KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tất cả các dung dịch thực phẩm: trà, cà phê, Coca
đều gây nhiễm màu răng bò với các mức độ khác
nhau và tăng theo thời gian tiếp xúc giữa răng bò với
dung dịch thực phẩm, sự thay đổi chủ yếu là giảm
giá trị L*, giá trị a* và b* thay đổi tùy theo loại thực
phẩm. Tại 2 thời điểm đánh giá là 1 và 2 tuần, mức
độ nhiễm màu (∆E*) tăng dần theo thứ tự: Coca <
cà phê < trà. Sự thay đổi màu sắc của răng bò trong
quá trình nhiễm màu bằng ba loại thực phẩm có thể
nhận thấy dễ dàng trên lâm sàng ngay sau 1 ngày
ngâm mẫu.
Nghiên cứu được thực hiện trên răng bò đã nhổ
không phải là trên răng sống, với tính chất vật lí và
hóa học không hoàn toàn giống với răng người trên
lâm sàng, vì vậy sau nghiên cứu in vitro trên răng
động vật, cần thiết tiếp tục thực hiện nghiên cứu
trên răng người nhổ và trên lâm sàng sẽ để đánh giá
chính xác hơn.
Ngoài ra, sự nhiễm màu diễn ra ngoài môi trường
miệng, không chịu ảnh hưởng của các hoạt động
cơ học với tác dụng làm sạch tự nhiên như trong
miệng, do vậy cần có thêm chu kì cơ học để kết quả
sát với thực tế lâm sàng hơn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sự nhiễm màu thực phẩm lên men răng: Nghiên cứu in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Thuỳ Dương, email: nttduong@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2020.3.5
Ngày nhận bài: 15/3/2020; Ngày đồng ý đăng: 26/6/2020
Đánh giá sự nhiễm màu thực phẩm lên men răng: Nghiên cứu in vitro
Nguyễn Thị Thùy Dương1, Bùi Huy Chương1, Nguyễn Thanh Tùng2
(1) Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược Huế, Đại học Huế
(2) Bộ môn Mô phôi-Giải phẫu bệnh-Pháp Y, Trường Đại học Y Dược Huế, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nhiễm màu răng ngoại sinh là tình trạng phổ biến gây ảnh hưởng xấu đến màu sắc răng và
thẩm mỹ. Việc tiêu thụ những dung dịch thực phẩm có màu làm tăng nguy cơ hình thành những vết nhiễm
màu này. Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại dung dịch thực phẩm lên sự nhiễm màu
răng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 80 mẫu răng bò được cắt ra từ 80 răng cửa giữa hàm dưới
của bò được chia ngẫu nhiên làm bốn nhóm (n = 20/nhóm): ngâm trong trà, cà phê, Coca và nước bọt nhân
tạo. Thời gian ngâm mỗi ngày là 15 phút trong 2 tuần. Đánh giá sự thay đổi màu sắc răng bằng các giá trị độ
sáng (L*), độ bảo hòa (a*, b*) và mức độ nhiễm màu (∆E*)của không gian màu CIELAB với máy quang phổ kế
Crystaleye. Kết quả: Trà làm giảm giá trị L* ngay sau 1 ngày ngâm, tăng giá trị a* sau 2 tuần ngâm (p < 0,05),
giá trị b* không thay đổi. Cà phê làm giảm giá trị L* và a* sau 1 ngày ngâm (p < 0,05), giá trị b* không thay
đổi. Coca làm giảm giá trị L* sau 1 ngày ngâm (p < 0,05), giá trị a* và b* không thay đổi. Trong suốt 2 tuần
ngâm trong dung dịch thực phẩm, giá trị ∆E* của cả 3 nhóm lớn hơn 3.7 và tăng dần theo thời gian ngâm. Kết
luận: Trà, cà phê, Coca đều gây nhiễm màu răng bò với các mức độ khác nhau và tăng theo thời gian tiếp xúc
giữa răng bò với dung dịch thực phẩm, sự thay đổi chủ yếu là giảm độ sáng (L*), còn độ bão hòa (a* và b*)
của màu răng thay đổi tùy theo loại thực phẩm. Trong cả hai thời điểm đánh giá là 1 và 2 tuần, mức độ nhiễm
màu (∆E*) tăng dần theo thứ tự: Coca < cà phê < trà.
Từ khóa: trà, cà phê, Coca, máy quang phổ kế, nhiễm màu ngoại sinh.
Abstract
Assesment of dental enamel discoloration by food: An in vitro study
Nguyen Thi Thuy Duong1, Bui Huy Chuong1, Nguyen Thanh Tung2
(1) Odonto-stomatology Faculty, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Histology, Embryology, Pathology and Forensic Department, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Extrinsic tooth discoloration is a common problem with great influence on tooth color and
smile esthetics. Consumption of colored beverages increases the risk of these extrinsic stains formation. The
aim of the present study was to assess the effect of colored beverages on tooth discoloration. Materials and
Methods: 80 bovine specimens were prepared from 80 extracted bovine central incisors and randomly divided
into four groups (n = 20/group): immersed in tea, coffee, cola and artificial saliva (control). The immersed
time was 10 min per day in 1 and 2 weeks. Color changes were evaluated by L*, a*, b* and ∆E* values of
CIELAB system using Crystaleye spectrocolorimeter. Results: Tea caused the L* values decreasingafter 1 day
immersion (p < 0.05), while the a* values increased and the b* values had no changes after 2 week immersion.
Coffee caused the L* and a* values decreasing after 1 day immersion (p < 0.05) while the b* values had no
changes. Cola caused the L* value decreasing after 1 day immersion (p < 0.05) while a* and b* values had no
changes. Following 3 weeks immersions, the color change values (∆E*) of both 3 groups were higher than 3.7
and increased over time.Conclusions: Tea, coffee and cola cause staining on bovine specimens in different
levels, the primarily changes are on lightness decreasing (L*), the saturation (a* and b*) changes depend on
the type of beverages. In all evaluated time points, the highest ∆E* values were observed with tea, coffee
showed lower ∆E* values and cola showed the lowest ∆E* values.
Keywords: tea, coffee, cola, spectrocolorimeter, extrinsic discoloration.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo một nghiên cứu ở Mỹ năm 2000, có tới 34%
dân số trong độ tuổi trưởng thành không hài lòng
với màu răng của mình [12]. Một khảo sát tiến hành
trên 3215 người ở Anh cho thấy 50% trong số người
được khảo sát có nhiễm màu răng [2]. Màu sắc của
35
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
răng bị ảnh hưởng bởi màu sắc nội tại của chúng và
sự hiện diện của những vết nhiễm màu ngoại sinh
trên bề mặt răng [16]. Sự nhiễm màu ngoại sinh là
do sự hấp phụ trực tiếp các chất màu lên bề mặt
men răng hoặc màng phím hay hình thành sau các
phản ứng hóa học của các chất tiền tạo màu trên bề
mặt răng [14]. Sự nhiễm màu này thường xảy ra trên
nhiều răng, đặc biệt ở các mặt răng khó tiếp cận bởi
hoạt động chải rửa. Nguyên nhân gây ra sự nhiễm
màu ngoại sinh rất đa dạng, trong đó một trong
những nguyên nhân phổ biến là do tiêu thụ những
dung dịch thực phẩm có màu như trà, cà phê, rượu
vang, Coca[7]. Những dung dịch thực phẩm này có
thể gây nên những vết nhiễm màu màu nâu trên bề
mặt răng do thành phần chứa những chất màu hoặc
do độ pH thấp của chúng. Với mức độ tiêu thụ các
loại dung dịch thực phẩm trên ngày càng gia tăng,
ảnh hưởng của chúng lên màu sắc răng cần được
hiểu biết một cách đầy đủ [7].
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu
về màu răng và sự nhiễm màu răng, tuy nhiên các
nghiên cứu thường chỉ tập trung vào đánh giá sự
nhiễm màu răng sau tẩy trắng [3], [10]. Kết quả
nghiên cứu của Attin T. và cs cho thấy trà không ảnh
hưởng màu sắc răng sau tẩy trắng, trong khi Cortes
G. và cs cho rằng cà phê và rượu vang gây đổi màu
răng trong và sau quá trình tẩy trắng [3], [6]. Riêng
ở Việt Nam, các nghiên cứu về màu sắc răng, nhiễm
màu răng, tẩy trắng răng còn rất hạn chế. Mai Tùng
Lâm và cs (2018) xác định màu sắc răng tự nhiên
bằng máy quang phổ kế Crystaleye kết luận từ răng
cửa giữa đến răng nhanh, độ sáng giảm dần, độ bão
hòa tăng dần và tông màu vàng-đỏ chiếm ưu thế
[1]. Hiện tại chưa có nghiên cứu nào ở Việt Nam liên
quan nhiễm màu thực phẩm lên men răng.
Do đó, với mục đích đánh giá ảnh hưởng của các
loại dung dịch thực phẩm lên sự nhiễm màu răng,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu:
đánh giá ảnh hưởng của các loại thực phẩm lên sự
thay đổi màu sắc của men răng bò in vitro.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên các răng cửa
giữa hàm trên của bò đã nhổ (bovine teeth) với các
tiêu chuẩn như sau:
- Kích thước thân răng: 2 x 1,5 x 1cm.
- Mặt ngoài trơn láng, không có nứt gãy, không
có tổn thương sâu răng.
- Không có mòn rìa cắn hoặc mòn răng trong giới
hạn 1/3 rìa cắn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu được
thực hiện trong phòng thí nghiệm (in vitro), có
nhóm chứng.
2.2.2. Các bước tiến hành nghiên cứu
2.2.2.1. Chuẩn bị mẫu răng bò
- Thu thập, bảo quản và làm sạch răng bò:
+ Chọn các răng bò theo đúng tiêu chuẩn.
+ Răng bò được khử nhiễm bằng cách ngâm
trong dung dịch thymol 0,1% trong 7 ngày
+ Sau đó răng được cạo vôi và làm sạch mô mềm
bám xung quanh và ngâm trong dung dịch nước
muối sinh lí ở nhiệt độ phòng.
- Chuẩn bị mẫu răng bò:
+ Răng bò được chọn sẽ được cắt thành các mẫu
hình hộp kích thước 5 x 5 x 3 mm ở 1/3 giữa thân
răng bằng đĩa cắt kim cương và tay khoan chậm có
phun nước.
+ Mài nhẵn các mặt bên và đáy của mẫu với giấy
nhám thô và mịn.
+ Đánh bóng kĩ mặt trên của mẫu với bột đánh
bóng, chổi đánh bóng và tay khoan chậm khuỷu.
+ Rửa sạch các mẫu với nước cất, thấm khô mẫu
với khăn vải khô sạch.
+ Đặt mẫu trên tấm nền đen và tiến hành đo
màu bằng máy quang phổ kế Crystaleye trong điều
kiện ánh sáng phòng, từ đó chọn ra được 80 mẫu
đủ tiêu chuẩn là màu 0M3 theo bảng so màu VITA
3D Master.
+ Bôi sơn móng tay không màu lên các mặt bên
và mặt dưới mẫu để cách ly, trừ mặt trên của mẫu.
+ Tiến hành chia 80 mẫu trên thành 4 nhóm lớn,
mỗi nhóm lớn chia thành 2 nhóm nhỏ:
o Nhóm I (T, n = 20): Ngâm trong trà với các
khoảng thời gian khác nhau:
• Nhóm nhỏ T1 (n = 10): ngâm trong trà 1 tuần
• Nhóm nhỏ T2 (n = 10): ngâm trong trà 2 tuần
o Nhóm II (F, n = 20): Ngâm trong cà phê với các
khoảng thời gian khác nhau:
• Nhóm nhỏ F1 (n = 10): ngâm trong cà phê 1
tuần
• Nhóm nhỏ F2 (n = 10): ngâm trong cà phê 2
tuần
o Nhóm III (C, n = 20): Ngâm trong Coca với các
khoảng thời gian khác nhau:
• Nhóm nhỏ C1 (n =10): ngâm trong Coca 1 tuần
• Nhóm nhỏ C2 (n=10): ngâm trong Coca 2 tuần
o Nhóm chứng (N, n=20): Ngâm trong nước
bọt nhân tạo (NBNT) với các khoảng thời gian khác
nhau:
• Nhóm nhỏ N1 (n=10): ngâm trong NBNT 1
tuần
• Nhóm nhỏ N2 (n=10): ngâm trong NBNT 2
tuần
+ Ngâm mẫu trong dung dịch nước muối sinh lí ở
36
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
nhiệt độ phòng chờ đến khi sử dụng.
2.2.2.2. Đánh giá ảnh hưởng của các loại thực
phẩm lên sự thay đổi màu sắc của men răng bò in
vitro
- Các dung dịch thực phẩm được pha chế theo
hướng dẫn của nhà sản xuất:
+ Trà (Trà Lipton, Unilever, Việt Nam): Đổ 150 ml
nước sôi vào cốc, cho túi trà vào ngâm trong 3 phút,
nhúng túi trà 5 lần rồi lấy ra.
+ Cà phê (Nescafe, Nestle, Việt Nam): 1 gói 2g
hòa tan trong 120 ml nước sôi.
+ Coca (Cocacola, Việt Nam): sử dụng trực tiếp
sản phẩm thương mại ngay sau khi mở nắp, không
pha chế.
- Pha chế NBNT: Hòa tan 10g
Carboxymethylycellulose (CMC), 30g D-sorbitol,
840mg NaCl, 1,2g NaK, 150g CaCl
2
,50mg MgCl
2
và
340mg K
2
HPO
2
trong 1l nước cất để thu được NBNT
theo công thức của dung dịch NBNT Taliva [9].
- Ngâm mẫu răng bò trong các dung dịch thực
phẩm:
+ Các nhóm mẫu răng bò được ngâm vào các cốc
thủy tinh riêng, mỗi cốc chứa 30 ml dung dịch thực
phẩm.
+ Thời gian ngâm là 15 phút/ngày trong 1, 2 và 3
tuần cho tất cả các nhóm.
+ Quy trình ngâm mẫu răng bò được thực hiện
ở điều kiện nhiệt độ phòng, NBNT và các dung dịch
thực phẩm được chuẩn bị và thay mới hằng ngày.
+ Giữa các lần ngâm màu thực phẩm, các nhóm
mẫu răng bò được bảo quản trong các lọ riêng biệt
chứa NBNT, đặt trong tủ ấm 37oC.
- Đo màu mẫu răng bò bằng máy quang phổ kế
Crystaleye:
+ Trước khi đo màu, mẫu răng bò được rửa sạch
bằng cách nhúng qua 2 cốc nước cất, mỗi cốc 10 giây
và thấm khô bằng khăn vải khô sạch.
+ Tại các thời điểm D1, D2, D3, D4, D5, D6, D7,
D11 và D14 tương ứng với 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 11 và 14
ngày sau khi ngâm trong màu thực phẩm, 10 mẫu
răng bò của mỗi nhóm T, F, C, N được lấy ra bất kỳ
và đo màu bằng máy quang phổ kế Crystaleye, ghi
nhận các giá trị L*, a*, b* và tính toán giá trị∆E* theo
công thức:
∆E* = (∆L*2 + ∆a*2 + ∆b*2)1/2
Trong đó:
• Giá trị L* biểu thị cho độ sáng nằm từ 0 (đen
hoàn toàn) đến 100 (trắng hoàn toàn).
• Giá trị a* và b* biểu thị giá trị của độ bão hòa
tương ứng với trục màu đỏ - xanh lá và màu vàng
– xanh dương. Giá trị a* dương chỉ màu sắc thuộc
tông màu đỏ và giá trị âm chỉ tông màu xanh lá. Giá
trị b* dương chỉ tông màu vàng và giá trị âm chỉ tông
màu xanh dương
• ∆L*, ∆a*, ∆b* là hiệu số giữa giá trị tại thời
điểm đánh giá và thời điểm D0.
- Tiêu chí đánh giá ảnh hưởng của các loại thực
phẩm lên sự thay đổi màu sắc của men răng bò in
vitro:
+ Đánh giá sự thay đổi của giá trị L*, a*, b*, ∆E*
của mẫu răng bò trong 3 tuần ngâm trong trà, cà
phê, và Coca
+ So sánh giá trị ∆E* của men răng bò trong 3
tuần nhiễm màu bởi trà, cà phê và Coca.
2.3. Xử lí số liệu và phân tích thống kê
Ghi nhận và tính toán giá trị ∆E* bằng phần mềm
Microsoft Excel 2010, xử lí số liệu bằng phần mềm
SPSS 20. Biến số là các giá trị L*, a*, b*, ∆E* của mẫu.
Sử dụng phép kiểm định T-test để so sánh với độ tin
cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p<0,05.
3. KẾT QUẢ
3.1. Ảnh hưởng của NBNT lên sự thay đổi màu sắc của men răng bò in vitro
Bảng 1. Sự thay đổi giá trị L*, a*, b*, ∆E*trong 2 tuần ngâm trong NBNT của răng bò in vitro
Giá trị
Thời điểm
L* (TB±ĐLC) a*(TB±ĐLC) b*(TB±ĐLC) ∆E*(TB±ĐLC)
D0 81,96 ± 0,96 -0,85 ± 0,12 11,7 ± 0,48
D1 81,91 ± 0,74NS -0,83 ± 0,1NS 11,54 ± 0,44NS 0,54 ± 0,26
D2 81,77 ± 0,89 NS -0,89 ± 0,23NS 11,6 ± 0,52NS 1,09 ± 0,46
D3 81,64 ± 1,04 NS -0,95 ± 0,26NS 11,57 ± 0,43NS 1,06 ± 0,56
D4 81,6 ± 0,94NS -0,89 ± 03NS 11,46 ± 0,64NS 1,1 ± 0,54
D5 81,27 ± 0,77NS -0,94 ± 0,27NS 11,69 ± 0,33NS 0,76 ± 0,31
D6 81,29 ± 1,12NS -0,91 ± 0,42NS 11,39 ± 0,57NS 1,2 ± 0,43
D7 80,97 ± 1,22NS -0,81 ± 0,22NS 11,64 ± 0,21NS 0,98 ± 0,67
D9 80,96 ± 0,64NS -0,74 ± 0,36NS 11,35 ± 0,3NS 0,84 ± 0,29
37
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
D11 80,81 ± 0,5NS -0,67 ± 0,34NS 11,55 ± 0,4NS 0,8 ± 0,16
D14 80,81 ± 0,71NS -0,67 ± 0,37NS 11,6 ± 0,38NS 0,84 ± 0,39
Ns: p > 0,05 khi so sánh với giá trị tại ngày D0
Nhận xét: Kết quả cho thấy NBNT làm thay đổi các giá trị L*, a*, b* của răng bò in vitro không có ý nghĩa
thống kê so với màu răng ban đầu.
3.2. Ảnh hưởng của trà lên sự thay đổi màu sắc của men răng bò in vitro
Bảng 2. Sự thay đổi giá trị L*, a*, b*, ∆E*trong 2 tuần nhiễm màu trà trên răng bò in vitro
Giá trị
Thời điểm L* (TB±ĐLC) a*(TB±ĐLC) b*(TB±ĐLC) ∆E*(TB±ĐLC)
D0 82,52 ± 1,3 -0,8 ± 0,45 12,23 ± 1,38 NS
D1 75,67 ± 1,94* -0,84 ± 0,45 NS 10,95 ± 1,76* 7,17 ± 1,96
D2 76,79 ± 1,63* -0,82 ± 0,8 NS 10,08 ± 1,71* 6,4 ± 1,53
D3 74,88 ± 2,76* -0,9 ± 0,63 NS 10,95 ± 1,92* 7,99 ± 2,73
D4 73,75 ± 2,13* -0,84 ± 0,79 NS 10,58 ± 1,51* 9,06 ± 2,19
D5 75,17 ± 1,33* -1,01 ± 0,51 NS 10,76 ± 1,89* 7,7 ± 1,49
D6 71,81 ± 1,78* -0,76 ± 0,53 NS 10,77 ± 1,91* 10,98 ± 1,73
D7 72,55 ± 1,91* -0,86 ± 0,67 NS 9,93 ± 2,04* 10,43 ± 1,92
D9 73,05 ± 1,86* -0,03 ± 1,12 NS 11,26 ± 2,12 NS 9,79 ± 2,03
D11 72,42 ± 1,8* -0,62 ± 0,75 NS 10 ± 1,55* 10,45 ± 1,9
D14 70,07 ± 2,12* 0,46 ± 1,2* 12,13 ± 2,34 NS 12,75 ± 2,16
* : p < 0,05 khi so sánh với giá trị tương ứng trước khi nhiễm màu (ngày 0)
Ns: p > 0,05 khi so sánh với giá trị tương ứng trước khi nhiễm màu (ngày 0)
Nhận xét: Kết quả cho thấy trà gây giảm mạnh giá trị L* của răng bò in vitro. Sau 1 ngày ngâm trong dung
dịch trà, giá trị L* giảm mạnh có ý nghĩa thống kê so với ngày D0 (D0: 82,52 ± 1,3; D1:75,67 ± 1,94) và tiếp tục
giảm cho đến ngày thứ 14 (D14: 70,07 ± 2,12). Trong 2 tuần đầu giá trị a* tăng nhẹ nhưng không có ý nghĩa
thống kê so với ngày D0. Giá trị a* chỉ tăng có ý nghĩa thống kê sau 14 ngày ngâm trong trà (D0: -0,8 ± 0,45;
D14: 0,46 ± 1,2). Giá trị b* có giảm trong tuần đầu tiên, nhưng kết quả ở ngày thứ 14 cho thấy sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê, Trong 2 tuần, toàn bộ giá trị ∆E tăng dần từ ngày 1 (7,17 ± 1,96) tới ngày 7 (10,43
± 1,92) và ngày 14 (12,75 ± 2,16).
3.3. Ảnh hưởng của cà phê lên sự thay đổi màu sắc của men răng bò in vitro
Bảng 3. Sự thay đổi giá trị L*, a*, b*, ∆E*trong 2 tuần nhiễm màu cà phê trên răng bò in vitro
Giá trị
Thời điểm L* (TB±ĐLC) a*(TB±ĐLC) b*(TB±ĐLC) ∆E*(TB±ĐLC)
D0 82,32 ± 1,41 -0,75 ± 0,53 11,46 ± 1,52
D1 77,09 ± 1,33* -1,3 ± 0,41* 11,63 ± 1,11 NS 5,37 ± 1,36
D2 76,56 ± 1,49* -1,22 ± 0,53* 11,68 ± 1,77 NS 6,06 ± 1,43
D3 74,84 ± 1,68* -1,33 ± 0,53* 12,29 ± 1,84 NS 7,76 ± 1,7
D4 74,89 ± 1,75* -1,26 ± 0,56* 12,08 ± 1,52 NS 7,64 ± 1,72
D5 74,33 ± 1,99* -1,17 ± 0,46* 12,11 ± 1,62 NS 8,17 ± 2,05
D6 74,19 ± 2,41* -1,14 ± 0,67NS 11,79 ± 1,84 NS 8,34 ± 2,48
D7 74,23 ± 1,6* -1,56 ± 0,42* 10,33 ± 1,34* 8,32 ± 1,57
D9 74,13 ± 2,17* -1,1 ± 0,73NS 11,35 ± 1,95 NS 8,41 ± 2,28
D11 73,91 ± 2,9* -1,16 ± 0,65NS 12 ± 2,36* 8,71 ± 3,02
D14 73,53 ± 2,5* -1,29 ± 0,51* 10,23 ± 1,45* 9,01 ± 2,53
* : p < 0,05 khi so sánh với giá trị tương ứng trước khi nhiễm màu (ngày 0)
Ns: p > 0,05 khi so sánh với giá trị tương ứng trước khi nhiễm màu (ngày 0)
38
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
Nhận xét: Tương tự như trà, kết quả cho thấy cà phê gây giảm mạnh giá trị L* của răng bò in vitro. Sau 1
ngày ngâm trong cà phê, giá trị L* giảm mạnh có ý nghĩa thống kê so với ngày D0 (D0: 82,32 ± 1,41; D1: 77,09
± 1,33) và tiếp tục giảm cho đến ngày thứ 14 (D14: 73,53 ± 2,5). Cà phê làm thay đổi giá trị a* của răng bò in
vitrotheo chiều hướng giảm (D0: -0,75 ± 0,53; D7: -1,56 ± 0,42, D14: -1,29 ± 0,51). Giá trị b* cũng giảm vào
ngày 7 và ngày 14 (D7: 10,33 ± 1,34, D14: 10,23 ± 1,45). Trong 2 tuần, toàn bộ giá trị ∆E > 0 và tăng dần từ
ngày 1 (5,37 ± 1,36) tới ngày 7 (8,32 ± 1,57) và ngày 14 (9,01 ± 2,53).
3.4. Ảnh hưởng của Coca lên sự thay đổi màu sắc của men răng
Bảng 4. Sự thay đổi giá trị L*, a*, b*, ∆E* trong 2 tuần nhiễm màu Coca trên răng bò in vitro
Giá trị
Thời điểm
L* (TB±ĐLC) a*(TB±ĐLC) b*(TB±ĐLC) ∆E*(TB±ĐLC)
D0 81,85 ± 1,7 -0,99 ± 0,56 11,84 ± 1,22
D1 76,47 ± 1,68* -1,4 ± 0,63 NS 12,44 ± 2,04 NS 5,88 ± 1,31
D2 76,34 ± 1,59* -1,25 ± 0,33 NS 11,89 ± 2,63 NS 6 ± 1,85
D3 76,01 ± 1,75* -1,35 ± 0,3 NS 13,37 ± 2,62 NS 6,47 ± 2,04
D4 76,09 ± 1,17* -1,46 ± 0,46* 10,32 ± 2,09* 6,27 ± 1,41
D5 76,98 ± 1,79* -1,25 ± 0,49 NS 12,06 ± 2,25 NS 5,42 ± 1,55
D6 75,96 ± 1,91* -1,27 ± 0,34 NS 12,66 ± 2,28 NS 6,31 ± 2,04
D7 76,13 ± 1,35* -1,63 ± 0,43* 11,7 ± 3,22 NS 6,44 ± 1,78
D9 77,46 ± 1,62* -1,19 ± 0,56 NS 11,6 ± 3.2 NS 5,18 ± 2,22
D11 75,91 ± 1,48* -1,3 ± 0,48 NS 9,64 ± 2,35* 6,66 ± 1,84
D14 73,63 ± 1,17* -1,27 ± 0,81 NS 11,41 ± 4,05 NS 7,34 ± 1,38
* : p < 0,05 khi so sánh với giá trị tương ứng trước khi nhiễm màu (ngày 0)
Ns: p > 0,05 khi so sánh với giá trị tương ứng trước khi nhiễm màu (ngày 0)
Nhận xét: Tương tự như trà và cà phê, kết quả cho thấy Coca gây giảm mạnh giá trị L* của răng bò in vitro.
Sau 1 ngày ngâm trong Coca, giá trị L* giảm mạnh có ý nghĩa thống kê so với ngày D0 (D0: 81,85 ± 1,7; D1:
76,47 ± 1,68) và tiếp tục giảm cho đến ngày thứ 14 (D14: 73,63 ± 1,17). Trong khi đó, giá trị a* và b* ít thay
đổi do Coca, hầu hết sự thay đổi hai giá trị này trong 2 tuần không có ý nghĩa thống kê. Trong 2 tuần, toàn bộ
giá trị ∆E > 0 và tăng dần từ ngày 1 (5,88 ± 1,31) tới ngày 7 (6,44 ± 1,78) và ngày 14 (7,34 ± 1,38).
3.5. So sánh sự thay đổi màu sắc của răng bò do ba loại thực phẩm: trà, cà phê, Coca
Biểu đồ 1. So sánh giá trị ∆E* của men răng bò trong 2 tuần nhiễm màu bởi trà, cà phê và Coca
* : p < 0,05 khi so sánh với giá trị ∆E* của nhóm chứng (N1 hoặc N2) tại cùng thời điểm.
Nhận xét: Kết quả cho thấy trà, cà phê, Coca đều làm tăng giá trị ∆E của răng bò in vitro sau 1 và 2 tuần có
ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng ngâm trong NBNT. Ở cả 2 thời điểm trên, giá trị ∆E* của các nhóm giảm
dần theo thứ tự: trà > cà phê > cola > chứng.
39
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
4. BÀN LUẬN
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiện nay, trong các nghiên cứu in vitro về nhiễm
màu thực phẩm và tẩy trắng, mẫu được dùng cho
nghiên cứu chủ yếu là răng người đã nhổ [17]. Tuy
nhiên do những hạn chế trong thu thập răng người
làm nghiên cứu như vấn đề tính đồng nhất của răng
và vấn đề y đức, nhiều nghiên cứu chuyển sang thực
hiện in vitro trên răng động vật nhổ, như răng bò,
răng ngựa [17]Trong nghiên cứu này, chúng tôi
thực hiện trên răng cửa giữa hàm dưới của bò đã
được nhổ. Lý do nhổ răng cửa thường do bệnh lý
nha chu ở người già, chấn thương với những vết nứt
men, mòn men răng, thay đổi màu sắcDo đó, việc
thu thập răng cửa người với tiêu chí nguyên vẹn,
đồng nhất về bề mặt như trong nghiên cứu này sẽ
gặp nhiều khó khăn. Việc lựa chọn răng bò sẽ hạn
chế được các khó khăn trên, mặt khác răng cửa giữa
hàm dưới của bò có hình thái giống với răng cửa
giữa hàm trên của người, kích thước lớn hơn giúp
cung cấp mẫu nghiên cứu có bề mặt phẳng hơn so
với răng người. Trên thế giới, răng bò đã được nhiều
tác giả sử dụng trong các nghiên cứu về nhiễm màu
răng và tẩy trắng [4], [13]. Tuy nhiên, theo Pirolo R.
và cs (2014), việc sử dụng răng cửa bò với mặt ngoài
có độ nhám cao hơn so với răng người có thể dẫn
tới làm tăng khả năng hình thành vết nhiễm màu
[13]. Hơn thế nữa, các nghiên cứu thực hiện in vitro
và ex vivo có thể cho kết quả nhiễm màu nhiều và
nhanh hơn trong thực tế. Nguyên nhân do ở trong
môi trường miệng, các dung dịch màu có thời gian
tiếp xúc với răng ngắn hơn do nước bọt trong miệng
được tiết ra liên tục, các hoạt động nhai, nuốt, tác
dụng của các cơ môi, má, lưỡi cũng như chải răng
làm khó hình thành các vết nhiễm màu hơn [16].
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Chuẩn bị mẫu răng
Mẫu được cắt có kích thước 5 x 5 x 3 mm, kích
thước này tương tự với nghiên cứu của Attin T. và cs
(2003) [3]. Độ dày của mẫu là 3 mm gồm cả lớp men
và lớp ngà, nhằm đảm bảo tính chất tán xạ và hấp
thụ ánh sáng trên mẫu tương ứng trên răng nguyên
vẹn. Trên mặt ngoài thân răng, men răng thường
mỏng ở 1/3 cổ và dày ở 1/3 cắn, phía mặt gần phía
mặt xa. Để tránh điều nay, vị trí cắt mẫu nằm ở chính
giữa 1/3 giữa mặt ngoài thân răng để có độ dày men
và ngà răng đồng đều nhất [5].
Mẫu răng được mài nhẵn các mặt bên và đáy
nhưng không mài mặt trên để bảo tồn bề mặt men
răng nguyên vẹn. Tuy nhiêu tính đa dạng về cấu trúc
bề mặt men răng nguyên thủy của mẫu nghiên cứu
có thể làm ảnh hưởng một phần tới tính đồng nhất
của các kết quả đo màu [3]. Sơn móng tay không
màu được dùng để cách ly các mặt bên và mặt dưới
mẫu để dung dịch màu chỉ tiếp xúc với mặt men phía
trên, ngăn sự nhiễm màu xảy ra do ngấm trực tiếp
vào các ống ngà.
4.2.2. Phương pháp đánh giá màu răng
Trong các nghiên cứu về màu răng, phương pháp
đánh giá màu răng bằng thiết bị được sử dụng chủ
yếu do tính khách quan, kết quả thu được nhanh
chóng và có thể định lượng được. Trong nghiên cứu
này chúng tôi sử dụng phương pháp đánh giá màu
răng bằng máy quang phổ kế Crystaleye (Olympus,
Japan). Khi đo, mẫu được đặt trên nền đen để mô
phỏng nền tối của khoang miệng, theo hướng dẫn
của nhà sản xuất [11]. Máy sử dụng phần mềm riêng
Crystaleye Application Master phân tích màu sắc ra
các giá trị L*, a*, b* của không gian màu CIELAB, đây
là không gian màu được sử dụng trong hầu hết các
nghiên cứu về màu sắc răng. Ngoài ra, máy hỗ trợ
phân tích ra kết quả dưới dạng thẻ màu của các bảng
so màu phổ biến. Ở đây chúng tôi chọn đưa ra kết
quả của bảng so màu VITA 3D Master vì đây là bảng
so màu được dùng rộng rãi và là bảng so màu duy
nhất được sắp xếp theo độ sáng. Ở Việt Nam, Mai
Tùng Lâm và cs. (2018) đã sử dụng máy Crystaleye
để xác định màu sắc răng tự nhiên trên nhóm sinh
viên Đại học Y Dược Thái Nguyên [1].
4.2.3. Nhiễm màu thực phẩm
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng các dung
dịch nhiễm màu là trà, cà phê và Coca, đây là
những dung dịch thực phẩm phổ biến ở Việt Nam,
thường tiêu thụ trong đời sống hằng ngày, được
nhiều nghiên cứu chứng minh là gây ra sự nhiễm
màu răng [14]. Nồng độ các dung dịch thực phẩm
có nồng độ pha theo nhà sản xuất, tương đồng
với nghiên cứu của Ertas và cs [8]. Theo nhà sản
xuất, thời lượng tiêu thụ 1 ly cà phê trung bình là
15 phút [8]. Tương ứng với thời gian thực tế này,
mẫu nghiên cứu đươc ngâm trong các dung dịch 15
phút/lần ngâm, 1 ngày/1 lần. Thời gian này tương
tự như trong nghiên cứu của Karadas M. và cs
(2014), Cortes G. và cs (2013) [6], [10].
4.2.4. Nước bọt nhân tạo
Trong quy trình nghiên cứu, mẫu được bảo quản
trong nước bọt nhân tạo ở điều kiện 37oC để các
hoạt động nhiễm màu và tẩy trắng diễn ra tương tự
như trong môi trường miệng. Glycoprotein trong
nước bọt sẽ hình thành lớp màng phím trên bề mặt
răng, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
các vết nhiễm màu ngoại sinh [14]. Nước bọt còn có
vai trò tái khoáng và sửa chữa những khiếm khuyết
gây ra bởi các dung dịch thực phẩm có tính acid
[10]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng NBNT
theo công thức của dung dịch Taliva (Hanlim Pharm,
40
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
Seoul, Korea). Su-Yeon Jo (2013) đã sử dụng dung
dịch Taliva làm NBNT trong nghiên cứu ảnh hưởng
của các loại kem đánh răng lên sự tái khoáng của các
tổn thương đốm trắng [9].
4.3. Đánh giá ảnh hưởng của các loại thực phẩm
lên sự thay đổi màu sắc của men răng bò in vitro
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cả 3
dung dịch trà, cà phê, Coca đều làm tăng giá trị ∆E*
có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng ở mọi thời
điểm khảo sát và tăng dần theo thời gian chứng tỏ 3
dung dịch này đều gây nhiễm màu răng theo những
mức độ khác nhau. Cụ thể, trong 2 tuần, giá trị L*
đều giảm ở cả ba nhóm trà, cà phê, Coca, nghĩa là
các màu thực phẩm này đều làm răng tối màu hơn.
Đối với nhóm trà, giá trị a* < 0 và tăng dần trong khi
giá trị b*> 0 và không thay đổi, nghĩa là răng có xu
hướng tăng sắc vàng, chuyển dần sang sắc đỏ, sắc
lục không đổi. Trong khi đó, ở nhóm cà phê, giá trị
a* 0 và đều giảm dần, chứng tỏ có
tăng sắc lục và giảm sắc vàng ở nhóm này. ê. Các
giá trị a* và b* của nhóm Coca lại không thay đổi
trong suốt 2 tuần ngâm, răng chỉ tối đi chứ sắc màu
ít biến động. So sánh về độ thay đổi màu sắc (∆E*),
mức độ nhiễm màu tăng dần theo thứ tự: Coca < cà
phê < trà.
Như vậy, các thực phẩm đều có ảnh hưởng lên
độ sáng tối của răng nhưng sự thay đổi độ bão hòa
của màu do đặc điểm của từng loại thực phẩm quyết
định. Sự nhiễm màu răng xảy ra dựa vào hiện tượng
hấp thụ và hấp phụ của chất màu trên răng và phụ
thuộc vào giá trị pH, thành phần của dung dịch màu
(cồn, chất tạo màu) của dung dịch nhiễm màu [3].
Coca là loại thực phẩm có tính acid, do đó có thể
gây hòa tan bề mặt men răng, tăng độ xốp của men
răng, làm cho chất màu dễ bám dính và thấm nhập
vào bề mặt men răng. Trà và cà phê lại gây nhiễm
màu răng do có chứa những chất tạo màu có màu
vàng (yellow colorant) gọi là Tannin với độ phân cực
khác nhau. Chất tạo màu có trong trà có độ phân
cực cao hơn so với chất tạo màu trong cà phê nên
dễ hấp phụ lên bề mặt răng hơn. Ngoài ra, pH của
trà cũng thấp hơn cà phê, do đó trà gây nhiễm màu
nhiều hơn cà phê [8], [15]. Những đặc tính trên của
dung dịch thực phẩm giải thích cho mức độ nhiễm
màu trong 2 tuần tăng dần theo thứ tự: Coca < cà
phê < trà. Nghiên cứu của Karadas M. và cs (2014)
về ảnh hưởng của các loại thức uống khác nhau lên
màu sắc răng sau tẩy trắng cho kết quả tương tự
là trà và rượu vang gây nhiễm màu răng nhiều hơn
so với Coca sau 15 phút và 6 giờ nhiễm màu [10].
Một nghiên cứu khác của Ertas E. và cs (2006) về sự
ổn định màu sắc composite sau khi ngâm trong các
thức uống khác nhau cho thấy sự nhiễm màu theo
thứ tự cà phê > trà > Coca [8]. Sự khác nhau này có
lẽ do vật liệu sử dụng trong nghiên cứu là composite
thay vì răng thật, thời gian ngâm mẫu liên tục, không
có khoảng nghỉ (ngâm trong NBNT). Theo Um C. M.
và Ruyter I. E., cà phê có thể hấp phụ và hấp thụ trên
bề mặt vật liệu, chất tạo màu trong cà phê có khả
năng thấm nhập vào bên trong do khả năng tương
hợp với pha polymer của vật liệu composite [15].
Theo Bazzi J.Z., ngưỡng cảm nhận sự thay đổi
màu sắc bằng mắt thường được thể hiện qua giá trị
∆E*. Đối với các giá trị ∆E* < 1,5 thì không thể phát
hiện được bằng mắt thường, chỉ đo được với máy
quang phổ kế. Giá trị ∆E* nằm trong khoảng từ 1,5
đến 2,5 có thể nhận ra bằng mắt thường bởi người
quan sát được đào tạo về nhận dạng màu. Trong
khi một người bình thường có thể nhận ra sự thay
đổi ∆E* từ 2,5 đến 3,5 đơn vị [4]. Johnson và Kao
đánh giá phương pháp so màu bằng mắt thường và
so màu bằng sắc kế đã đưa ra kết luận sự khác biệt
màu sắc có thể dễ dàng nhận biết bằng mắt thường
và được coi là không chấp nhận được trên lâm sàng
là trên 3,7 đơn vị [4]. Sau 1 ngày ngâm màu thực
phẩm, mẫu răng ở cả 3 nhóm có giá trị ∆E* là trà:
7,17 ± 1,96; cà phê: 5,37 ± 1,36; Coca: 5,88 ± 1,31,
các giá trị ∆E* này đều cao hơn 3.7 nghĩa là có sự
thay đổi màu sắc dễ dàng nhận thấy được bằng mắt
thường. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Attin T. và cs (2003) về ảnh hưởng của trà lên màu
của men răng vừa tẩy trắng, kết quả trên nhóm răng
bò không tẩy trắng và được ngâm trong trà 10 phút
cũng có giá trị ∆E* cao hơn 3,7 [3]. Một nghiên cứu
khác của Karadas M. và cs (2014) thực hiện nhiễm
màu thực phẩm trên mẫu răng người sau tẩy trắng,
ghị nhận giá trị ∆E* tăng < 3,7 sau ngâm màu lần
đầu 15 phút ở tất cả các nhóm, giá trị ∆E*> 3,7 ở
nhóm trà và Coca sau 6h nhiễm màu liên tục, trong
đó nhóm cà phê là sau 1 tuần nhiễm màu. Coca gây
nhiễm màu mạnh nhất sau 1 tuần và 1 tháng nhiễm
màu [10]. Kết quả của nghiên cứu này có sự khác
biệt với kết quả nghiên cứu của chúng tôi thực hiện
trên răng bò cho thấy sự nhiễm màu xảy ra sớm và
nhanh hơn, nhóm trà gây nhiễm màu mạnh nhất. Sự
khác biệt này có thể do sự khác nhau mẫu nghiên
cứu (răng bò và răng người đã tẩy trắng), phương
tiện đo màu (Crystaleye và Shadepilot), nguồn thực
phẩm nhiễm màu.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tất cả các dung dịch thực phẩm: trà, cà phê, Coca
đều gây nhiễm màu răng bò với các mức độ khác
nhau và tăng theo thời gian tiếp xúc giữa răng bò với
dung dịch thực phẩm, sự thay đổi chủ yếu là giảm
giá trị L*, giá trị a* và b* thay đổi tùy theo loại thực
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
phẩm. Tại 2 thời điểm đánh giá là 1 và 2 tuần, mức
độ nhiễm màu (∆E*) tăng dần theo thứ tự: Coca <
cà phê < trà. Sự thay đổi màu sắc của răng bò trong
quá trình nhiễm màu bằng ba loại thực phẩm có thể
nhận thấy dễ dàng trên lâm sàng ngay sau 1 ngày
ngâm mẫu.
Nghiên cứu được thực hiện trên răng bò đã nhổ
không phải là trên răng sống, với tính chất vật lí và
hóa học không hoàn toàn giống với răng người trên
lâm sàng, vì vậy sau nghiên cứu in vitro trên răng
động vật, cần thiết tiếp tục thực hiện nghiên cứu
trên răng người nhổ và trên lâm sàng sẽ để đánh giá
chính xác hơn.
Ngoài ra, sự nhiễm màu diễn ra ngoài môi trường
miệng, không chịu ảnh hưởng của các hoạt động
cơ học với tác dụng làm sạch tự nhiên như trong
miệng, do vậy cần có thêm chu kì cơ học để kết quả
sát với thực tế lâm sàng hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Tùng Lâm (2018), “Xác định màu sắc tự nhiên
trên nhóm sinh viên Đại học Y - dược Thái Nguyên bằng
máy quang phổ kế Crystaleye”, Tạp chí Y học Việt Nam,
469, tr. 147-153.
2. Alkhatib, M. N., Holt, R., and Bedi, R. (2004),
“Prevalence of self-assessed tooth discolouration in the
United Kingdom”, J Dent., 32(7), pp. 561-566.
3. Attin., T., et al. (2003), “Influence of tea on intrinsic
color of previous bleached enamel”, Journal of Oral
Rehabilitation., 30, pp. 488-494.
4. Bazzi, J. Z., et al. (2012), “The effect of at-home
bleaching and toothbrushing on removal of coffee and
cigarette smoke stains and color stability of enamel”, J Am
Dent Assoc., 143(5), pp. e1-7.
5. Brokos, Yiannis, et al. (2015), “Evaluation of enamel
thickness of upper anterior teeth in different age groups
by Dental Cone Beam Computed Tomography Scan in
vivo”, International Journal Of Advances In Case Reports,
2(23), pp. 1396-1409.
6. Cortes, Gabriel, Pini, Nubia Pavesi, and Lima, Debora
Alves Nunes Leite (2013), “Effect of coffee and red wine on
tooth color during and after bleaching”, Acta Odontologica
scandinavica, pp. 1-6.
7. Cynthia, Kassis (2015), “Extrinsic tooth discoloration,
an updated review”, Dental Tribune, pp. 6-10.
8. Ertas, Ertan, Guler, Ahmet Umut, and Yucel, Ali
Cagin (2006), “Color stability of resin composites after
immersion in different drinks”, Dental Materials Journal,
25(2), pp. 371-376.
9. Jo., Su-Yeon, Chong., Hyun-Jeong, and Lee, Eon-Hwa
(2013), “Effect of various toothpastes on remineralization
of white spot lesions”, The Korean Journal of Orthodontics,
44(3), pp. 113-118.
10. Karadas, M. and Seven, N. (2014), “The effect of
different drinks on tooth color after home bleaching”,
European Journal of Dentistry, 8(2), pp. 49-53.
11. Odaira, Chikayuki, Itoh, Sozo, and Ishibashi, Kanji
(2011), “Clinical evaluation of a dental color analysis
system: The Crystaleye Spectrophotometer”, Journal of
Prosthodontic Research, 55, pp. 199-205.
12. Odioso, L. L., Gibb, R. D. and Gerlach, R. W.
(2000), “Impact of demographic, behavioral, and dental
care utilization parameters on tooth color and personal
satisfaction”, Compend Contin Educ Dent suppl. 21(29),
pp. S35-41.
13. Pirolo, R., et al. (2014), “Effect of coffee and a cola-
based soft drink on the color stability of bleached bovine
incisors considering the time elapsed after bleaching”, J
Appl Oral sci., 22(6), pp. 534-540.
14. Sulieman, M. (2005), “An Overview of Tooth
Discoloration: Extrinsic, Intrinsic and Internalized Stains”,
Dent update., 32, pp. 463-471.
15. Um, C. M. and Ruyter, Eystein (1991), “Staining of
resin-based materials with coffee and tea”, Quintessence
international, 22, 377-386.
16. Watts, A. and Addy, M. (2001), “Tooth
discolouration and staining: a review of the literature”, Br
Dent J., 190(6), pp. 309-316.
17. Yassen, Ghaeth H., Platt, Jeffrey A., and Hara,
Anderson T. (2011), “Bovine teeth as substitute for human
teeth in dental research: a review of literature”, Journal of
Oral science, 53(3), pp. 273-282.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_su_nhiem_mau_thuc_pham_len_men_rang_nghien_cuu_in_v.pdf