Về các yếu tố liên quan đến sự cải thiện CLCS sau
phẫu thuật, nghiên cứu cho biết tuổi càng cao sự cải
thiện CLCS càng ít hơn nhóm tuổi trẻ. Kamuzi cũng
đã báo cáo kết quả tương tự [10]. Theo các tác giả ở
các bệnh nhân lớn tuổi sự thoái hoá hệ xương khớp
nhiều hơn và hệ cơ yếu hơn so với nhóm trẻ tuổi đã
góp phần vào kết quả này [11], [13]. BMI cũng được
tìm thấy có liên quan đến sự cải thiện CLCS của người
bệnh sau phẫu thuật từ nghiên cứu (p<0,05). Những
bệnh nhân có BMI được xếp vào nhóm gầy, thừa cân
và béo phì đều có điểm TB SF-36 thay đổi sau phẫu
thuật ít hơn nhóm có BMI bình thường 9,26 điểm.
Chúng tôi chưa tìm thấy ảnh hưởng của BMI thấp
với cải thiện CLCS sau phẫu thuật của những bệnh
nhân THCS ở những nghiên cứu trước đây, tuy nhiên
nhiều nghiên cứu trên thế giới đã báo cáo mối liên
quan giữa chỉ số BMI cao và sự cải thiện CLCS sau
phẫu thuật ở những bệnh nhân THCS. Jeffrey và
cộng sự đã cho biết những bệnh nhân THCS có chỉ
số BMI ≥ 30 có sự cải thiện điểm SF-36 về chức năng
thể chất kém hơn những bệnh nhân có chỉ số BMI <
30 [7]. Nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan
giữa béo phì và biến chứng sau phẫu thuật cột sống,
làm cho thời gian hồi phục kéo dài hơn và vì thế
giải thích CLCS của họ kém hơn những bệnh nhân
khác [7]. Một điểm ngạc nhiên là kết quả nghiên
cứu cho biết những người có bệnh kèm có CLCS cải
thiện nhiều hơn sau phẫu thuật THCS. Phát hiện này
không nhất quán với các nghiên cứu trước đây trên
thế giới. Có lẽ rằng phẫu thuật THCS thành công đã
giúp loại bỏ được một bệnh lý ở những người trước
đây có nhiều bệnh kèm. Điều này đã làm cải thiện
các yếu tố tinh thần như lo âu, bi quan ở người bệnh,
và vì thế đã cải thiện CLCS của họ.
Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa
cải thiện CLCS của những bệnh nhân THCS sau phẫu
thuật với các yếu tố khác như giới, nơi ở, nghề
nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế, tình
trạng hôn nhân, loại thoái hoá, thời gian mắc, loại
phẫu thuật và biến chứng phẫu thuật.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sự cải thiện chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân thoái hoá cột sống thắt lưng sau phẫu thuật tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
16
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoàng Lan, email: nhlan@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 30/3/2020; Ngày đồng ý đăng: 28/8/2020
Đánh giá sự cải thiện chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân thoái
hoá cột sống thắt lưng sau phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa tỉnh
Quảng Ngãi
Nguyễn Hoàng Lan1, Trương Đình Thống2
(1) Khoa Y tế công cộng, Trường Đại học Y Dược Huế, Đại học Huế
(2) Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi
Tóm tắt
Mục tiêu: So sánh chất lượng cuộc sống trước và sau phẫu thuật thoái hoá cột sống một tháng và tìm
hiểu các yếu tố liên quan đến sự cải thiện chất lượng cuộc sống ở đối tượng nghiên cứu sau phẫu thuật. Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán thoái hoá cột
sống thắt lưng bị biến chứng có chỉ định phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi. Thang đo SF-36
được sử dụng để đo lường chất lượng cuộc sống của người bệnh. Kết quả: Chất lượng cuộc sống sau phẫu
thuật của người bệnh cải thiện đáng kể ở tất cả các lĩnh vực, trong đó cải thiện nhiều nhất là tình trạng đau
và chức năng xã hội. Chức năng thể chất và vai trò thể chất được cải thiện ít nhất. Kết luận: Các yếu tố ảnh
hưởng đến sự cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh sau phẫu thuật thoái hoá cột sống thắt lưng là
tuổi, BMI và bệnh kèm.
Từ khoá: Thoái hoá cột sống thắt lưng, phẫu thuật, chất lượng cuộc sống, SF-36, Quảng Ngãi
Abstract
Assessment of improvement on quality of life among patients
undergoing surgery for treatment of degenerative lumbar spine in
Quang Ngai General Hospital
Nguyen Hoang Lan1, Truong Dinh Thong2
(1) Faculty of Public Health, Hue University of Medicine & Pharmacy, Hue University
(2) Quang Ngai General Hospital
Objectives: To compare quality of life of patients before and one- month after spinal surgery and to
identify factors affecting improvement on their quality of life. Materials and Methods: A longitudinal
study was conducted in 60 patients who were diagnosed with complicated degenerative lumbar spine and
scheduled for surgery of spine at Quang Ngai General Hospital. The SF-36 scale was used to evaluate quality
of life of the patients. Results: Findings showed that quality of life after surgery of patients was improved
significantly in all components. The better change was found in items of bodily paint and social functioning
while the least improvement was reported in physical functioning and role physical. Conclusion: Factors
affecting improvement on quality of life of patients after degenerative lumbar surgery were age, BMI and
accompanied diseases
Key words: degenerative lumbar disease, surgery, quality of life, SF-36, Quang Ngai
DOI: 10.34071/jmp.2020.4.2
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hóa cột sống (THCS) là bệnh gặp nhiều ở
độ tuổi trung niên và người cao tuổi. THCS cột sống
cổ và thắt lưng là thường gặp nhất, trong đó THCS
thắt lưng là nguyên nhân gây tàn tật phổ biến trên
thế giới. Ước tính khoảng 3,63% dân số toàn cầu bị
THCS thắt lưng và đau vùng thắt lưng [17]. Tại Việt
Nam, hiện nay tỷ lệ những người ở độ tuổi từ 50 trở
lên mắc các bệnh về xương khớp khoảng 80%, trong
đó thoái hóa cột sống (THCS) thắt lưng chiếm 32%
[3]. Biến chứng của THCS thắt lưng bao gồm những
bệnh lý như trượt đốt sống, thoát vị đĩa đệm và hẹp
ống sống thắt lưng, thường đặc trưng triệu chứng
đau và hạn chế vận động[17]. Phẫu thuật được
chỉ định khi bệnh nhân THCS thắt lưng không đáp
ứng điều trị nội khoa; đau trầm trọng và co cơ ảnh
hưởng đến các hoạt động chức năng bình thường.
Đây là nguyên nhân phổ biến gây mất năng suất lao
động và giảm chất lượng cuộc sống ở người bệnh
THCS [14].
Mục đích của phẫu thuật là để cải thiện triệu
chứng đau và phục hồi chức năng người bệnh, qua
17
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
đó cải thiện chất lượng cuộc sống (CLCS) của họ.
Nghiên cứu của José Antonio và cộng sự đánh giá
CLCS của 538 bệnh nhân mắc bệnh xương khớp cần
can thiệp phẫu thuật ở Tây Ban Nha sử dụng thang
đo SF-36 cho biết điểm về sức khoẻ thể chất và tinh
thần của nhóm bệnh nhân bị THCS thắt lưng kém
hơn các bệnh nhân mắc các bệnh khác [9]. Tác giả
Hoàng Thị Quỳnh Anh sử dụng bộ công cụ EQ-5D-5L
đánh giá CLCS của các bệnh nhân trượt đốt sống ở
Hà Nội cho kết quả phần lớn bệnh nhân ở mọi độ
tuổi đều có vấn đề ở tất cả các lĩnh vực của CLCS
[1]. Trên thế giới, phẫu thuật thoái hoá cột sống có
xu hướng tăng lên [14]. Nhiều nghiên cứu cho thấy
phẫu thuật đã làm cải thiện đáng kể CLCS của người
bệnh THCS.
Một nghiên cứu ở Tây Ban Nha đã so sánh
CLCS của 263 bệnh nhân THCS trước và hai năm
sau mổ cho thấy có sự cải thiện đáng kể về CLCS
và sự hài lòng của người bệnh [6], [15]. Ở Nhật tác
giả Kazufumi đã báo cáo điểm SF-36 tăng đáng kể
ở tất cả các lĩnh vực của 94 bệnh nhân THCS thắt
lưng một năm sau phẫu thuật [13]. Ở Việt Nam các
nghiên cứu về phẫu thuật THCS chủ yếu tập trung
vào so sánh hiệu quả của các phương pháp phẫu
thuật, nhưng rất ít các nghiên cứu đánh giá sự cải
thiện CLCS sau phẫu thuật. Nhằm giúp cho các bác
sĩ lâm sàng có thêm bằng chứng để đánh giá toàn
diện kết quả điều trị, chúng tôi thực hiện nghiên
cứu "Đánh giá sự cải thiện chất lượng cuộc sống
của các bệnh nhân thoái hoá cột sống thắt lưng sau
phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi"
với hai mục tiêu: 1) So sánh chất lượng cuộc sống
của các bệnh nhân thoái hoá cột sống trước và sau
phẫu thuật tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi;
và 2) Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến sự cải thiện
chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật ở đối tượng
nghiên cứu.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán thoái hóa cột sống
thắt lưng có biến chứng có chỉ định phẫu thuật vào
điều trị tại khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Đa Khoa
tỉnh Quảng Ngãi từ tháng 4/2018 đến hết tháng
05/2019 đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn
chẩn đoán xác định bệnh nhân THCS thắt lưng có
biến chứng bao gồm: đau lưng kéo dài, lan xuống
một hoặc hai chân; đi cách hồi; X quang và MRI có
hình ảnh bệnh lý thoái hoá: thoát vị đĩa đệm, trượt
đốt sống, hẹp ống sống [4]. Nghiên cứu không bao
gồm các bệnh nhân bị lao, u vùng cột sống thắt lưng,
viêm cột sống dính khớp, gãy cột sống và gãy xương
chi dưới vừa mới phẫu thuật, bệnh nhân có tiền sử
mổ cột sống thắt lưng hoặc đang có nhiễm trùng tại
chỗ vùng thắt lưng; những bệnh nhân có mắc các
bệnh kèm nặng như ung thư, đái tháo đường, suy
thận mãn đang lọc máu, di chứng tai biến mạch
máu não, rối loạn tâm thần, suy nhược cơ thể nặng,
những bệnh nhân chuyển viện hoặc không theo đủ
liệu trình điều trị tại bệnh viện.
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu so sánh trước sau can thiệp không
có nhóm chứng (longitudinal study)
2.3. Cỡ mẫu
Mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên cứu, tổng
cộng có 60 bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn nghiên
cứu.
2.4. Phương pháp thu thập thông tin và nguồn
thông tin
Thông tin được thu thập qua hai giai đoạn
- Giai đoạn 1: trước phẫu thuật đối tượng nghiên
cứu được phỏng vấn trực tiếp dựa vào bộ câu hỏi
được thiết kế. Nội dung bộ câu hỏi gồm hai phần,
phần 1 là các câu hỏi về thông tin đặc điểm nhân
khẩu học, kinh tế, xã hội và đặc điểm bệnh tật của
người bệnh. Phần 2 là bộ câu hỏi SF-36 để thu thập
thông tin về CLCS trước mổ.
- Giai đoạn 2: Khi ra viện, mỗi bệnh nhân có giấy
hẹn tái khám sau 1 tháng kể từ khi xuất viện. Tại
thời điểm bệnh nhân đến tái khám, bộ câu hỏi SF-
36 được sử dụng để thu thập thông tin về CLCS sau
phẫu thuật.
Quá trình thu thập thông tin đã được thực hiện
tại Khoa Ngoại - Thần kinh, Bệnh viện đa khoa tỉnh
Quảng Ngãi. Quá trình thu thập thông tin được thực
hiện ở hai nơi: tại phòng khám bác sĩ phẫu thuật là
người khám và ghi nhận các triệu chứng về cơ năng
và thực thể của người bệnh, tại bệnh phòng điều
dưỡng phỏng vấn bệnh nhân về thông tin người
bệnh và hướng dẫn họ tự điền vào bộ câu hỏi SF-36.
Những điều dưỡng này đã được tập huấn về kỹ năng
phỏng vấn. Đối với những người bệnh không biết hay
khó đọc chữ, điều dưỡng sẽ đọc và điền phiếu theo
sự lựa chọn của người bệnh. Phần thông tin người
bệnh chỉ được thu thập lần đầu tiên khi vào viện,
phần nội dung SF-36 được khảo sát hai lần trước
phẫu thuật và ra viện sau phẫu thuật một tháng.
2.5. Bộ công cụ đo lường chất lượng cuộc sống
SF-36
Bộ công cụ SF-36, gồm 36 câu hỏi để đánh giá
8 yếu tố bao gồm sức khoẻ thể chất, hạn chế hoạt
động do sức khoẻ thể chất, đau, sức khoẻ chung,
sức sống, chức năng xã hội, hạn chế hoạt động do
sức khoẻ tinh thần, sức khoẻ tinh thần. Mỗi câu trả
lời đều có điểm số thay đổi từ 0 đến 100. Tổng điểm
CLCS sẽ bằng điểm trung bình của các lĩnh vực, dao
18
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
động từ 0-100, điểm càng cao phản ánh chất lượng
cuộc sống càng tốt [18].
2.6. Các đánh giá một số biến số chính về đặc
điểm người bệnh
- Kinh tế gia đình được phân theo ba nhóm theo
hộ gia đình: nghèo, cận nghèo, bình thường theo
Quy định của Chính phủ [2]
- Nghề nghiệp: chia làm hai nhóm có/không lao
động chân tay dựa vào mức độ hoạt động thể lực
của người bệnh. Nhóm lao động chân tay bao gồm
công nhân, nông dân, ngư dân, thợ hồ, Nhóm
không lao động chân tay gồm nhân viên văn phòng,
hưu trí, nội trợ,
- BMI: đánh giá theo tiêu chuẩn của IDI & WPRO
[5]
- Bệnh kèm: ở nghiên cứu này chúng tôi phân
làm ba nhóm: không có bệnh kèm, tăng huyết áp và
các bệnh mãn tính khác. Do hạn chế về quy mô và
năng lực của bệnh viện các bệnh nhân có hai bệnh
kèm trở lên hoặc các bệnh kèm nặng thường được
chuyển tuyến.
- Phân loại thoái hoá cột sống: ở nghiên cứu
này tất cả những bệnh nhân được phẫu thuật đều
bị thoái hoá cột sống thắt lưng và thuộc một trong
ba nhóm sau: thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống, tổn
thương phối hợp
- Phương pháp điều trị phẫu thuật thoái hoá cột
sống thắt lưng: tất cả các bệnh nhân đều được phẫu
thuật cột sống thắt lưng gồm các phương pháp lấy
nhân đệm và làm cứng cột sống bằng nẹp vít.
2.7. Phân tích số liệu
- Phân tích mô tả được tính theo tần suất, tỷ lệ
%, trung bình, trung vị, min, max
- Phân tích suy luận sử dụng Wilcoxon signed-
ranked test để so sánh sự khác biệt của các yếu tố
trước và sau phẫu thuật do dữ liệu không phân bố
chuẩn. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến được áp
dụng để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS sau
phẫu thuật và sự cải thiện về CLCS.
- Mức α = 0,05 được chọn để xác định các kết
quả có ý nghĩa thống kê.
2.7. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu đã được
phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức nghiên cứu y sinh
học của Trường Đại học Y Dược Huế.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
- Đặc điểm về nhân khẩu học, kinh tế - xã hội:
trong số 60 người bệnh THCS tham gia nghiên cứu,
số bệnh nhân nam và nữ chiếm tỷ lệ bằng nhau
(50%), số bệnh nhân trên 50 tuổi chiếm đa số
(66,7%). Có 11 bệnh nhân là người dân tộc thiểu
số, chiếm 18,3% tổng số người bệnh. Phần lớn đối
tượng nghiên cứu cư trú ở nông thôn, chiếm 85%.
Đa số bệnh nhân đều có trình độ học vấn thấp với
55% bệnh nhân có trình độ học vấn tiểu học và
13,3% người bệnh không biết chữ. Hầu hết họ là
những người lao động chân tay (86,7%). Có 26,6%
và 11,7% người bệnh thuộc hộ gia đình nghèo và
cận nghèo, theo thứ tự. Chỉ có 2 người chiếm tỷ lệ
3,3% sống một mình. Hầu hết bệnh nhân đang duy
trì tình trạng hôn nhân (86,7%) và tất cả họ đều có
thẻ bảo hiểm y tế.
- Đặc điểm về bệnh tật: 51,7% số người bệnh có
chỉ số BMI bình thường, có 18,3 và 16,7% số người
bệnh bị thừa cân và béo phì, theo thứ tự. Có 13
người bệnh có bệnh kèm theo, trong đó có 6 người
bị cao huyết áp, chiếm 10% số bệnh nhân nghiên
cứu. Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán thoái
hoá cột sống thắt lưng có biến chứng, trong đó 37
người được chẩn đoán thoát vị đĩa đệm (61,7%), có
9 người (15%) bị trượt đốt sống và 14 người (23,3%)
có tổn thương phối hợp. Hơn một nửa số bệnh nhân
mắc bệnh trên 2 năm (55%), số mới mắc từ 6 tháng
đến 1 năm chỉ có 1 người, chiếm 1,7%. Phương pháp
phẫu thuật chủ yếu được sử dụng là lấy nhân đệm
và làm cứng cột sống ở 54 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ
90% số người bệnh nghiên cứu, số còn lại (6 người)
được phẫu thuật lấy nhân đệm. Chỉ có 2 người bệnh
(3,3%) được ghi nhận có biến chứng phẫu thuật.
3.2. Chất lượng cuộc sống
Bảng 1. Thay đổi chất lượng cuộc sống của người bệnh trước và sau phẫu thuật
thoái hoá cột sống một tháng
Nội dung
Điểm trung bình (SD)
p
Trước PT Sau PT
Chênh lệch sau và
trước PT
Sức khỏe thể chất (PF) 37,4 (15,7) 48,2 (18,1) 10,8 (17,4) < 0,001
Vai trò hoạt động thể lực (RP) 7,5 (15,4) 14,2 (24,1) 6,7 (22,0) 0,023
Vai trò của cảm xúc (RE) 8,9 (17,2) 23,9 (35,8) 15,0 (30,3) 0,001
Sức sống (VT) 36,1 (12,0) 54,6 (16,6) 15,8 (20,1) < 0,001
19
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Sức khỏe tinh thần (MH) 36,4 (13,5) 54,0 (16,1) 17,6 (16,4) < 0,001
Chức năng xã hội (SF) 43,7 (19,0) 67,9 (17,3) 24,1 (22,9) < 0,001
Đau (BP) 35,2 (10,8) 62,6 (14,5) 27,4 (18,2) < 0,001
Sức khỏe tổng quát (GH) 26,3(11,4) 43,3 (17,1) 17,0 (14,8) < 0,001
Chất lượng cuộc sống chung 28,9 (10,4) 46,1(14,5) 17,1 (15,0) < 0,001
Nhận xét: Sau phẫu thuật, CLCS nói chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu đã được cải thiện với điểm
trung bình SF-36 tăng 17,1 (SD=15,0) (p < 0,05). Tất cả các yếu tố đều cho thấy CLCS tốt hơn đáng kể (p<0,05).
Nội dung có CLCS cải thiện nhiều nhất là đau, với điểm trung bình SF-36 tăng lên là 27,4 (SD=18,2); tiếp theo
là chức năng xã hội với điểm trung bình SF-36 tăng lên là 24,1 (SD=22,9). Sức khỏe tinh thần, sức khỏe tổng
quát, sức sống và vai trò cảm xúc cũng tốt lên sau phẫu thuật với điểm trung bình SF-36 lần lượt là 17,6
(SD=16,4); 17,0 (SD=14,8); 15,8 (SD=20,1) và 15,0 (SD=30,3). Vai trò hoạt động thể chất và sức khoẻ thể chất
có sự cải thiện ít nhất, điểm trung bình 6,7 (SD=22,0) và 10,8 (SD=17,4), theo thứ tự.
Bảng 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự cải thiện chất lượng cuộc sống người bệnh
Đặc điểm B SE Giá trị p 95% CI
Tuổi (năm) -0,40 0,19 0,038 -0,78 -0,02
Cư trú nông thôn (thành thị*) -5,52 7,21 0,448 -20,06 9,02
Nam giới (nữ*) -5,34 4,40 0,231 -14,20 3,52
Dân tộc Kinh (thiểu số*) 2,95 6,64 0,659 -10,43 16,33
TĐHV THCS trở xuống (1*) 14,03 9,05 0,128 -4,22 32,26
Lao động chân tay (Không*) 6,16 7,01 0,384 -7,98 20,30
Kinh tế gia đình bình thường (2*) -5,72 5,06 0,264 -15,92 4,48
Độc thân/ly dị/ly thân/goá (3*) -0,88 6,92 0,899 -14,82 13,06
Sống với người thân (4*) -13,30 12,55 0,295 -38,59 12,00
Gầy/thừa cân/béo phì (5*) -9,26 4,50 0,045 -18,33 -0,20
Có bệnh kèm (không*) 16,23 5,95 0,009 4,24 28,22
Thoát vị đĩa đệm (khác*) -4,75 4,42 0,289 -13,66 4,16
Thời gian mắc ≤1 năm (6*) -24,22 16,95 0,160 -58,38 9,93
Có biến chứng PT (không*) -22,43 13,00 0,091 -48,63 3,76
Phẫu thuật lấy nhân đệm (khác*) 2,58 7,24 0,723 -12,02 17,18
* Nhóm tham chiếu biến nhị phân
1: TĐHV TPPT trở lên; 2 Kinh tế gia đình nghèo/cận nghèo; 3 Đang duy trì tình trạng hôn nhân; 4 Sống một
mình; 5 BMI bình thường; 6 Thời gian mắc trên 1 năm
Nhận xét: tuổi, BMI và có bệnh kèm có ảnh hưởng đến sự cải thiện CLCS sau mổ của nhóm đối tượng
nghiên cứu (p<0,05). Bệnh nhân lớn tuổi, BMI bất thường và không có bệnh kèm cải thiện CLCS sau phẫu
thuật kém hơn các nhóm khác. Tuổi tăng 1 năm, điểm trung bình SF-36 chênh lệch giảm 0,4 điểm, những
bệnh nhân có BMI bất thường điểm chênh lệch giảm 9,26 so với nhóm BMI bình thường, những bệnh nhân
có bệnh kèm có điểm chênh lệch cao hơn nhóm không có bệnh kèm là 16,23 điểm. Các yếu tố khác không có
liên quan có ý nghĩa thống kê đến việc cải thiện CLCS bệnh nhân sau phẫu thuật (p>0,05).
4. BÀN LUẬN
Điểm trung bình SF-36 chung của nhóm bệnh
nhân THCS trước phẫu thuật là 28,9 (SD = 10,4). Kết
quả chúng tôi thấp hơn một nghiên cứu tương tự
ở Đà Nẵng trên các bệnh nhân THCS, tác giả đã báo
cáo điểm trung bình SF-36 là 37,3 (SD=11,6) [3]. Sự
khác nhau này có thể là do các bệnh nhân ở nghiên
cứu trên bao gồm tất cả các bệnh nhân THCS, trong
khi nghiên cứu chúng tôi chỉ tập trung các bệnh nhân
THCS thắt lưng có biến chứng được chỉ định phẫu
thuật, đau nhiều hơn và vì thế ảnh hưởng nhiều hơn
tình trạng tinh thần và thể chất của người bệnh. Tuy
nhiên kết quả chúng tôi tương tự với kết quả từ một
nghiên cứu tổng hợp của Nikhil và cộng sự, nhóm
20
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
tác giả đã phân tích trên kết quả đánh giá CLCS của
các bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật cột sống từ 99
bài báo, kết quả báo cáo tổng điểm trung bình SF-
36 của các bệnh nhân THCS trước phẫu thuật được
dao động từ 26,82 (SD=6,9) đến 29,11 (SD=2,7) [14].
Trong tất cả các lĩnh vực được đánh giá bằng công cụ
SF-36, vai trò hoạt động thể lực có điểm trung bình
thấp nhất là 7,5 (SD:15,4) (bảng 1). Đây cũng là lĩnh
vực nhận điểm trung bình thấp nhất đã được báo
cáo ở các nghiên cứu sử dụng công cụ SF-36 để đánh
giá CLCS của những bệnh nhân THCS trước phẫu
thuật [8],[16],[17]. Giải thích kết quả này có thể là
do ở bệnh nhân THCS, đặc biệt là cột sống thắt lưng
ảnh hưởng nhiều đến khả năng vận động làm việc
của bệnh nhân hơn như ngồi, đi lại đã làm giảm các
các hoạt động thể lực, do vậy điểm CLCS của các yếu
tố hạn chế vận động do sức khoẻ thể chất đạt điểm
thấp nhất trong các nghiên cứu. Ở nghiên cứu chúng
tôi vai trò cảm xúc cũng được các bệnh nhân đánh
giá thấp trước phẫu thuật (điểm TB 8,9, SD=17,2).
Kết quả đánh giá CLCS trước phẫu thuật của các
bệnh nhân THCS tại Brazil của tác giả Martins và
cộng sự [12] và tác giả Zhang tại Trung Quốc cũng
cho kết quả tương tự [19]. Các tác giả cũng đã chứng
tỏ rằng lo lắng bởi cuộc phẫu thuật sắp đến đã tác
động xấu đến cảm xúc của người bệnh.
Chất lượng cuộc sống sau khi phẫu thuật trong
nghiên cứu của chúng tôi cải thiện đáng kể ở tất
cả các lĩnh vực và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Điểm trung bình chung SF-36 sau mổ 1
tháng của nhóm bệnh nhân chúng tôi tăng đến 46,1
(SD=14,5). Lĩnh vực đau có điểm chênh lệch cao
nhất (ĐTB: 27,4; SD= 18,2) cho thấy triệu chứng đau
cải thiện nhiều nhất sau PT. Kết quả tương tự cũng
được báo cáo ở nhiều nghiên cứu khác trên thế giới
[10],[13],[16]. Điều này chứng tỏ rằng phẫu thuật
THCS làm cho bệnh nhân giảm triệu chứng đau và
đây là điều mà cả thầy thuốc và bệnh nhân mong
chờ nhất. Nghiên cứu chúng tôi chỉ mới đánh giá
CLCS tại thời điểm một tháng tính từ ngày ra viện
sau phẫu thuật, khoảng thời gian này chưa đủ để
những tổn thương tại chỗ do phẫu thuật cũng như
những ảnh hưởng của cuộc phẫu thuật đến toàn
thân trở lại bình thường, sự hồi phục của bệnh nhân
vẫn còn tiếp tục. Tuy nhiên, sự cải thiện rõ rệt này
ở nhóm bệnh nhân chúng tôi là một tín hiệu tích cực.
Tương tự, tác giả Gustavo đã cho biết triệu chứng
đau và CLCS của những bệnh nhân bị hẹp ống sống
thắt lưng sau phẫu thuật đã cải thiện sau 1 tháng và
tăng dần theo thời gian [10]. Chức năng xã hội được
ghi nhận có điểm trung bình SF-36 tăng lên cao thứ
hai sau đau (ĐTB=24,1; SD=22,9). Tác giả Martins
và cộng sự cũng đã báo cáo kết quả tương tự sau
khi theo dõi CLCS của bệnh nhân sau phẫu thuật hai
năm [12]. Giải thích cho điều này có thể là do giảm
đau đã đưa bệnh nhân trở về với những mối quan
hệ xã hội vốn có, thêm vào đó loại bỏ lo âu về cuộc
phẫu thuật cũng giúp cải thiện cảm xúc và sức khoẻ
tinh thần của người bệnh. Nghiên cứu cũng đã cho
biết điểm SF-36 của lĩnh vực sức khoẻ tinh thần và
vai trò cảm xúc của người bệnh cũng tốt lên đáng
kể sau phẫu thuật (bảng 1). Tuy nhiên nghiên cứu
chúng tôi ghi nhận vai trò hoạt động thể chất và sức
khoẻ thể chất là hai lĩnh vực được cải thiện ít nhất
sau phẫu thuật. Nghiên cứu này chỉ đánh giá CLCS
thời điểm 1 tháng ra viện sau phẫu thuật, như đã đề
cập ở trên, trong thời gian này vết mổ mở vừa mới
lành, ăn uống chưa được nhiều sau sốc phẫu thuật,
sau khi dùng kháng sinh dài ngày, một số bệnh nhân
nặng như teo cơ, liệt, rối loạn cơ tròn thì sau mổ
phải tập phục hồi chức năng thêm thời gian dài, thời
gian này chưa đủ để bệnh nhân có thể quay trở lại
với các hoạt động thể lực trước đây. Mục đích quan
trọng nhất của phẫu thuật các bệnh về xương khớp
là khôi phục lại sức khoẻ thể chất của người bệnh,
tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng để điểm
SF-36 về lĩnh vực này trở về giá trị chuẩn mong đợi là
điều không thể ngay cả sau phẫu thuật 2 năm [13].
Thực vậy, Gustavo báo cáo có 55,2% số bệnh nhân
sau hai năm phẫu thuật quay trở lại công việc của
mình, trong khi tỷ lệ này dao động giữa 73% đến
93% trong tổng số bệnh nhân sau 1 đến 2 năm sau
phẫu thuật những bệnh về vùng thắt lưng [10]. Cần
có những nghiên cứu có thời gian theo dõi dài hơn
để đánh giá sự hồi phục của chức năng này trên
nhóm bệnh nhân THCS đã phẫu thuật ở Việt Nam.
Về các yếu tố liên quan đến sự cải thiện CLCS sau
phẫu thuật, nghiên cứu cho biết tuổi càng cao sự cải
thiện CLCS càng ít hơn nhóm tuổi trẻ. Kamuzi cũng
đã báo cáo kết quả tương tự [10]. Theo các tác giả ở
các bệnh nhân lớn tuổi sự thoái hoá hệ xương khớp
nhiều hơn và hệ cơ yếu hơn so với nhóm trẻ tuổi đã
góp phần vào kết quả này [11], [13]. BMI cũng được
tìm thấy có liên quan đến sự cải thiện CLCS của người
bệnh sau phẫu thuật từ nghiên cứu (p<0,05). Những
bệnh nhân có BMI được xếp vào nhóm gầy, thừa cân
và béo phì đều có điểm TB SF-36 thay đổi sau phẫu
thuật ít hơn nhóm có BMI bình thường 9,26 điểm.
Chúng tôi chưa tìm thấy ảnh hưởng của BMI thấp
với cải thiện CLCS sau phẫu thuật của những bệnh
nhân THCS ở những nghiên cứu trước đây, tuy nhiên
nhiều nghiên cứu trên thế giới đã báo cáo mối liên
quan giữa chỉ số BMI cao và sự cải thiện CLCS sau
phẫu thuật ở những bệnh nhân THCS. Jeffrey và
cộng sự đã cho biết những bệnh nhân THCS có chỉ
số BMI ≥ 30 có sự cải thiện điểm SF-36 về chức năng
21
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
thể chất kém hơn những bệnh nhân có chỉ số BMI <
30 [7]. Nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan
giữa béo phì và biến chứng sau phẫu thuật cột sống,
làm cho thời gian hồi phục kéo dài hơn và vì thế
giải thích CLCS của họ kém hơn những bệnh nhân
khác [7]. Một điểm ngạc nhiên là kết quả nghiên
cứu cho biết những người có bệnh kèm có CLCS cải
thiện nhiều hơn sau phẫu thuật THCS. Phát hiện này
không nhất quán với các nghiên cứu trước đây trên
thế giới. Có lẽ rằng phẫu thuật THCS thành công đã
giúp loại bỏ được một bệnh lý ở những người trước
đây có nhiều bệnh kèm. Điều này đã làm cải thiện
các yếu tố tinh thần như lo âu, bi quan ở người bệnh,
và vì thế đã cải thiện CLCS của họ.
Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa
cải thiện CLCS của những bệnh nhân THCS sau phẫu
thuật với các yếu tố khác như giới, nơi ở, nghề
nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế, tình
trạng hôn nhân, loại thoái hoá, thời gian mắc, loại
phẫu thuật và biến chứng phẫu thuật.
Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu có một số hạn chế cần phải thừa
nhận. Cỡ mẫu nhỏ đã hạn chế việc phát hiện ra
những yếu tố có liên quan với sự cải thiện CLCS sau
phẫu thuật của người bệnh ở phân tích đa biến.
Thêm vào đó thời gian đánh giá CLCS sau phẫu thuật
quá ngắn (một tháng) đã không phản ảnh những
thay đổi CLCS lâu dài ở người bệnh. Cần có những
nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo
dõi dài hơn để có thể phản ảnh toàn diện hơn sự cải
thiện của CLCS sau phẫu thuật THCS.
5. KẾT LUẬN
Có sự cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân sau phẫu thuật thoái hoá cột sống
thắt lưng đã được điều trị ở bệnh viện đa khoa tỉnh
Quảng Ngãi.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự cải thiện chất
lượng cuộc sống của người bệnh là tuổi, BMI và
bệnh kèm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Quỳnh Anh (2016), Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, X Quang và chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân trượt đốt sống thắt lưng, Luận văn thạc sĩ y học,
Trường Đại Học Y Hà Nội.
2. Chính phủ (2015), Quyết định về ban hành chuẩn
nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020,
Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015
3. Phan Tín Dụng (2014), Đánh giá chất lượng sống ở
bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống cổ và thắt lưng đến
điều trị tại khoa Phục hồi chức năng bệnh viện Đà Nẵng
năm 2013-2014, Luận văn chuyên khoa II, Trường Đại Học
Y- Dược Huế
4. Lê Xuân Trung (1997), “Thoát vị đĩa đệm vùng thắt
lưng”, Bệnh học ngoại thần kinh, tập I, trang 305-307, Bộ
môn Ngoại thần kinh, trường Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh
5. Viện dinh dưỡng (2019), Phân loại tình trạng dinh
dưỡng theo WPRO, truy cập ngày 06/9/2019 tại
Documents/Tinh%20hinh%20dd%20nguoi%20trg%20
thanh/bang%203.pdf
6. Dagenais S, Caro J, and Haldeman S (2008), “A
systematic review of low back pain cost of illness studies in
the United States and internationally”, The Spine Journal;
8(1):8-20.
7. Jeffrey AR, Kristen R, Alan SH, et al., (2012), “Does
obesity affect outcomes of treatment for lumbar stenosis
and degenerative spondylolisthesis? Analysis of the
Spine”, Patient Outcomes Research Trial (SPORT) Spine
(Phila Pa 1976); 37(23): 1933–1946
8. Jose AB, Bagó GJ, Garré OJ, et al. (2013), “Evaluation
of health-related quality of life in patients candidate for
spine and other musculoskeletal surgery”, Eur Spine J
22:1002–1009
9. Jose AB, Bagó GJ, Garré OJ, et al. (2015), “Evaluation
of Health Related Quality of Life in Patients Candidate for
Spine Surgery”, The Spine Journal, 2015, 4:4.
10. Gustavo A, João OAR, Leonardo YJA, Vinicius A
de A, et al. Lumbar spinal stenosis: evaluation of pain
and life quality after surgical treatment, columna. 2019;
18(1):37-42.
11. Leonid K, Eli C, and Ella B (2017). The Association
between Imaging Parameters of the Paraspinal Muscles,
Spinal Degeneration, and Low Back Pain. BioMed
Research International, Volume 2017, Article ID 2562957,
14 pages.
12. Martins BN, Ana BSB, Karen WK de O, et al.,
(2018). Influence of anxiety and depression symptoms
on the quality of life in patients undergoing lumbar spine
surgery, Rev Bras Ortop; 53(1): 38-44
13. Miyagishima K, Tsushima E, Ishida K et al. (2017),
“Factors affecting health-related quality of life one year
after lumbar spinal fusion”, Phys Ther Res 20: 36-43.
14. Nikhil R. Nayak, James H. Stephen, Matthew A.
Piazza et al. (2019), “Quality of Life in Patients Undergoing
Spine Surgery: Systematic Review and Meta-Analysis”,
Global Spine Journal, 2019 Feb; 9(1): 67–76.
15. Özdemir E, Paker N, Bugdayci D et al.(2015),
“Quality of life and related factors in degenerative lumbar
spinal stenosis: A controlled study”, Journal of Back and
Musculoskeletal Rehabilitation, 2015;28(4):749-53.
16. Raja RY, Charles F, Albert Y, et al., (2014), “Health-
22
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
related quality of life following decompression compared
to decompression and fusion for degenerative lumbar
spondylolisthesis: a Canadian multicentre study”, J can
chir, Vol. 57, No 4.
17. Vijay MR, Steven SS, Abbas R, et al. (2018),
“Degenerative Lumbar Spine Disease: Estimating Global
Incidence and Worldwide Volume”, Global Spine Journal,
Vol. 8(8) 784-794.
18. Ware JE, & Sherbourne CD (1992), “The MOS
36-Item Short-Form Health Survey (SF-36): I. Conceptual
Framework and Item Selection,”. Medical care, 30:473-
483.
19. Zhang Y, Zhou F and Sun Y (2015), “Assessment of
health-related quality of life using the SF-36 in Chinese
cervical spondylotic myelopathy patients after surgery and
its consistency with neurological function assessment: a
cohort study”. Health and Quality of Life Outcomes (2015)
13:39.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_su_cai_thien_chat_luong_cuoc_song_cua_cac_benh_nhan.pdf