thận sống cho con trai) Ca ghép gan từ người cho sống đầu tiên từ Nghiên cứu chính sách 33 năm 2004 tại Học viện Quân Y. Tính đến tháng 12/2010 tại Việt Nam đã có 16 trường hợp ghép gan từ người cho sống được thực hiện tại 4 trung tâm là Học viện Quân Y, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nhi đồng 2 và Bệnh viện Việt Đức. Không những số các ca ghép tăng lên, mà chất lượng của việc cấy ghép cũng như tình trạng sức khỏe của bệnh nhân sau cấy ghép cũng được cải thiện hơn trước đây rất nhiều do áp dụng các kỹ thuật tiên tiến của y học. Số lượng thay đổi, tỉ lệ biến chứng và tử vong sau mổ giảm đáng kể vì mình làm chuyên nghiệp hơn, có kinh nghiệm hơn, ứng dụng các kỹ thuật mới vào như mổ cả nội soi, thuốc men dùng nhiều thuốc mới nên kết quả điều trị tốt hơn, tác dụng phụ, biến chứng ít đi và tử vong sau mổ cũng ít đi. (PVS chuyên gia hàng đầu ghép tạng ở Việt Nam) Nguồn cho sống cũng có chút ít thay đổi. Trước khi có Luật nguồn cho sống chỉ từ người cùng huyết thống, trong gia đình cho nhau. Nhưng sau khi Luật ra đời, đã xuất hiện một số trường hợp cho sống không cùng huyết thống, không có quan hệ thân quen. Trước đây không có tình trạng không cùng huyết thống. Nhưng gần đây có làm không cùng huyết thống. Ghi nhận có 4 ca ghép thận trong giai đoạn gần đây từ 2009 đến nay ở Bệnh viện......là từ nguồn không cùng huyết thống. Còn 60 ca là cùng huyết thống. Trước đây (trước 1/7/2007) 100% số ca là cùng huyết thống. (PVS chuyên gia hàng đầu ghép tạng ở Việt Nam)  Về các ca ghép từ nguồn cho chết não Trước khi Luật ban hành, các ca cấy ghép chỉ tiến hành dựa vào nguồn cho sống. Nhưng sau khi Luật ban hành, chưa đầy một năm sau (4/2008) đã có những ca ghép từ người cho chết não được ghi nhận tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Học viện Quân Y, Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Trung ương Huế. Tính đến nay có 22 trường hợp được ghép tạng từ người cho chết não được thực hiện tại nước ta gồm: 17 ghép thận, 2 ghép gan, 678 3 ghép tim. Số người cho chết não là 10 người . Tuy số lượng các ca ghép có tăng so với trước đây, nhưng cung cầu vẫn có khoảng cách rất lớn, còn rất xa mới đáp ứng nhu cầu. Chỉ riêng nói về ghép thận thôi. ở Việt Nam, có khoảng 6 triệu người suy thận trong đó có 80.000 ca chuyển sang giai đoạn cuối thì phải hiểu là cần ghép hoặc chuyển sang lọc máu. Hiện nay mình mới ghép được hơn 400 ca tức là còn rất nhiều ca. Số ghép ở nước ngoài khoảng 600 ca. 600 ca với 400 ca ta mới có 1000 ca so với con số 80.000 ca. (PVS chuyên gia đầu ngành ghép tạng Việt Nam) Công nghệ ghép tạng phát triển chậm do thiếu nguồn tạng hiến, đến nay mới có tổng số khoảng 430 trường hợp được ghép tạng tại Việt Nam. Trường hợp ghép mô (giác mạc): Sau khi có Luật, số lượng các ca ghép cũng tăng lên rõ rệt do có thêm nguồn hiến tặng trong nước. Trước 2007 chưa có giác mạc từ người hiến trong nước. Sau khi có Luật, từ năm 2007 đến cuối 2010 Ngân hàng Mắt đã nhận được 185 giác 9 mạc từ 94 người hiến tặng , đến tháng 3/2011 là 199 từ 101 người hiến. Tuy nhiên, con số này mới đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu ghép giác mạc hiện nay. Hiện Bệnh viện Mắt Trung ương có khoảng 1.000 người chờ được ghép giác mạc mới tránh được nguy cơ mù vĩnh viễn, nhưng ngân hàng 6 Lê Trung Hải (2009), Ghép tạng. Một số kiến thức chuyên ngành và qui trình kỹ thuật, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 7 Tuổi trẻ (18/4/2011), Hiến tạng: khó đưa luật vào cuộc sống, TP Hồ Chí Minh. 8 Tuổi trẻ (17/4/2011), Một người nằm xuống, bốn người hồi sinh, TP Hồ Chí Minh. 9 Ngân hàng Mắt, Bệnh viện Mắt Trung ương (2010), Báo cáo Tổng kết Dự á n Ngân hàng Mắt, Hà Nội. Chính sách - Số 8/2011 Y tế Tạp chí 34 Mắt không thể chủ động đặt ra chỉ tiêu giải quyết do phụ thuộc hoàn toàn vào nhận thức và ý nguyện của người cho. (PVS cán bộ Ngân hàng Mắt) Do hiện nay chưa có Trung tâm điều phối hiến ghép quốc gia nên chưa có hoạt động điều phối lấy, ghép tạng. Việc hiến, lấy, ghép tạng chỉ diễn ra trong cơ sở y tế do giám đốc bệnh viện điều hành. Nguồn hiến chết não từ các ca chết não do tai nạn được đưa vào cấp cứu tại các bệnh viện này. Việc tăng các ca ghép từ người hiến chết não rất khó khăn do việc vận động, thuyết phục gia đình người chết não để có một trường hợp hiến là vô cùng cam go. Số người hiến chết não hiện nay trong toàn quốc mới chỉ dừng lại ở con số 10, trong khi mỗi năm có hàng chục nghìn người có nhu cầu ghép tạng. Để có được số bệnh nhân hiến chết não trên, các bệnh viện đã phải dành một cơ số giường hồi sức cấp cứu cho những bệnh nhân chết não để đợi sự đồng ý của gia đình trong thời gian dài, trong khi số giường bệnh cho các bệnh nhân cấp cứu khác không có. Giường hồi sức làm gì có, lúc nào cũng đông kín hết. Tự dưng lại bỏ ra mấy giường cho các trường hợp kia. Trong khi bao nhiêu là bệnh nhân nặng. Đó thực sự là một vấn đề nan giải. (Phỏng vấn sâu thầy thuốc chuyên ngành ghép tạng) Sau khi có Luật, một số người cũng đặt vấn đề đăng ký hiến tạng sau khi chết với các cơ sở y tế, nhưng các bệnh viện còn lúng túng về thủ tục vì khi những người này qua đời nếu không có mạng lưới chân rết thông báo và chuyển kịp thời thì việc hiến này hoàn toàn là vô nghĩa. Cần tiến hành song song đồng bộ việc vận động cộng đồng hiến và việc thành lập Trung tâm điều phối hiến ghép quốc gia. Lấy ví dụ việc vận động cộng đồng đăng ký hiến giác mạc. Cho đến nay Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã vận động được hơn 40.000 người đăng ký hiến giác mạc, nhưng trên thực tế mới có hơn 100 người hiến giác mạc sau khi chết, mà những người này lại không phải là những đối tượng đã đăng ký hiến. Các trường hợp đã hiến tập trung chủ yếu ở một xứ đạo ở Ninh Bình (do có 1 linh mục vận động các thân nhân người chết) và một số điểm quanh Hà Nội. Theo cán bộ của Ngân hàng Mắt thì cũng chỉ lấy được của người hiến ở phạm vi cả đi và về khoảng 300km "Nếu ở Nghệ An là bọn em chịu rồi. Vì khi được báo bệnh viện cho ô tô về lấy sau đó đem lại Bệnh viện để ghép. Chỉ được 3 tiếng đi, 3 tiếng về cộng thời gian tiến hành các thủ tục thì mới kịp. Cần phải có mạng lưới vệ tinh tại các địa phương để lấy và bảo quản giác mạc kịp thời sau đó chuyển về cho Ngân hàng mắt thì việc huy động cộng đồng tham gia hiến mới có thể mở rộng được." (PVS cán bộ Ngân hàng Mắt) Về việc tổ chức, điều hành Tuy Trung tâm điều phối hiến ghép quốc gia và mạng lưới vệ tinh chưa được hình thành, nhưng việc xây dựng các khâu trong một qui trình khép kín, hoàn thiện từ việc hiến cho đến khi cấy ghép thành công đã được chú trọng. Qui trình ghép gan, thận, tim từ người cho chết não đã được đưa vào là một mục tiêu của một Đề tài cấp Nhà nước. Hiện các qui trình này đang xây dựng và hoàn thiện dựa trên việc tham khảo mô hình của các nước đi trước và kinh nghiệm làm thực tế tại các bệnh viện. Khi đề tài nghiệm thu, trong tương lai gần, các qui trình này sẽ được Bộ Y tế ban hành. Tại các bệnh viện có tiến hành ghép tạng, đã tổ chức các đội giải thích, vận động gia đình người chết não đồng ý để người thân họ hiến tạng/mô. Tại Bệnh viện Việt Đức, thành lập nhóm “tư vấn hiến tạng từ người cho chết não” dự định ban đầu là tiến hành truyền thông đại chúng, sau đó là thuyết phục gia đình bệnh nhân chết não hiến tặng nhưng trên thực tế vì nhiều lý do nên đã phải tiến hành thuyết phục gia đình bệnh nhân chết não hiến tạng, sau đó lấy tạng ghép thành công và trên cơ sở đó sẽ tuyên truyền. Nhóm hoạt động trên nguyên tắc khách Nghiên cứu chính sách 35 quan, trung thực, khoa học. Hoạt động của nhóm 10 rất chuyên nghiệp, có qui trình chuẩn . Một số bệnh viện đã có các hoạt động động viên, khuyến khích, tôn vinh người hiến. Như Bệnh viện Mắt Trung ương đã in 250 chiếc đồng hồ để tặng cho các gia đình có người hiến giác mạc và trao giấy "Nghĩa cử cao đẹp" cho 56 gia đình có người hiến giác mạc. Một số trường hợp hiến tạng sống đã được cấp Bảo hiểm y tế. Các vướng mắc nảy sinh trong khi triển khai cần có các điều chỉnh, bổ sung Theo Lãnh đạo Cục Quản lý Khám Chữa bệnh và các chuyên gia ngành ghép tạng, các quy định của Luật Hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến lấy, xác đã được triển khai, tuy nhiên còn một số quy định chưa có tính khả thi như: Vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm và các quy định khác của Luật chưa có chế tài xử phạt theo quy định của pháp luật; Các trường hợp lấy tạng từ người cho chết não để ghép cho người bệnh thời gian qua chưa trường hợp nào được cấp thẻ hiến bộ phận cơ thể người mà do vận động người nhà đồng ý cho tạng, chưa vận động được người đăng ký hiến khi còn sống. Việc lấy tạng hiến từ người cho chết não trong phạm vi bệnh viện tuy không vi phạm quy định pháp luật nhưng khó tạo ra nguồn tạng dồi dào để ghép cho người bệnh; Quy định Chính phủ quyết định thành lập Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người khó thực hiện, thực tế cho thấy sau 4 năm triển khai Luật vẫn chưa thành lập được Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến lấy, xác, thực tế các Bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các cấp chưa vào cuộc, chưa tạo được sự chuyển biến nhận thức của người dân và cộng đồng trong việc hiến mô, bộ phận cơ thể người. Ÿ Ÿ KếT LUậN Luật và các văn bản dưới Luật đã tạo hành lang pháp lý cho ngành công nghệ ghép tạng Việt Nam phát triển. Các qui định về ghép mô, tạng từ nguồn cho sống và nguồn cho chết não tương đối đầy đủ. Một số các qui định còn thiếu như qui trình ghép tim, gan, thận từ nguồn cho chết não đang được nghiên cứu, hoàn thiện để ban hành. Tuy nhiên, một số quy định của Luật còn thiếu cụ thể, tính khả thi chưa cao như trong qui định hiến chết não, quyền nhân thân của người chết não chưa rõ ràng; qui định về hiến tạng sống còn lỏng lẻo vì không qui định rõ quan hệ người cho và người nhận dễ gây hiện tượng tiêu cực. Sau khi có Luật Hiến, lấy, ghép mô, BPCT người, số ca ghép tạng đã tăng lên, các kỹ thuật ghép và điều trị sau ghép có nhiều tiến bộ vượt bậc. Các ca ghép tạng từ người chết não đã được tiến hành. Nguồn cho tạng cũng mở rộng không chỉ từ nguồn cho sống cùng huyết thống mà mở rộng cả cho sống không cùng huyết thống và từ nguồn cho chết não. Việc chưa thành lập được Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người cũng như chưa có nhiều ngân hàng mô, mạng lưới vệ tinh ở các địa phương, cộng tác viên cộng đồng để điều phối các hoạt động hiến ghép mô, tạng dẫn đến tình trạng khó kiểm soát người hiến bộ phận cơ thể ở người sống bán tạng và không tận dụng được nguồn hiến mô, tạng sau khi chết. KHUYếN NGHị Về hành lang pháp lý  Cần nhanh chóng ban hành qui trình ghép gan, thận, tim từ nguồn cho chết não  Về thủ tục hiến tạng sống: Bổ sung thêm các qui định chặt chẽ về các thủ tục hiến khi 10 Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài Chương trình KHCN cấp nhà nước KC10/06-10 "Nghiên cứu triển khai ghép gan, thận lấy từ người cho chết n o", Hà Nội. Chính sách - Số 8/2011 Y tế Tạp chí 36 sống. Nên qui định chỉ người cùng huyết thống hoặc người thân (chứng minh được quan hệ trên hai năm như Luật một số nước living related donors) để hạn chế tình trạng trao đổi mua bán.  Về thủ tục hiến tạng khi chết: + Qui định cụ thể nếu bệnh nhân có đơn hiến khi chết thì có cần sự đồng ý của người thân không, nếu cần chỉ rõ người thân là ai. + Qui định cụ thể người thân nào có quyền quyết định hiến của bệnh nhân chết não trong trường hợp bệnh nhân không có đơn hiến. + Qui định cụ thể thủ tục đăng ký hiến tạng sau khi chết.  Về việc tiếp cận thông tin của người hiến cho việc nghiên cứu: cần có các qui định cụ thể các đối tượng nào thì được tiếp cận khai thác thông tin và các thủ tục cần làm. Những thông tin này là rất cần thiết cho việc phân tích tâm lý, tìm các cách tiếp cận phù hợp vận động cộng đồng hiến chết não. Về việc tổ chức, điều hành Khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ Đề án thành lập Trung tâm điều phối quốc gia về hiến ghép bộ phận cơ thể người. Điều cần nhất hiện nay là phải thành lập được Trung tâm điều phối hiến ghép và mạng lưới vệ tinh tại các địa phương đồng thời với việc vận động cộng đồng. Cần sớm đưa trung tâm điều phối này đi vào hoạt động để cầm trịch việc nhận tạng từ người cho, phân phối đến đúng địa chỉ người cần nhận. Nhà nước cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực, tài chính cho Trung tâm điều phối quốc gia về hiến ghép bộ phận cơ thể người, Ngân hàng mô và các cơ sở y tế cấy ghép mô, tạng. Tuyên truyền vận động cộng đồng Điều quan trọng nhất là phải có một chiến dịch tuyên truyền lâu dài và đủ mạnh để tác động vào nhận thức của người dân. Cần triển khai các giải pháp đồng bộ và cụ thể. TàI LIệU THAM KHảO 1 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, Hà Nội. 2 Nguyễn Huy Quang và Nguyễn Hoàng Phúc (2006), "Một số nội dung quan trọng trong Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác", Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về y tế. Vụ Pháp chế - Bộ Y tế, 2006 (04), trang 2-11. 3 Bộ Y tế (2007), Kế hoạch số 21/KH-BYT, ngày 12/1/2007 về Triển khai thi hành Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, Hà Nội. 4 Chính phủ (2008), Nghị định số 56/2008/NĐ-CP, ngày 29/4/2008 về Tổ chức, hoạt động của Ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, Hà Nội. 5 Lê Trung Hải (2009), Ghép tạng. Một số kiến thức chuyên ngành và qui trình kỹ thuật, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 6 Tuổi trẻ (18/4/2011), Hiến tạng: khó đưa luật vào cuộc sống, TP. Hồ Chí Minh. 7 Tuổi trẻ (17/4/2011), Một người nằm xuống, bốn người hồi sinh, TP. Hồ Chí Minh. 8 Ngân hàng Mắt, Bệnh viện Mắt Trung ương (2010), Báo cáo Tổng kết Dự á n Ngân hàng Mắt, Hà Nội. 9 Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài Chương trình KHCN cấp nhà nước KC10/06-10 "Nghiên cứu triển khai ghép gan, thận lấy từ người cho chết não", Hà Nội. Nghiên cứu chính sách

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_so_bo_ket_qua_trien_khai_luat_hien_ghep_mo_bo_phan.pdf
Tài liệu liên quan