Tiếp tục cung cấp các luận cứ khoa
học về bản chất, xu hướng và tác động
hội nhập.
Tiếp tục làm rõ các nhân tố và cơ chế
tác động của quá trình gia nhập WTO đối
với các vấn đề lao động và xã hội; Làm
rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
- việc làm - thu nhập - nghèo đói tại cấp
doanh nghiệp và cấp ngành.
Xây dựng phương pháp và khuyến
nghị hệ thống chỉ số dự báo tác động của
WTO đối với việc làm, giá cả, thu nhập
và đời sống của người lao động trong bối
cảnh hội nhập
Giám sát biến động lao động của nền
kinh tế, phát hiện các nút cổ chai về nhu
cầu người nhân lực; Cung cấp các định
hướng và giải pháp đổi mới hệ thống đào
tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, công nhân
quyết định.
Tiến hành đánh giá hiệu quả của
chính sách đào tạo nguồn nhân lực đối
với phát triển kinh tế, chính sách chương
trình xóa đói giảm nghèo; đánh giá tác
động của các chính sách hỗ trợ lao động
dôi dư, tạo việc làm. đối với khả năng
tái hòa nhập của thị trường lao động.
Tiến hành phân tích và dự báo đều
đặn các chỉ số cơ bản về thị trường lao
động, gắn với các chỉ số kinh tế vĩ mô./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 451 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tác động 3 năm gia nhập WTO đến lao động và xã hội và các định hướng trong thời kỳ tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 12 
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG 3 NĂM GIA NHẬP WTO 
ĐẾN LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI VÀ CÁC ĐỊNH 
HƯỚNG TRONG THỜI KỲ TỚI 
TS. Nguyễn Thị Lan Hương - ThS. Nguyễn Thị Thu Hương 
Viện Khoa học Lao động và Xã hội 
ăm 2007 Việt nam chính 
thức là thành viên thứ 150 
của Tổ chức Thương mại thế 
giới (WTO). Hội nhập đã tác động mạnh 
mẽ đến tăng trưởng kinh tế và các lĩnh 
vực lao động - xã hội của Việt Nam. 
Phần 1: Tác động của hội nhập đến lao 
động và xã hội thời kỳ 2007-2009 
1. Lực lượng lao động 
Thời kỳ 2007-2009 lực lượng lao 
động vẫn tăng khá nhanh, bình quân mỗi 
năm tăng gần 1,2 ngàn người (tuyệt đối), 
cao hơn thời kỳ 5 năm trước1, tuy tốc độ 
thấp hơn (2,59%/năm so với 2,66% của 5 
năm trước). 
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tiếp 
tục xu hướng tăng, từ 70,27% năm 2006 lên 
76,4% vào năm 2009, đặc biệt khu vực 
nông thôn tỷ lệ tham gia lao động tăng 7 
điểm phần trăm sau 3 năm, đạt 80,6% vào 
năm 2009. Xu hướng trên phản ánh những 
gì đã diễn ra trong thời kỳ 2007-2009. Theo 
đó, sự gia tăng tham gia TTLĐ là một trong 
những giải pháp đối phó với việc giảm thu 
nhập do tác động của khủng hoảng kinh tế. 
Hội nhập vẫn chưa tạo ra các tiền đề 
đáng kể để chuyển dịch cơ cấu lao động 
nông thôn. Trong 3 năm (2006-2009), tỷ 
lệ dân cư nông thôn giảm nhẹ (từ mức 
74,6% xuống còn 73,2%), tỷ lệ tham gia 
1
 Tại thời điểm điều tra 1/4/2009, cả nước có 49,1 
triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao 
động, chiếm 57,3% tổng dân số, bao gồm 47,6 triệu 
người có việc làm và 1,5 triệu người thất nghiệp. 
lao động nông thôn tăng lên một chút, 
đạt 80,6% vào năm 20092. Tuy nhiên, 
nhìn vào tỷ trọng của lao động nông 
thôn/tổng số tăng lao động thời kỳ sau 
2007, dự báo sẽ có sự biến chuyển lớn về 
cơ cấu lực lượng lao động trong những 
năm tiếp theo. 
Phân bố lực lượng lao động theo 
vùng có thách thức lớn3. Khu vực phía 
nam (đặc biệt là vùng Đông nam bộ nơi 
tập trung rất nhiều các khu công nghiệp 
và khu chế xuất) có nguy cơ thiếu nguồn 
lao động lâu dài (bao gồm cả kỹ năng và 
không kỹ năng) do nguồn cung lao động 
tại chỗ giảm và sự di chuyển của lao 
động di cư trở lại nông thôn do tác động 
khủng hoảng kinh tế trong năm 2008-
2009. Một trong những nguyên nhân là 
do các mức tiền lương trong khu vực 
phía nam thấp, không đủ sức hấp dẫn 
người lao động. Tuy nhiên, các vùng đất 
rộng tiếp tục chiếm tỷ trọng lao động 
thấp4, phân bố lao động chưa tạo điều 
kiện phát huy được lợi thế về đất đai, tạo 
việc làm cho người lao động, tạo ra sự 
dịch chuyển lao động ra thành thị để tìm 
kiếm các cơ hội việc làm và thu nhập. 
2
 Sự gia tăng tham gia thị trường lao động, theo 
nhiều nhà kinh tế là một trong những giải pháp đối 
phó với việc giảm thu nhập do tác động của khủng 
hoảng kinh tế. 
3
 Năm 2009, số liệu Tổng điều tra dân số; Số liệu 
các năm trước từ điều tra LĐVL, MOLISA và GSO 
4
 Vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 
13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên chiếm 
5,8% lực lượng lao động. 
N 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 13 
Trình độ chuyên môn kỹ thuật được 
cải thiện một bước. Năm 2006, tỷ lệ lao 
động qua đào tạo là 31,9%, đến năm 
2007, tỷ lệ này là 34,75%5. Đặc biệt, tỷ 
lệ lao động có trình độ đào tạo từ cao 
đẳng, đại học trở lên đã tăng nhẹ, từ 
5,74% năm 2006 lên 6,84% năm 20096. 
Nhìn chung, các diễn biến của 3 năm sau 
khi gia nhập WTO càng khẳng định một 
thách thức lớn về chất lượng nguồn nh
... 
2. Việc làm 
Trong mấy năm đầu gia nhập WTO, 
đã tạo thêm việc làm mới dù chưa đạt 
được kết quả mong đợi. Thời kỳ 2001-
2006, bình quân mỗi năm tăng trên 1,03 
triệu việc làm, thời kỳ 3 năm hội nhập 
mức tăng chỉ đạt 1,25 triệu một năm7. 
Tốc độ tăng bình quân tương ứng là 
1,86% và 1,82%. Đáng chú ý, trong năm 
2009, do tác đông của khủng hoảng kinh 
tế, mức tăng việc làm khá thấp, chỉ đạt 
375 ngàn, so với 1,13 triệu năm 20088. 
Chất lượng tăng trưởng từng bước 
được cải thiện9, tuy nhiên khả năng tạo 
5
 Theo số của MOLISA đến năm năm 2006, tỷ lệ 
lao động qua đào tạo là 31,9%, tăng lên 34,75% 
vào năm 2007. Từ năm 2007, điều tra LĐVL do 
GSO thực hiện, thì tỷ lệ lao động qua đào tạo lại 
thấp đi, chỉ có 25% lao động có CMKT vào năm 
2007. Một trong các nguyên nhân là định nghĩa và 
cách phân tổ không thống nhất giữa 2 cơ quan này. 
6
 Điều
hội nhập, trong thời kỳ đầu hội nhập, nguồn lao 
động kỹ thuật sẽ tăng lên nhanh chóng. Lao động 
kỹ thuật cũng có những biến đổi, 
7
 Đây là số liệu mức tăng tuyệt đối của kinh tế thị 
trường 
8
 Số liệu điều tra dân số 2009. 
9
 Năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) tăng 22,6% 
thời kỳ 1998-2002 lên 28,2% giai đoạn 2003 đến 
nay nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu 
vực. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng của của 
việc làm chưa cao và có xu hư ng 
giảm10, đặc biệt thấp so với các nước 
khác trong khu vực11, hiệu suất tạo thêm 
việc làm của nền kinh tế cũng có xu 
hướng giảm12. 
Mặc dù trên thị trường sức ép bố trí 
việc làm vẫn còn cao, cầu thị trường lao 
động có xu hướng giảm đi. Thời kỳ 
2006-2009, tốc độ tăng lao động giảm từ 
1,86% xuống 1,82% một năm. Trong 
năm 2009, do khủng hoảng kinh tế, mức 
tăng việc làm khá thấp, chỉ đạt 375 ngàn, 
so với 1,13 triệu năm 200813. Thời kỳ 
2007-2009, lao động nông thôn có bước 
đột phá quan trọng, mỗi năm chỉ tăng 
166 ngàn người so với mức 761 ngàn 
một năm thời kỳ 2001-200614, đạt điểm 
uốn thứ nhất (giảm số lượng việc làm cả 
tuyệt đối và tương đối vào năm 2010). 
Cơ cấu lao động theo 3 ngành kinh tế 
chính tiếp tục ổn định15. Cho đến năm 
Thái Lan và Đài Loan là khoảng 35-36%, của các 
nước phát triển dao động trong khoảng 60-75%. 
10
 Hệ số co giãn việc làm theo GDP trong thời kỳ 
2001-2007 ngày càng giảm, từ 0,37 năm 2001 
xuống 0,23 năm 2007. Tuy nhiên thời kỳ 2008-
2009, hệ số này không tuân theo qui luật bình 
thường. Do tốc độ tăng GDP giảm rất nhanh, hệ số 
co giãn việc làm theo GDP năm 2008 là 0,46 và 
năm 2009 là 0,47. 
11
 Theo Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Đề tài 
cấp Bộ, Mã số CB2007-01-02, 2009: “Hệ số co 
giãn việc làm trong thời kỳ 2000-2004 ở 
Bangladesh là 0,82, ở Nepal là 0,76 và ở Pakistan 
là 0,71; hay ở Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan 
trong những năm 70 và 80 và Indonesia trong 
những năm đầu 90 luôn duy trì trong khoảng 0,7 
đến 0,8”. 
12
 Đây là kết quả của chính sách chuyển đổi mục 
đích sử dụng đất nông nghiệp phục vụ chương trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các khu 
công nghiệp, khu chế xuất 
13
 Số liệu điều tra dân số 2009. 
14
 Năm 2008, việc làm nông thôn tăng 241 ngàn, 
chiếm 22,1% số việc làm tăng thêm của cả nước, 
mức tăng thêm năm 2009 rất thấp, chỉ đạt 90,0 
ngàn, chiếm 24,2% việc làm tăng thêm. 
15
 Đến năm 2008, chuyển dịch cơ cấu lao động khá 
thuận lợi. Lao động nông nghiệp đã giảm từ 54,7% 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 14 
2008, chuyển dịch cơ cấu lao động khá 
thuận lợi. Lao động nông nghiệp đã giảm 
từ 54,7% vào năm 2006, xuống 47,72% 
vào năm 2008. Tuy nhiên, do tác động 
của khủng hoảng kinh tế, năm 2009, tỷ lệ 
lao động trong nông nghiệp tăng mạnh 
trở lại, do tác động của việc cắt giảm lao 
động rất mạnh của ngành công nghiệp 
và xây dựng, và một phần của ngành 
dịch vụ. 
Theo nhóm nghề, gia nhập WTO mang 
lại cơ hội cho nghề yêu cầu kỹ năng, đặc 
biệt là lao động quản lý, dịch vụ và lao 
động kỹ thuật. Năm 2009, các nghề lao 
động giản đơn chỉ còn chiếm trên 40% lực 
lượng lao động16, tuy nhiên, cung đào tạo 
không theo kịp cầu đào tạo17. 
Khu vực FDI đã dần thay thế khu vực 
nhà nước trong tạo việc làm có chất 
lượng kỹ thuật. Lộ trình cổ phần hóa 
doanh nghiệp nhà nước và các cam kết 
của chính phủ, khiến cho số lượng doanh 
nghiệp nhà nước bị thu hẹp lại18. Cùng 
với dòng vốn chảy vào, khu vực đầu tư 
nước ngoài có những đóng góp rất đáng 
kể cho việc tạo việc làm. Tốc độ tăng 
vào năm 2006, xuống 47,72% vào năm 2008, và 
tăng lên trên 53% vào năm 2009 (tổng điều tra dân 
số). 
16
 Nhóm nghề tăng nhanh thuộc nhóm kỹ thuật bậc 
cao và bậc trung. Việc tiếp tục duy trì nhập siêu 
yêu cầu có lao động kỹ thuật tương ứng. Xuất nhập 
khẩu nông nghiệp tăng cũng làm gia tăng nhu cầu 
nhóm nghề có lao động kỹ thuật bậc trung. Đặc 
biệt, với việc mở cửa các ngành dịch vụ cá nhân 
ngân hàng, bảo hiểm.. tỷ trọng của nhóm nhân viên 
làm các nghề này đã tăng lên nhanh chóng. 
17
 Điều này hoàn toàn phù hợp với giả định về tác 
động của hội nhập lên tiền lương khi nguồn cung 
lao động kỹ thuật của quốc gia bị thiếu trong thời 
kỳ ngắn hạn. 
18
 Số lượng lao động làm việc trong khu vực nhà 
nước đã giảm tuyệt đối về số lượng kể từ năm 
2009, từ 4,84 triệu người vào năm 2006 xuống còn 
4,57 triệu người vào năm 2009. Kết quả, tỷ trọng 
việc làm trong khu vực nhà nước có xu hướng thu 
hẹp từ khi vào WTO, giảm từ 10,56% năm 2006 
xuống còn 9,6% năm 2009. 
việc làm của khu vực FDI rất cao, sau 
khi vào WTO còn cao hơn (từ 13,98% 
thời kỳ 2000-2006 lên mức 16,4% thời 
kỳ hội nhập. Sự có mặt của khu vực này 
đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao 
động từ nông thôn ra thành thị, đặc biệt 
là vào các khu chế xuất, khu công nghiệp 
lớn. chiếm 3,4% trong tổng số việc làm 
năm 2009. 
Khu vực kinh tế tư nhân, tăng rất 
chậm, đặc biệt nếu so với tốc độ tăng 
trưởng kinh tế của khu vực này. Sau gần 
10 năm, số lượng lao động làm việc 
trong khu vực này không tăng lên đáng 
kể, chỉ chiếm khoảng 6-8% việc làm. Dù 
năm 2007 khu vực này phát triển nhanh 
với gần 1 triệu việc làm mới được tạo ra, 
tuy nhiên khủng hoảng tài chính năm 
2008 đã khiến cho lao động bị giảm và 
bước đầu phục hồi vào năm 2009. Do 
đặc điểm nhỏ bé, khu vực kinh tế tư nhân 
của Việt nam đặc biệt nhạy cảm với các 
biến động bên ngoài. 
Khu vực kinh tế phi chính thức, bao 
gồm hộ gia đình không trả lương và tự 
làm, vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao và vẫn 
tiếp tục tăng sau khi vào WTO, mặc dù 
tăng chậm đi (1,31%/năm thời kỳ 2006-
2009 so với mức 2,46%/năm thời kỳ 
2003-2006). Đặc biệt, khủng hoảng thời 
gian qua cho thấy, đây chính là chỗ đệm 
cho lao động trong khu vực chính thức, 
làm tỷ lệ thất nghiệp của Việt nam chỉ 
tăng rất chậm. Đến năm 2009, đa số lao 
động (trên 80%) vẫn làm việc trong khu 
vực này. 
Tỷ trọng việc làm của lao động nữ 
trong lực lượng lao động có xu hướng 
giảm dần, phản ánh mô xu thế sinh của 
Việt nam với tỷ lệ trẻ em gái giảm dần. 
Năm 2009, cả nước có 22,876 ngàn lao 
động nữ, chiếm 48%19. Tốc độ tăng việc 
19
 TCTK: Kết quả tổng điều tra dân số 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 15 
làm của nữ khá thấp và thấp hơn rất 
nhiều so với trước khi hội nhập20. 
Lao động nữ vẫn chiếm ưu thế trong 
các nghề đơn giản21. Tỷ lệ lao động nữ 
giảm dần theo nhóm nghề và đạt mức 
thấp nhất ở nhóm lãnh đạo. Cơ hội việc 
làm cho lao động nữ trong khu vực đầu 
tư nước ngoài khá lớn, cho thấy khả năng 
mở rộng việc làm cũng như tăng thu 
nhập của phụ nữ tốt hơn so với nam giới. 
3. Tiền lương và thu nhập22 
Mặc dù có những biến động rất lớn 
về kinh tế và việc làm thời kỳ 2007-
2009, mức sống của người dân ở cả nông 
thôn và thành thị được cải thiện23. Thu 
nhập bình quân lao động thời kỳ 2006-
2008 tăng rất nhanh (21,9%/năm so với 
mức 11,2% thời kỳ 2002-2006), mặc dù 
giảm nhẹ vào năm 200924. Tuy nhiên, do 
tốc độ lạm phát khá cao, nên thu nhập 
thực tế của người lao động được cải thiện 
một phần, đặc biệt của nhóm lao động 
làm công ăn lương 
20
 Số liệu chưa tin cậy, mặc dù từ tổng điều tra dân 
số, 2009. 
21
 Có đến 44% làm các nghề giản đơn (so với 
36,9% của nam giới) 
22
 Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hội nhập tạo điều 
kiện doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật dẫn đến tăng 
tiền lương bình quân. Tuy nhiªn, do hệ thống đào 
tạo kém linh hoạt, không có khả năng đáp ứng nhu 
cầu lao động kỹ năng tăng nhanh, do vậy sẽ làm gia 
tăng sự chênh lệch tiền lương giữa lao động có kỹ 
năng và không có kỹ năng. Ngoài ra sự kém linh 
hoạt của thị trường lao động sẽ dẫn đến gia tăng 
tiền lương giữa các ngành, nghề, khu vực. 
23
 Nguyên nhân bao gồm: Các điều chỉnh tiền 
lương tối thiểu (từ 180.000 đồng vào cuối năm 
2000 lên 350 ngàn đồng năm 2005, 450 ngàn đồng 
năm 2006, 630 ngàn đồng năm 2007) cũng như 
việc triển khai các chương trình phát triển nông 
nghiệp và nông thôn, chương trình tạo việc làm và 
xóa đói giảm nghèo. 
24
 Thời kỳ 2002-2006, tốc độ tăng giá tiêu dùng/ 
năm đạt thấp (6%), so với năm 2007 (12,63%), năm 
2008 (23%) và năm 2009 (9,5%). 
. 
12,6%. Mức độ chênh 
lệch tiền lương tuyệt đối, tiền lương giữa 
nhóm cao nhất (lao động quản lý) và lao 
động phổ thông có xu hướng gia tăng25, 
phản ánh sự thiếu hụt lao động có kỹ 
năng của Việt nam, đặc biệt lao động 
quản lý, chuyên gia cao cấp và công 
nhân kỹ thuật. 
Khoảng cách giới về tiền lương thu 
hẹp đáng kể, tuy nhiên phụ nữ vẫn thu 
nhập khá thấp. 
CMKT cao hơn. 
Khu vực nhà nước có mức tăng tiền 
lương nhanh. Mức tiền lương của lao 
động khu vực kinh tế tập thể và doanh 
nghiệp nhà nước tăng cao, đạt mức 
tương ứng 33,3%/năm và 23,3%/năm. 
Khu vực tăng thấp nhất là FDI, phản ánh 
một phần nguyên nhân đình công trong 
khu vực này26. 
25
2,16 lần năm 2002, giảm xuống còn 1,96 lần năm 
2004 và tăng nhanh lên 2,3 lần năm 2006. Trong 
đó, tiền lương của CNKT vẫn tăng với tốc độ cao 
nhất, tiếp đó là nhóm quản lý và chuyên gia cao 
cấp. Nhóm lao động phổ thông chỉ tăng mức 
17%/năm. Kết quả, khoảng cách tiền lương giữa 
các nhóm nghề có xu hướng gia tăng. Tiền lương 
của nhóm lao động quản lý, chuyên gia cao cấp có 
mức thu nhập bình quân gấp 2,7 lần so với nhóm 
lao động phổ thông. 
26
 Về giá trị tuyệt đối, đến năm 2008, doanh nghiệp 
nhà nước đã vượt khu vực FDI, đạt mức gần 2,2 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 16 
Thu nhập của lao động trong nông, 
lâm nghiệp bị tụt hậu. Lao động ngành 
nông, lâm nghiệp có thu nhập thấp nhất 
và ngày càng có bị tụt hậu27 (ngoại trừ 
ngành ngư nghiệp có mức thu nhập khá 
và tốc độ tăng cũng khá cao). Các ngành 
xã hội (giáo dục và y tế, quản lý nhà 
nước, hoạt động xã hội..) có mức tăng 
thấp so với các ngành sản xuất, chế tạo, 
xây dựng. 
4. Thất nghiệp28 
4.1. Qui mô và thành phần người bị 
thất nghiệp 
Năm 2007, ngay sau khi gia nhập 
WTO, số lượng người thất nghiệp là 
1,031 ngàn, giảm 155 ngàn người so với 
năm 2006. Tuy nhiên, trong các năm tiếp 
theo, số lượng người thất nghiệp đã gia 
tăng nhanh chóng: tăng thêm 59 ngàn 
người (2008), thêm 420 ngàn/người 
(2009). Tổng số có 1.509 ngàn người thất 
nghiệp29. Số người bị mất việc chủ yếu 
thuộc các doanh nghiệp làm hàng xuất 
triệu/lao động/tháng, tăng 9,3 lần so với năm 2006. 
Mức độ chêch lệch của tiền lương giữa khu vực này 
với lao động làm việc hộ gia đình có xu hướng gia 
tăng, đạt 1,82 lần. 
27
 Đến năm 2006, ngành có mức thu nhập cao nhất 
(mỏ và khai thác) có mức thu nhập gấp 2,43 lần so 
với lao động ngành nông, lâm ngư. Sau khi hội 
nhập, thu nhập của ngành này tăng lên 2,91 lần. 
28
 Kết quả của các nước đi trước cho thấy, hội nhập 
WTO có thể vừa làm mất việc làm vừa tạo ra việc 
làm. Trong giai đoạn cải cách kinh tế, tốc độ mất 
việc làm thường cao hơn so với tốc độ tạo việc làm, 
vì vậy, sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Hơn nữa, việc 
mở cửa tham gia vào thị trường quốc tế có thể làm 
tăng mức độ các biến động kinh tế vĩ mô. Những 
bất ổn về tỷ giá, và các luồng vốn đầu tư làm tăng tỉ 
lệ thất nghiệp. Thậm chí nếu tỉ lệ thất nghiệp trung 
bình không thay đổi trong suốt cả chu kỳ kinh 
doanh thì tỉ lệ thay đổi nhân viên có thể tăng và 
cùng với nó là cảm giác không bảo đảm về kinh tế. 
Thanh niên rất dễ rơi vào vòng thất nghiệp do bản 
thân họ không có kinh nghiệm và trình độ đào tạo 
thấp. 
29
 Kết quả này phù hợp với dự báo của một số nhà 
kinh tế năm 2008 
khẩu như may, mặc, giày da, hàng thủ 
công mỹ nghệ. 
Thời kỳ 2007-2009, số người bị thất 
nghiệp tăng 160 ngàn người, Năm đầu 
tiên của hội nhập có tác động tốt đối với 
phụ nữ khi số lao động nữ, số bị thất 
nghiệp giảm trên 66,5 triệu người. Tuy 
nhiên, trong thời kỳ 2008-2009, số lao 
động nữ bị thất nghiệp tăng lên rất 
nhanh, tăng trên 52 ngàn người năm 
2008 và khoảng 56 ngàn người năm 
2009. Nguyên nhân do lao động nữ 
chiếm tỷ lệ cao trong các doanh nghiệp 
xuất khẩu cao, bị tác động nhiều của 
khủng hoảng kinh tế . 
Đáng chú ý là số lượng lao động 
nông thôn bị thất nghiệp đã tăng rất 
nhanh, từ mức 47,7% năm 2006 lên đến 
58% năm 2009; đặc biệt sau thời kỳ gia 
nhập WTO do các tác động đồng thời 
của việc giảm đất canh tác và mất việc 
làm do tác động của khủng hoảng kinh 
tế30 cũng như các khó khăn của lao động 
nông thôn khi tìm việc làm tại hoặc tại 
đô thị do trình độ tay nghề kém. 
Thanh niên chiếm tỷ lệ cao trong số 
những người thất nghiệp31. Đây là một 
bài toán rất khó giải, đặc biệt đối với 
nhóm thanh niên nông thôn không có 
trình độ đào tạo. 
Có tới trên 1/3 số người thất nghiệp 
có trình độ từ trung học phổ thông trở 
30
 Xu hướng một bộ phận lao động bị mất việc làm 
trong các nhà máy xí nghiệp đành quay về chia sẻ 
việc làm trong nông nghiệp xuất hiện từ năm 2008, 
song có xu hướng tăng lên trong năm 2009. Mặc 
dù có thể đây chỉ là hiện tượng tạm thời, song sự 
dồn nén lao động trong khu vực nông nghiệp đang 
đặt ra nhiều vấn đề xã hội khác như thiếu việc làm 
và nghèo đói. 
31
 Năm 2009, trong hơn 1,5 triệu lao động thất 
nghiệp, số người thất nghiệp trẻ tuổi (từ 15-29 tuổi) 
chiếm một nửa (49,3%), so với tỷ trong 37,5% của 
nhóm dân số từ 15-29 trong tổng lực lượng lao 
động cả nước. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 17 
lên, cho thấy vấn đề quan trọng của kết 
nối giữa giáo dục và việc làm. Tại Việt 
Nam, xu hướng gần đây cho thấy, thanh 
niên có trình độ học vấn càng cao thì 
càng có xu hướng tìm một công việc phù 
hợp càng nhiều, đặc biệt đối với những 
người tốt nghiệp đại học. 
4.2. Tỷ lệ thất nghiệp 
Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước 
có xu hướng tăng, đặc biệt là sau khi hội 
nhập, đạt mức 2,91% vào năm 200932. Tỷ 
lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn tăng 
lên rất nhanh, từ 1,49% năm 2006 lên đến 
2,25% năm 2009, là những thách thức rất 
lớn đối với bố trí việc làm cho lao động 
nông thôn trong thời kỳ tiếp theo. 
Tỷ lệ thất nghiệp chung của nữ cũng 
tăng nhanh, từ 2,19% năm 2006 lên 
2,93% năm 2009. 
5. Nghèo đói và dễ bị tổn thương33 
Số liệu thống kê cho thấy, thu nhập 
bình quân đầu người đã tăng từ 416 USD 
năm 2001 lên 1064 USD vào năm 2009, 
cho thấy kinh tế Việt nam đã hướng vào 
người nghèo34. Kết quả, tỷ lệ dân số sống 
trong nghèo đói đã giảm từ 17,22% năm 
2006, xuống còn 11,3% năm 200935 (đạt 
kế hoạch Quốc hội, Chính phủ giao), 
trong đó: Đông Bắc bộ 16,62%; Tây Bắc 
bộ 24,75%; Đồng bằng Sông Hồng 
32
 Điều này hoàn toàn phù hợp với các dự báo về 
tác động tiêu cực của quá trình gia nhập WTO và 
phản ánh những biến động của thị trường lao động 
trong năm 2009, khi có số lượng lớn người lao 
động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế 
xuất bị mất việc làm. 
33
 Tự do hóa thương mại tác động trực tiếp đến 
nghèo đói thông qua 3 kênh khác nhau: a) thay đổi 
giá hàng hóa và dịch vụ; b) ảnh hưởng đến lợi 
nhuận và do đó tác động đến tiền lương và việc 
làm; c) thay đổi vị thế tài khóa của chính phủ. 
34
 BCHTW Đảng, Báo cáo tổng kết tình hình kinh 
tế xã hội 10 năm (2001-2010), 2010 
35
 Số liệu của Bộ LĐTBXH. Số liệu của TCTK có 
chênh một chút song xu thế tương tự 
6,46%; Bắc Trung bộ 18,08%; Duyên hải 
Miền Trung 11,99%; Tây Nguyên 
13,34%; Đông Nam bộ 3,59%; Đồng 
bằng sông Cửu Long 8,7% . 
Tình trạng dễ bị tổn thương có xu 
hướng tăng lên. Theo dự kiến, gia nhập 
WTO sẽ tăng cường cơ hội, song mở 
rộng sự khác
36
D
bi
-
. 
Đô thị hóa m
trư . 
6. Quan hệ lao động 
Tranh chấp và đình công có xu 
hướng gia tăng mạnh trong thời gian kể 
từ năm 2006, song đặc biệt tăng nhanh 
trong 2 năm 2007 và 200837. Trong năm 
2008, cả nước có 720 cuộc đình công, 
gấp 4,7 lần so với năm 2005 và gấp hơn 
10 lần so với năm 2000, chủ yếu trong 
khu vực FDI và có xu hướng ng y một 
36
ng , 2006 
37
 Nguồn số liệu đình công của Bộ LĐ-TB-XH, 
năm 2000-2008. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 18 
tăng. Tuy nhiên, đến năm 2009, thì số vụ 
đình công giảm hẳn, chỉ còn 216 vụ. 
Một trong những thách thức là tạo 
lập môi trường lành mạnh, bảo vệ tốt 
hơn cả lợi ích của người lao động và 
người sử dụng lao động. Trong thực tế, 
thoả ước tập thể không theo kịp với các 
thay đổi nhanh chóng của thị trường lao 
động. Các tổ chức công đoàn cơ sở gặp 
nhiều khó khăn trong việc bảo đảm các 
quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là 
vấn đề thỏa thuận c c mức tiền lương và 
các điều kiện lao động. Cơ chế thoả 
thuận tiền lương, 2 bên tại cấp doanh 
nghiệp và ngành, 3 bên cấp vĩ mô chưa 
được hình thành (mặc dù đã có quyết 
định của Chính phủ thành lập Uỷ ban 3 
bên về quan hệ lao động đặt tại Bộ 
LĐTBXH từ năm 2008) 
Phần II: Tiếp tục nâng cao hiệu quả 
của hội nhập và giảm thiểu các tác 
động tiêu cực về lao động và xã hội 
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, việc 
tham gia sâu vào hội nhập kinh tế và quốc 
tế trong thời gian qua đã tạo điều kiện để 
Việt nam đạt được những thành thành quá 
kinh tế và xã hội trong thời kỳ trước khi 
hội nhập, và điều này tạo điều kiện cho các 
quốc gia tăng trưởng cao hơn, thực hiện 
các chính sách và mục tiêu xã hội tốt hơn. 
Mở cửa càng cao, cơ hội càng lớn để giải 
quyết các vấn đề kinh tế xã hội đối với các 
nước đang phát triển. 
Tuy nhiên, do tác động của khủng 
hoảng kinh tế năm 2008 và 2009, các kết 
quả khá mong manh, và đòi hỏi vào khả 
năng của chính phủ trong việc đồng thời 
tiếp tục cải cách thể chế kinh tế, xã hội, 
cũng như nâng cao năng lực nhận biết và 
thích ứng của các quốc gia. 
Hơn nữa, Việt nam sẽ có nguy cơ cao 
rơi vào “bẫy chi phí lao động thấp”, và ở 
thứ bậc thấp trong chuỗi giá trị gia tăng 
toàn cầu nếu tiếp tục phát triển dựa vào 
xuất khẩu tập trung vào một số sản phẩm 
của các ngành với trình độ công nghệ sử 
dụng nhiều lao động, trình độ chuyên 
môn kỹ thuật thấp. 
1. Tiếp tục cải thiện thể chế thị 
trường nói chung và hoàn thiện các 
khung pháp lý thúc đẩy sự phát triển 
của thị trường lao động, đặc biệt, các 
chính sách về tiền lương, BHXH, hợp 
đồng lao động... 
Tiếp tục hoàn thiện các thể chế, chính 
sách theo hướng tăng khả năng linh hoạt 
của thị trường lao động; tiếp tục tập 
trung phát triển thị trường lao động, hỗ 
trợ chuyển dịch cơ cấu lao động nông 
thôn sang các ngành, lĩnh vực có năng 
suất cao hơn thông qua các chính sách 
tạo việc làm, khuyến khích khả năng tạo 
việc làm và việc làm tốt trong khu vực 
FDI, khu vực ngoài nhà nước. 
Tổ chức tốt các chương trình việc 
làm tạm thời để hỗ trợ lao động bị mất 
việc làm do khủng hoảng kinh tế, hoặc 
mất việc làm hàng loạt. 
Các chính sách hỗ trợ/khuyến khích 
các ngành sử dụng nhiều lao động, đặc 
biệt lao động kỹ năng thấp. Hỗ trợ kịp 
thời cho các ngành sử dụng nhiều lao 
động nữ, lao động di cư đến các khu 
công nghiệp, khu chế xuất; hỗ trợ người 
dân nông thôn di chuyển tìm việc làm, 
xuất khẩu lao động và di chuyển thể 
nhân tìm việc làm. 
Điều chỉnh tiền lương tối thiểu theo 
mức tăng giá cả. Phấn đấu hội nhập tiền 
lương tối thiểu giữa 2 khu vực trong 
nước và nước ngoài vào năm 2020. Cải 
thiện cơ bản quan hệ phân phối, đặc biệt 
chính sách tiền lương trong khu vực nhà 
nước và lao động có kỹ thuật cao. 
2. Phát triển hệ thống thông tin về thị 
trường lao động 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 22/Quý I- 2010 
 19 
Tăng cường hệ thống đánh giá nhanh 
nhu cầu TTLĐ làm căn c để đưa ra các 
quyết định đào tạo; phát triển mạnh mẽ 
hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm để 
bảo đảm nối cung cầu lao động. Phát 
triển hệ thống tư vấn hướng nghiệp để 
nâng cao khả năng có việc làm cho lao 
động trẻ, thực hiện thành công chính 
sách phân luồng trong giáo dục. 
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của 
lao động Việt nam 
Cần có các giải pháp chuyển dần từ 
lợi thế lao động rẻ, sang lao động có 
năng suất cao, điều kiện làm việc tốt hơn. 
Tập trung nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực thông qua phát triển hệ thống 
giáo dục phổ thông và đào tạo dạy nghề, 
đặc biệt là nhân lực có kỹ năng cao trong 
các ngành xuất, nhập khẩu, sản xuất, 
dịch vụ mũi nhọn. Chú trọng hỗ trợ đào 
tạo nghề cho nhóm lao động đặc thù: lao 
động di cư, lao động làm việc trong nông 
nghiệp, nông thôn bị mất đất, lao động 
nghèo, thanh niên. 
4. Nâng cao chính sách an sinh xã hội, 
hỗ trợ kịp thời các nhóm yếu thế trên 
thị trường lao động 
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội 
toàn dân, nhiều tầng, linh hoạt và hiệu 
quả. Phát triển các chương trình an sinh 
xã hội đối với các đối tượng thu nhập 
thấp, bị tác động tiêu cực. 
Nâng cao tính an sinh việc làm, bảo 
đảm các quyền lợi cơ bản của con người 
trong cuộc sống và tại nơi làm việc. Bảo 
vệ các nhóm yếu thế trong TTLĐ, đặc 
biệt là nhóm nông dân bị mất đất, lao 
động di cư, lao động nữ, người nghèo, 
người tàn tật. Hỗ trợ người lao động tiếp 
cận đến hệ thống an sinh xã hội. 
Nâng cao hiệu quả sử dụng các quĩ 
hỗ trợ dôi dư đối với lao động bị mất 
việc làm trong khu vực nhà nước. Các 
chính sách đào tạo và đào tạo lại cho lao 
động bị dôi dư, lao động bị mất đất, mất 
việc làm để tái hòa nhập vào thị trường 
lao động. 
5. Tiếp tục cung cấp các luận cứ khoa 
học về bản chất, xu hướng và tác động 
hội nhập. 
Tiếp tục làm rõ các nhân tố và cơ chế 
tác động của quá trình gia nhập WTO đối 
với các vấn đề lao động và xã hội; Làm 
rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế 
- việc làm - thu nhập - nghèo đói tại cấp 
doanh nghiệp và cấp ngành. 
Xây dựng phương pháp và khuyến 
nghị hệ thống chỉ số dự báo tác động của 
WTO đối với việc làm, giá cả, thu nhập 
và đời sống của người lao động trong bối 
cảnh hội nhập 
Giám sát biến động lao động của nền 
kinh tế, phát hiện các nút cổ chai về nhu 
cầu người nhân lực; Cung cấp các định 
hướng và giải pháp đổi mới hệ thống đào 
tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, công nhân 
quyết định. 
Tiến hành đánh giá hiệu quả của 
chính sách đào tạo nguồn nhân lực đối 
với phát triển kinh tế, chính sách chương 
trình xóa đói giảm nghèo; đánh giá tác 
động của các chính sách hỗ trợ lao động 
dôi dư, tạo việc làm... đối với khả năng 
tái hòa nhập của thị trường lao động. 
Tiến hành phân tích và dự báo đều 
đặn các chỉ số cơ bản về thị trường lao 
động, gắn với các chỉ số kinh tế vĩ mô./. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_tac_dong_3_nam_gia_nhap_wto_den_lao_dong_va_xa_hoi.pdf